phan-tich-nhan-vat-ho-trong-truyen-doi-thua-cua-nam-cao

Phân tích nhân vật Hộ trong truyện Đời Thừa của Nam Cao

Nhân vật Hộ trong truyện “Đời Thừa” của Nam Cao

  • Mở bài:

Trong vườn hoa văn học Việt Nam giai đoạn từ 1930-1945 rực dỡ đã nổi bật lên một đóa hoa ngào ngạt sắc hương mang tên Nam Cao. Bằng ngòi bút đậm chất nhân văn và nhân đạo của mình Nam Cao đã viết lên một “Đời Thừa”, khắc họa nên một nhà văn.

  • Thân bài:

Hộ nghèo với tinh thần yêu nghệ thuật nồng nàn nhưng lại bị giằng xé nội tâm một cách đau đớn. Cùng giở lại những trang sách, nhìn lại những nhân vật Hộ đáng thương để hiểu hơn tấn bi kịch của anh và cũng chính tấn bi kịch tinh thần của trí thức trước Cách Mạng Tháng Tám. Nhà văn Hộ sống quằn quại, đau khổ trước sự nghiệp dở dang vì nỗi lo cơm áo gạo tiền. Anh mong muốn đem ánh sáng vào nghệ thuật bằng chính trái tim đầy nhiệt huyết nhưng cuối cùng phải sống trong bóng tối vô danh, một cuộc sống ê chề, thừa thải, chán ngấy.

Đã bao lần anh muốn bứt khỏi cuộc sống đời thường để cống hiến cho văn chương nhưng cũng bấy nhiêu lần anh thất bại cũng như đối với gia đình anh không thể quay lưng với vợ hiền con thơ. Tấn bi kịch nội tâm của Hộ cũng là những trí thức đương thời. Hộ muốn sống vì nghệ thuật, sống cho nghệ thuật nhưng chỉ vì những lo lắng về vật chất đã ghì sát đất khiến anh bị giằng xé đau đớn đến quyết liệt, hủy đi khát khao văn chương và tình yêu thương con người. Thế nhưng anh vẫn cố gắng giữ lối sống, lẽ sống nhân đao của mình.

Bi kịch của Hộ trước hết là bi kịch văn chương. Anh ôm ấp hoài bão về sự nghiệp, đối với anh “nghệ thuật là tất cả”. Anh khinh thường những tủn mủn về vật chất: “ đói rét không có nghĩa gì đối với gã trẻ tuổi say mê lý tưởng”. Anh luôn mơ ước về một tác phẩm để đời “phải làm mờ hết những tác phẩm cùng ra một thời”. Anh phải đạt được giải Nobel, làm sáng danh của anh, rạng rỡ nền văn học nước nhà. Đó là những ước mơ tươi đẹp, trong sáng, là hoài bão của anh, là khát vọng của anh. Anh quan niệm về văn chương rất đúng đắn. Với anh “sự cẩu thả trong văn chương thì thật đê tiện”, “văn chương không cần những người thợ khéo tay làm theo mẫu đưa cho”, và nó “đòi hỏi sự đào sâu, sáng tạo…”.

Thế nhưng cuộc đời có bao giờ như người ta mong muốn, khát khao. Anh nhận xét về văn chương đúng lắm, sâu lắm thế nhưng anh đã viết những gì. Anh “cho in những cuốn văn viết vội vàng”,”gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông trến một thứ văn quá ư bằng phẳng, dễ dãi”. Cũng như trong Giăng sáng với nhà văn Điền, “nghệ thuật không là ánh trắng lừa dối, nghệ thuật là những tiếng kêu đau khổ từ những kiếp lầm than”, nó không là “ánh sáng xanh huyền ảo”. Hộ không mơ mộng về công danh, anh muốn viết những gì có giá trị để đời thế nhưng đã phản bội lương tâm nghề nghiệp của mình. “Cơm áo không đùa với khách thơ”( X.Diệu). Cuộc sống mà đủ lo cơm áo cũng đủ mệt, trong đầu anh toàn những tính toán, lo toan cho những chi tiêu hằng ngày thì làm sao sáng tạo được. Anh càng ước mơ cho một cuộc sống như thế thì càng rơi vào bi kịch tinh thần đau đớn.

Giá như anh không có những giấc mộng văn chương thì anh đâu đau khổ đến thế mà nếu như anh cứ được bay mãi với giấc mộng thì anh cũng không bị giằng xé đến thế này. Nhưng “đau đớn thay cho những kiếp sống muốn bao cao nhưng bị cơm áo ghì sát đất” (Sống mòn), “Văn chương hạ giới rẻ như bèo” (Tản Đà) mà anh lại gánh cả gia đình trên vai thế này thì “bay” là sao được.

Bi kịch giấc mộng văn chương có phần đau khổ đẩy anh vào mộ đời thừa. Anh phải viết ngược lại với những gì mình mong muốn, thề nhưng dù là trái với đạo đức nghề nghiệp nhưng anh lại thuận với gia đình. Những cuốn văn viết vội vã đã nuôi sống vợ anh, con anh và chính anh khỏi chết đói. Đó là một chút ý nghĩa còn lại, một chút có ích của cuộc sống “Đời thừa”. Nguyên tắc về tình thương có lẽ là sợi dây níu giữ anh lại. Anh hy vọng vào sự ôm ấp lòng thương người có thể khiến anh không trở thành vô nghĩa. Anh thừa thải trong xã hội nhưng là nguồn sống của Từ, của gia đình. Anh cưu mang đời Từ, một người đàn bà bị phụ tình với đứa con mới sinh. Có lẽ bởi cái lẽ sống “kẻ mạnh là kẻ giúp kẻ khác trên đôi vai mình”, một lý tưởng sống cao đẹp.

Thế nhưng chính bản thân anh cũng giết chết phần người nhất trong con người của anh. Anh nghĩ cạn quá khi xem chính gia đình là nguyên nhân cho cái bi kịch vỡ mộng sự nghiệp. Nào có phải thế đâu, Từ đảm đang, hiền thế cơ mà. Xã hội, chính xã hội “chó đểu” lúc bấy giờ là ngọn nguồn xuất phát bao đau khổ. Xã hội đã không đánh giá đúng tài năng và vì xã hội đã làm nghèo ngày càng nghèo, bị áo cơm ghì chặt đến nghẹt thở.

Quá bế tắc, Hộ tìm đến rượu. Anh không say trong men rượu, men tình mà anh chết trong rượu. Rượu khiến anh trở thành vũ phu, vô học. Nó đáng đồng kẻ tốt người xấu , kẻ giàu, người nghèo . Rượu không giúp anh tìm thấy tình cảm như Chí Phèo mà nó hành hạ anh, đưa anh đến lối cùng. Bi kịch đau đớn nhất chính là anh đã vi phạm nguyên tắc tình thương cao cả do mình đặt ra. Đó thực sự là nỗi đau không gì sánh được. Trước bi kịch trong sự nghiệp, nhà văn Hộ cảm thấy ray rứt. Cũng như Chí Phèo gieo rắc tội lỗi của mình trong làng Vũ Đại, thầy giáo Thứ đưa vào đầu học sinh những thứ chán nản thì Hộ đã gieo những tình cảm rất nông , rất nhẹ, đưa đến người đọc những bài viết mà người ta đọc rồi quên ngay sau lúc ấy.

Ray rứt đau khổ vì không tròn với lương tâm nhưng trước bi kịch của gia đình trái tim anh vỡ vụn. Quá đau khổ vì lẽ sống không còn. Hộ đi vào đường cùng. Nam Cao khắc họa nên Hộ một nhà văn chịu bao đau khổ bởi tấn bi kịch nội tâm qua đó cũng chính là tấn bi kịch của trí thức đương thời. Nhân vật Hộ đã thay Nam Cao bộc lộ tư tưởng nhân đạo mới mẻ, sâu sắc hay cao hơn là cảm hứng nhân văn. Hộ đã bộc lộ nên những giá trị vật chất bên trong con người từ đó mà Nam Cao đã ca ngợi, yêu thương, bảo vệ cho những kiếp sống đáng thương và đấu tranh cho hạnh phúc của họ, để họ sống với lẽ sống nhân đạo của mình. Cũng có ý kiến cho rằng Hộ là Nam Cao nhưng với tôi không phải vậy. Nam Cao và Hộ không giống hoàn toàn. Thật sự Nam Cao từng chịu nỗi lo cơm áo như Hộ nhưng ông không phải “đỏ mặt”, “tức giận” vì những bài viết mang tên mình. Như Chí Phèo, Đời thừa, Đôi mắt,…

Nam Cao đã rất thành công khi viết Đời thừa. Đó là nơi mà tài năng nghệ thuật của ông nảy nở. Nam Cao đã bộc lộ gợi nên những tư tưởng nhân văn của mình một cách mới mẻ mà sâu sắc. Có thể nói Nam Cao đã làm đúng tưởng “văn học là nhân học”, ông đã tôn lên vẻ đẹp nhân bản qua những tác phẩm để đời của mình. Đồng thời nó cũng đậm chất nhân văn vì ông đã thay họ đứng lên đấu tranh để bảo vệ quyền sống, lẽ sống, khát vọng , ước mơ cao đẹp. Đó là những nổi bật có giá trị của Nam Cao về mặt tư tưởng trong các tác phẩm nói chung và trong “Đời thừa” với nhân vật Hộ với bi kịch tinh thần nói riêng.

  • Kết bài:

Nếu Chí Phèo kết thúc với cảnh Thị Nở thoáng thấy cái lò gạch vắng kẻ lại qua, thì nhân vật Hộ trong Đời thừa cũng không khá hơn mấy. Không ai biết được sẽ có một Chí Phèo con ra đờn hay không và cũng không ai biết được sau tiếng khóc, tiếng nấc của Hộ anh sẽ hạnh phúc trong cuộc sống của mình: Tất cả là bởi cái xã hội đương thời bóp chết cái ước mơ tốt đẹp của con người, những nhà văn không được viết theo ý của mình và họ muốn sống tốt cũng không được. Thật đau khổ vì họ biết tại sao mình khổ nhưng không thể thoát ra và Nam Cao đã giúp họ nói lên tất cả , vạch trần cái xã hội giết chết trí thức đương thời. “Tiếng hát đi từ trái tim lên miệng”.


Bài tham khảo:

Hộ – Nhân vật tự ý thức : Một cuộc giải phẫu về nhà văn và nghề văn của Nam Cao

Bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ trong Đời thừa là bi kịch của một nhà văn – một trí thức giữa “cơn dâu bể” của cuộc đời, giữa một xã hội “chó đểu” (Vũ Trọng Phụng) – Nhà văn ấy giữ được phẩm giá của mình, ý thức được “thiên chức” cao cả của mình vậy mà đành bó tay bất lực.

Có thể nói, bi kịch đầu tiên trong tấn bi kịch tinh thần của cuộc đời Hộ cũng chính là nhận thức đầu tiên của Hộ là bi kịch về những giấc mộng văn chương. Hộ nhận ra bi kịch nghề nghiệp của mình.Hộ đã đặt văn chương lên trên hết: văn chương dường như chính là khát vọng lớn nhất của đời anh. Anh muốn trở thành nhà văn chân chính, anh sống có ước mơ có hoài bão và nghiêm túc với nghề nghiệp của mình. Vậy mà vì miếng cơ manh áo anh đã vi phạm vào nguyên tắc nghề nghiệp, đã viết ẩu, viết vội điều đó khiến anh đau khổ : đọc thấy tên của mình dưới bài viết, anh phải “đỏ mặt” xấu hổ. Anh giận dữ với chính anh. Anh khinh ghét những tác phẩm chỉ biết “gợi những tình cảm rất nhẹ rất nông bằng một thứ văn quá ư bằng phẳng dễ dãi” của chính mình. Đó chính là bi kịch của anh – bi kịch của một đời viết văn – bi kịch của người hiểu mình biết mình phải làm gì và đành lừa bút theo những điều mình chẳng hề muốn.

Nam Cao để nhân vật tự đấu tranh với chính mình bằng những suy nghĩ, những dòng độc thoại nội tâm sâu sắc. Nhà văn cũng đã đặt nhân vật vào một tình huống tưởng như vụn vặt xoàng xĩnh để nhân vật bộc lộ suy nghĩ và nỗi đau. Anh phải ẩu như thế, bôi bác như thế cũng chính là vì những ràng buộc của “áo cơm”. Nước mắt anh không chảy nhưng đớn đau thì chồng chất tập trung hơn. Có lẽ sự day dứt,dằn vặt mà Hộ trải qua Nam Cao cũng đã từng phải chịu để rồi Nam Cao đấu tranh và hoàn thiện mình trong đời cũng như trong nghề văn.

Bi kịch đầu tiên của cuộc đời nhà văn Hộ và đó cũng là nguyên nhân cho bi kịch thứ hai – bi kịch của một con người. Giấc mộng văn chương sụp đổ nhưng anh còn có lẽ sống là tình thương. Trong văn chương, anh muốn ca ngợi tình thương và trong cuộc đời thực, tình thương là tất cả .Thế nhưng, anh cũng chẳng giữ được trọn vẹn cái lẽ sống cao quý ấy của mình nữa. Thất vọng trong văn chương, buồn chán trong không khí gia đình đó khiến anh tìm niềm vui trong men rượu. Rượu đã khiến anh trở thành kẻ vũ phu. Anh đã vi phạm lẽ sống tình thương của mình. Anh đó đánh đập người vợ hiền lành tận tuỵ của mình không biết bao nhiêu lần nữa mà kể.Anh đã vi phạm lẽ sống của mình, vi phạm cái tốt đẹp – cái phần “người” vô cùng cao đẹp ấy.

Và Hộ đã nhận ra và ý thức sâu sắc đến đau đớn bi kịch thứ hai của mình-bi kịch tình thương. Đó là bi kịch tinh thần của một con người mà đau đớn hơn, đó lại là con người ý thức được phẩm giá nhân cách của mình nhiều nhất. Điều đáng chú ý là người trí thức trung thực ấy đã dằn vặt, đã đau đớn, đã ăn năn sau khi tỉnh rượu. Anh ta ý thức được và đấu tranh để hoàn thiện mình, tự sỉ vả mình là thằng khốn nạn. Nước mắt Hộ đã bật ra như một quả tranh bị người ta bóp mạnh. Đó là giọt nước mắt ăn năn đầy đau đớn, giọt nước mắt của sự bế tắc đến cùng cực của người trí thức.

Sự dằn vặt đau đớn của Hộ đã cứu Hộ vì ít ra anh còn đang đấu tranh để đến gần người hơn.Triết lí về nghề về đời về tình thương của Hộ chính là khát vọng và lí tưởng mà Nam Cao đã giữ gìn và kiên trì thực hiện trong cả cuộc đời viết văn của mình.Tuy là bế tắc, tuy là đau đớn những rõ ràng qua sự tự nhận thức của Hộ người đọc vẫn thấy nhà văn đã đề cao những khát vọng đẹp của người trí thức, đã biết thông cảm với những nỗi khổ của họ và muốn họ vươn tới sự toàn vẹn về nhân cách.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang