kien-thuc-luyen-thi-van-ban-tho-doan-thuyen-danh-ca-bep-lua-anh-trang

Tài liệu luyện thi văn bản: Đoàn thuyền đánh cá (Huy Cận), Bếp lửa (Bằng Việt), Ánh trăng (Nguyễn Duy).

Kiến thức luyện thi văn bản:

ĐOÀN THUYỀN ĐÁNH CÁ (Huy Cận)
BẾP LỬA (Bằng Việt)
ÁNH TRĂNG (Nguyễn Duy).

ĐỀ SỐ 1. Nhận xét về bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, có ý kiến cho rằng: “Bài thơ mượn chuyện ảnh trăng để nói chuyện đời, chuyện nghĩa tình, nhắc nhở môi người ý thức sống thủy chung, tình nghĩa”.

Phân tích bài thơ đề làm sáng tỏ nhận định trên và nêu suy nghĩ của em về bài học cuộc sống được gợi ra từ thi phẩm.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I/Yêu cầu về kĩ năng:

– Thí sinh biết cách làm một bài nghị luận văn học kết hợp với nghị luận xã hội đúng và trúng theo yêu cầu của đề bài.

– Bài viết có kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, lí lẽ và dẫn chứng thuyết phục, viết có cảm xúc, biết vận dụng linh hoạt các thao tác nghị luận, không mắc các loại lỗi.

II/ Yêu cầu về kiến thức:

– Thí sinh có thể có nhiều cách trình bày và lí giài khác nhau, song cần đảm bào các ý cơ bản sau:

  • Mở bài:

– Dẫn dắt vấn đề nghị luận: giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm, trích dẫn ý kiến

  • Thân bài:

1. Giải thích nhận định:

– Ý kiến đã đề cập đến sự sáng tạo của Nguyễn Duy trong bài thơ Ánh trăng’, mượn chuyện trăng để nói chuyện đời, chuyện người, chuyện nghĩa tình. Ánh trăng, cuộc gặp gỡ giữa người với trăng là một ẩn dụ nghệ thuật chuvển tải một thông điệp tư tưởng sâu sắc, nhắc nhở con người về đạo lí sống thủy chung ân nghĩa.

2. Phân tích bài thơ để chứng minh nhận định:

– Bài thơ mang dáng dấp một câu chuyện nhỏ, Nguyễn Duy kể chuyện mình mà như tâm tình cùng bạn đọc về một điều vô tình mà dễ gặp trong cuộc sống: khi hoàn cảnh sống thay đồi, con người dễ quên đi quá khứ, trở nên vô tình, vô tâm…

– Trăng là một hình ảnh ẩn dụ đa nghĩa: là thiên nhiên hồn nhiên tươi mát, người bạn tri kỉ, quá khứ nghĩa tình, vẻ đẹp bình dị mà vĩnh hằng của đời sống.

– Tình cảm của con người và vầng trăng trong quá khứ (từ thời thơ ấu đến quãng thời gian đi bộ đội, sống chiến đấu nơi rừng núi…) là quan hệ gắn bố tự nhiên thân thiết, chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ.

– Quan hệ của người với trăng trong hiện tại: Hoàn cảnh sống thay đồi làm cho con người đổi thay, trăng từ người bạn tri ki nghĩa tình thành “người dưng qua đường”. Cuộc sống đủ đầy, tiện nghi, hào nhoáng hiện tại khiến con người lãng quên quá khứ, trở nên vô tình, bội bạc, đánh mất chính mình…

– Tình huống người đối diện với trăng là sự bất ngờ đột ngột, thức tỉnh con người về quá khứ đầy ắp ki niệm. Đối diện với trăng là đối diện với chính mình. Người vô tình mà trăng vẫn thủy chung tròn đầy, bao dung độ lượng. Cái giật mình của người là sự bừng tỉnh, tự vấn, day dứt đầy ân hận; giật mình để tự hoàn thiện mình…

– Bài thơ giản dị nhưng mang triết lí sâu sắc, nhắc nhở con người về đạo lí ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ, “uống nước nhớ nguồn”, biết trân trọng những giá trị tinh thân tốt đẹp, bồi đắp tình cảm với thiên nhiên, quê hương đất nước…

– Vài nét về nghệ thuật: Thể thơ 5 chữ, kết hợp phương thức tự sự và biêu cảm, giọng điệu tâm tình, hình ảnh thơ mang tính biểu tượng đa nghĩa…

3. Suy nghĩ về bài học cuộc sống được gọi ra từ bài thơ:

– Con người cần sống ân nghĩa thủy chung,trân trong quá khứ (đạo lí ướng nước nhớ nguồn ) và những giá trị tinh thần tốt đẹp, sống chậm lại đề nhìn nhận bàn thân mình

– Trong cuộc sống, ai cũng có thể có lúc mắc sai lầm, vô tâm, vô tình, điều quan trọng là biết “giật mình” tự thức tỉnh, nhận ra góc khuyết của mình để tự hoàn thiện, tìm lại chính mình…

– Con người không được lãng quên quá khứ nhưng cũng không thể mải đắm chìm trong quá khứ mà quên đi hiện tại và không hướng tới phấn đấu cho tương lai…

– Phê phán lối sống vô tình vô nghĩa bội bạc, “có mới nới cũ”, quay lưng lại với quá khứ, chạy theo đời Sống vật chất mà lãng quên những giá trị tinh thần cao đẹp…

– Rút ra bải học cho bản thân: chân thành sâu sắc, thiết thực…

  • Kết bài:

– Đánh giá lại ý kiến.

– Đánh giá thành công của tác phẩm.


ĐỀ SỐ 2. “Thơ hiện đại không chỉ đem lại những cái mới về nội dung tư tưởng, cảm xúc mà còn đổi mới về phương thức biểu cảm, về sáng tạo hình ảnh, cấu trúc câu thơ, ngôn ngữ thơ.” (Ngữ văn 9, tập 2, trang 200, NXB GD, 2004)

Em hãy làm sáng rõ nhận định trên qua tác phẩm Ánh trăng của Nguyễn Duy.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I. Yêu cầu về kĩ năng:

Thí sinh biết cách làm bài văn nghị luận văn học, bố cục rõ ràng, kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, lời văn trong sáng; không mắc lỗi về chính tả, dùng từ và ngữ pháp.

II. Yêu cầu về kiến thức:

– Thí sinh có thể triển khai bài viết theo nhiều cách khác nhau, nhưng cần đảm bảo những nội dung sau:

  • Mở bài:

– Dẫn dắt từ mối quan hệ giữa văn học và đời sống, trích dẫn nhận định và giới hạn qua bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy.

  • Thân bài:
  1. Giải thích nhận định.

– Khái niệm thơ hiện đại: được xác định từ đầu thế kỷ XX khi văn học tiếp thu, chịu ảnh hưởng của các trào lưu văn học phương Tây và ánh sáng cách mạng của Đảng soi đường. Đặc biệt, sau năm 1975 đất nước hoàn toàn thống nhất, thơ ca nói riêng và văn học nói chung có sự giao lưu, tiếp xúc, hội nhập với nền văn học thế giới.

– Xã hội, con người, tư tưởng thay đổi theo thời đại. Việc phản ánh tâm tư, tình cảm mới đòi hỏi văn học, thơ ca hiện đại cũng phải thay đổi để phù hợp với sự tinh tế, nhạy cảm và phong phú đa dạng trong đời sống tinh thần của thế hệ, con người Việt Nam.

2. Làm sáng tỏ nhận định qua bài thơ “Ánh trăng”.

a. Hoàn cảnh ra đời của bài thơ:

– Bài thơ được viết năm 1978, đất nước Việt Nam bước sang trang mới sau chiến thắng huy hoàng trong công cuộc bảo vệ đất nước. Bắc Nam sum họp một nhà. Ba năm trôi qua, con người Việt Nam vẫn ở trong trạng thái hưởng niềm vui chiến thắng nên nhiều khi quên mất quá khứ gắn bó, vất vả đau thương. Và nhiều khi chợt nhận ra sự vô tình lãng quên của mình…

– “Ánh trăng” thể hiện những trăn trở, suy ngẫm của nhà thơ và xu hướng đổi mới của thơ ca Việt Nam hiện đại. Ánh trăng, một bài thơ nhỏ – một bài học lớn.

b. Bài thơ Ánh trăng thể hiện cái mới về nội dung, tư tưởng, cảm xúc.

– Bài thơ phản ánh tâm trạng của người chiến sĩ – một lớp người rất đông trong xã hội vừa trải qua giai đoạn chiến tranh ác liệt. Trong niềm vui hân hoan chiến thắng, cuộc sống hiện đại văn minh đôi khi con người đã lãng quên quá khứ của mình, lãng quên quá khứ vất vả đau thương của dân tộc. Dòng cảm xúc đó được thể hiện theo thời gian từ quá khứ đến hiện tại và nâng lên thành suy ngẫm mang tính triết lý.

– Kỷ niệm gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị hiền hậu trong quá khứ hiện về trong hai thời điểm của nhân vật trữ tình: thời thơ ấu và thời chiến tranh. Dù ở đâu trên quê hương, đồng, sông, rừng bể người lính vẫn gắn bó với ánh trăng với thiên nhiên như người bạn tri kỉ. Sự gắn bó ân tình, thủy chung ấy khiến con người nghĩ rằng cả cuộc đời sẽ không bao giờ quên người bạn tình nghĩa.

– Đạo lí sống nghĩa tình và thủy chung với quá khứ đã bị quên lãng một cách vô tình bởi hoàn cảnh sống hiện tại. Nơi đô thị, con người làm quen với tiện nghi hiện đại, văn minh “ánh điện, cửa gương” nên cứ vô tình quên lãng vầng trăng tri kỉ. Đêm nào trăng cũng sáng trên đầu nhưng bị mờ đi bởi ánh điện rực rỡ. Vô tình trăng và người cứ dửng dưng như người xa lạ, chưa hề quen biết với nhau dù trước đây là tri âm, tri kỉ.

– Một tình huống giản dị bình thường trong cuộc sống đã khiến nhân vật trữ tình tỉnh ngộ nhận ra sự thay đổi bội bạc đáng lên án đó của mình – thành phố mất điện. Giây phút ngắn ngủi bất ngờ nhưng thực sự có ý nghĩa như một bước ngoặt trong dòng tư tưởng của con người để giúp họ thay đổi.

– Việc đối diện với vầng trăng – người bạn tri kỷ đã giúp người lính nhớ về kỷ niệm xưa gắn bó, tươi đẹp và rồi ân hận, xúc động xốn xang. Nỗi ân hận được thể hiện trong dòng nước mắt rưng rưng, nhẹ nhàng xót xa. Chính mình đã đổi thay và bản thân không thể chấp nhận được.

– Con người suy ngẫm về mối quan hệ của trăng với mình và giật mình, bừng tỉnh, xót xa… Dù thời gian qua đi, dù đất trời thay đổi, trăng vẫn nguyên vẹn, tình nghĩa thủy chung với con người, không hề trách cứ con người đã đổi thay. Trăng vẫn vị tha, nhân hậu tỏa sáng cho con người. Sự cao thượng của vầng trăng khiến con người thức tỉnh lối sống về đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc để sống tốt hơn, người hơn.

Ánh trăng không chỉ là chuyện của riêng nhà thơ, chuyện của một người mà có ý nghĩa với cả một thế hệ. Hơn thế, bài thơ còn có ý nghĩa với nhiều người, nhiều thời bởi tác phẩm đặt ra vấn đề thái độ đối với quá khứ, với những người đã khuất và đối với chính mình.

3. Bài thơ “Ánh trăng” thể hiện những đổi mới về phương thức biểu cảm, về sáng tạo hình ảnh, cấu trúc câu thơ, ngôn ngữ thơ.

– Bài thơ như một câu chuyện riêng, có sự kết hợp hài hòa, tự nhiên giữa tự sự và trữ tình.

– Giọng điệu tâm tình với nhịp thơ khi trôi chảy tự nhiên, nhịp nhàng theo lời kể, khi ngân nga thiết tha cảm xúc (khổ 5), lúc lại trầm lắng biểu hiện suy tư (khổ cuối).

– Kết cấu, giọng điệu của bài thơ có tác dụng làm nổi bật chủ đề, tạo nên tính chân thực, chân thành, sức truyền cảm sâu sắc cho tác phẩm, gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người đọc.

– Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc. Đặc biệt hình ảnh ánh trăng là hình tượng đa nghĩa, vừa cụ thể vừa khái quát mang ý nghĩa triết lí sâu sắc.

– Thể thơ ngũ ngôn được sử dụng sáng tạo. Mỗi khổ chỉ viết hoa chữ cái đầu dòng thứ nhất. Tác phẩm chỉ có một dấu chấm ở câu thơ cuối. Nghệ thuật viết câu, đặt câu, sử dụng dấu chấm câu đã diễn tả mạch cảm xúc dạt dào tuôn chảy liền mạch trong một tình huống bất ngờ, giản dị đời thường.

4. Đánh giá chung.

Ánh trăng của Nguyễn Duy là một sáng tác thể hiện rõ nét tinh thần đổi mới của thơ ca hiện đại. Đề tài trăng, thể thơ ngũ ngôn là nét truyền thống của Đường thi song bài thơ thể hiện cái mới trong việc phản ánh nội dung câu chuyện nhỏ của người chiến sĩ vừa trải qua chiến tranh, sống trong hòa bình, hiện đại. Ánh trăng mang vẻ đẹp hình tượng thiên nhiên, đồng thời cũng là biểu tượng của quá khứ – nhân dân, đất nước trong quá khứ và hiện tại, mãi mãi vẹn nguyên, vĩnh hằng, bất biến, thủy chung, nghĩa tình, bao dung, độ lượng. Con người hãy biết sống ân tình, thủy chung với quá khứ. Tác phẩm như lời giáo huấn đạo đức nhẹ nhàng nhưng rất sâu sắc. Ánh trăng là bài thơ của những phút giật mình, giật mình để thức tỉnh, để sống nhân văn hơn.

– Từ những đổi mới và sáng tạo của bài thơ Ánh trăng trên hai phương diện nội dung, tư tưởng và hình thức nghệ thuật bình luận về mối quan hệ giữa cuộc sống – tác giả – tác phẩm: Nền tảng của bất kì tác phẩm nào phải là chân lí được khắc họa bằng tất cả tài nghệ của nhà văn. Cần phải hát đúng giai điệu về thời đại mình và phải miêu tả nó một cách trung thực bằng những hình ảnh hấp dẫn, không một chút giả tạo.

  • Kết bài:

Kết thúc vấn đề: Mối quan hệ giữa văn học và đời sống thông qua tác phẩm.


ĐỀ SỐ 3. “Dù viết về cái gì, văn chương chân chính cũng hướng về con người. Viết về cái xấu để cảnh tỉnh con người, để báo động giúp con người sống với bản lĩnh tốt đẹp của mình. Viết về cái tốt để con người tự tin ở mình và đó chính là hành trang cần có ở con người trong cuộc hành trình tới tương lai.”

Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I/ Yêu cầu về kỹ năng:

– Biết viết một bài văn nghị luận văn học kết hợp nhiều thao tác lập luận.

– Bố cục rõ ràng, kết cấu bài viết chặt chẽ, dùng từ đặt câu đúng, diễn đạt trong sáng và giàu sức biểu cảm.

II/  Yêu cầu về kiến thức:

Dàn bài 1:

  • Mở bài:

Dẫn dắt và nêu vấn đề:

– Văn học là bức tranh về đời sống xã hội và con người. Văn học viết ra để phục vụ con người.

– Dẫn dắt vấn đề nghị luận.

  • Thân bài:

1. Giải thích nhậ định:

– Thế nào là văn chương chân chính?

+ Văn chương chân chính là văn chương gần gũi, chuyên chú ở con người, phục vụ đời sống, có ích cho con người.

– Vì sao viết cái xấu, cái tốt đều nhằm hướng về con người…?

+ Văn chương là tấm gương phản chiếu hiện thực của cuộc sống nên nó phản ánh cả những điều xấu và điều tốt của hiện thực.

+ Viết về cái xấu với mục đích cảnh tỉnh, giúp con người nhận ra cái đúng – sai, tốt – xấu… để cải tạo con người.

+ Viết về cái tốt nhằm để ngợi ca, động viên khích lệ,…con người.

Đó là chức năng cao đẹp của văn chương.

2. Làm sáng tỏ nhận định qua bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy: Viết về cái gì thì thứ văn chương chân chính cũng hướng về con người.

“Ánh trăng” của Nguyễn Duy mượn cảm hứng đề tài truyền thống của thơ ca từ cổ chí kim là vầng trăng. Bài thơ không chỉ thể hiện cảm xúc về vầng trăng đẹp mà qua đó còn hướng người đọc đến bài học nhân sinh.

– Viết về cái xấu để cảnh tỉnh con người, để báo động giúp con người sống với bản chất tốt đẹp của mình.

“Ánh trăng” viết về sự đổi thay bội bạc của con người với quá khứ. Quá khứ đó là sự gắn bó nghĩa tình với thiên nhiên, nhân dân, đất nước trong những năm tháng gian lao của chiến tranh.

– Từ nhỏ đến lúc trưởng thành, trong khó khăn gian khổ con người gắn bó với ánh trăng như tri kỉ, tri âm. Vậy mà khi hoà bình với đầy đủ tiện nghi ở thành phố, con người đã vô tình quên lãng vầng trăng, thay đổi tới mức coi người tri kỉ như người dưng xa lạ, lãng quên quá khứ, quay lưng lại với nhân dân với những người đã đùm bọc sẻ chia trong những năm chiến tranh gian khổ. Đó là cái xấu đáng lên án của con người.

– Viết về cái tốt để con người tự tin ở mình, đó chính là hành trang để con người hướng tới tương lai.

– Bản tính tốt đẹp của nhân vật trong tác phẩm là dám nhìn thẳng vào sự thật, thấy cái xấu của mình để sửa chữa và sống tốt hơn.

– Người chiến sĩ trong Ánh trăng” đã ân hận “rưng rưng”, “giật mình” bởi thái độ sống bạc nghĩa vừa qua của mình. Đó là giọt nước mắt hướng thiện.

  • Kết bài:

– Khẳng định vấn đề nghị luận.

Dàn bài 2:

  • Mở bài:

– Dẫn dắt và nêu vấn đề: Văn học là bức tranh về đòi sống xã hội và con người. Văn học viết ra nhằm phục vụ con người. Bàn về văn học, có ý kiến cho rằng: “Dù viết cái gì văn chương chân chính cũng hướng về con người. Viết về cái xấu để cảnh tính con người, để báo động giúp con người sống với bản tính tốt đẹp của mình. Viết về cái tốt đẽ con người tự tin ở mình và đó chính là hành trang cần có ở con người trong cuộc hành trình tới tương lai”.

  • Thân bài:

1. Giải thích nhận định:

– Thế nào là văn chương chân chính?  Văn chương chân chính đối lập với thứ văn chương không chân chính. Văn chương không chân chính là văn chương xa rời đời sống con người, hướng con người vào tiêu cực, chán chường, bi lụy hay kích động những dục vọng tầm thường, hay làm nảy sinh bạo lực, tội ác… Ngược lại, văn chương chân chính là văn chương gần gũi, chuyên trú ở con người, phục vụ đời sống, có ích cho con người. Đó là văn chương tích cực, tiến bộ.

2. Bàn luận: Vì sao viết về cái xấu, cái tốt đều nhằm hướng về con người…?

+ Văn chương là bức tranh của đời sống, là tấm gương phản chiếu đời sống, xã hội và con người nên nó phản ánh cả những điều xấu và tốt của hiện thực đời sống.

+ Viết về cái xấu xa, độc ác, những đắng cay, bất hạnh, bi kịch của đời sống con người… không phải để người ta ảnh hưởng hay sợ hãi mà để cảnh tỉnh con người, để báo động con người, cải tạo con người, giúp con người nhận thức ra sự dứng – sai, xấu – tốt, hạnh phúc – bi kịch,… từ đó sông với bản tính tốt đẹp của mình.

+ Viết về những cái tốt nhằm để ca ngợi, động viên, khích lệ, nâng đỡ con người tự tin, tự hào ở chính mình mà luôn nghĩ và làm những điều tốt đẹp, hướng con người vào chân – thiện – mĩ trong cuộc hành trình hưởng tới tương lai. Đó là những điều cần thiết của con người.

+ Bàn về văn học, Mắcxim Gorki nói: “Văn học là nhân học”, học văn là học làm người. Văn học có tác dụng giáo dục con người, đem lại nhận thức vô cùng phong phú cho con người về đời sống tự nhiên và xã hội. Nó góp phần cải tạo tư tưởng, tình cảm và nâng đỡ tâm hồn con người trong sáng và phong phú hơn. Nó góp phần cải tạo xã hội, diệt trừ cái ác và những bất công, vươn tới bến bờ hạnh phúc.

3. Làm sáng tỏ nhận định qua bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.

– Tác phẩm văn học nào ra đời, được công chúng đón nhận cũng đem lại một giá trị nhất định. Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy hướng người đọc vào đạo lí uống nước nhớ nguồn. Bài thơ ra đời sau ba năm cuộc kháng chiến chông Mĩ trường kì của dân tộc đã khép lại. Ba năm sông trong hòa bình với những tiện nghi hiện đại nơi thị thành, không phải ai cũng nhớ đến gian lao và những kỉ niệm một thời đã qua, gắn bó vói trăng, thiên nhiên với đồng chí, đồng bào của mình. Ánh trăng như một lời tâm sự, một sự nhìn lại, mổ xẻ chính mình và nhắc nhở mọi người về đạo lí thủy chung, nghĩa tình:

“Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay I Ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm” (Tố Hữu). Bài thơ đưa ra bài học triết lí: trăng biểu tượng cho sự vĩnh hằng cũng giống như tình nghĩa; hạnh phúc biến thường còn nghĩa tình bất biến. Dù sống ở điều kiện nào cũng đừng quên quá khứ, có quá khứ mới có hiện tại và tương lai.

  • Kết bài.

– Khẳng định và nâng cao, mở rộng vấn đề:Văn chương và đời sống có mối quan hệ chặt chẽ, mật thiết với nhau. Văn chương phản ánh đòi sống và có tác dụng đem lại nhận thức, giáo dục và những rung cảm thẩm mĩ cho con người. Dù viết về cái gì – xấu hay tốt, văn chương chân chính đều hướng vào con người, nâng đỡ tâm hồn, hướng con người vào những điều tốt đẹp, tránh xa những điêu xấu xa, độc ác. Sống lạc quan, yêu đời, giàu nghị lực, vượt qua mọi khó khăn gian khổ trong cuộc sống. Một tác phẩm nghệ thuật hay như một người bạn tốt, người bạn tri âm tri kỉ của chúng ta, là hành trang cần thiết cho mỗi người trên cuộc hành trình tới tương lai.


ĐỀ SỐ 4. Sự giản dị, xúc động và ám ảnh của bài thơ “Ánh trăng” (Nguyễn Duy, SGK Ngữ văn 9, Tập một).

GỢI Ý LÀM BÀI.

I/ Về kĩ năng:

– Biết cách viết bài văn nghị luận văn học. Vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận. Bố cục hợp lí, chặt chẽ, văn viết mạch lạc, trong sáng, có cảm xúc, không mắc lỗi về chính tả, diễn đạt.

II/ Về kiến thức:

– Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo những nội dung cơ bản sau:

  • Mở bài:   

–  Giới thiệu về tác giả Nguyễn Duy và bài thơ “Ánh trăng”.

–  Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: Sự giản dị, xúc động và ám ảnh của bài thơ “Ánh trăng”.

  • Thân bài:

1. Giải thích vấn đề

–  Giản dị: Sự bình dị, mộc mạc, không cầu kì, hoa mĩ. Giản dị trong văn chương không đồng nhất với đơn giản, dễ dãi.

–  Xúc động: Là tiếng lòng, sự dồn nén cao độ của cảm xúc được chính nhà thơ gửi gắm trong tác phẩm. Từ tiếng lòng của thi nhân, bằng thơ và qua thơ đến với người đọc, khơi gợi trong lòng người đọc những rung cảm, tình cảm đẹp đẽ.

–  Ám ảnh: những giá trị sâu sắc gợi cho người đọc những trăn trở nghĩ suy, những cảm xúc không thể nào quên.

→ Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy là một bài thơ hội tụ đầy đủ ba yếu tố: giản dị, xúc động và ám ảnh.

2. Chứng minh:

– Sự giản dị trong Ánh trăng:

+ Đề tài: Bài thơ lấy đề tài ánh trăng, vầng trăng- một đề tài quen thuộc trong thơ ca dân tộc.

+ Bài thơ có chủ đề rất quen thuộc, bắt nguồn từ truyền thống đạo lí của dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ. Để thể hiện nội dung chủ đề, nhà thơ chọn trăng – hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ, hồn nhiên, khoáng đạt, tươi mát, làm biểu  tượng cho quá khứ nghĩa tình, cho vẻ đẹp bình dị, vĩnh hằng của đời sống, gợi nhắc con người có thái độ sống ân nghĩa. thủy chung.

+ Thể thơ và cấu trúc: Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn rất bình dị. Bài thơ mang dáng dấp của một câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian, theo dòng cảm nghĩ của tác giả, có sự kết hợp hài hoà, tự nhiên giữa tự sự và trữ tình.

+ Giọng điệu, ngôn ngữ tự nhiên như lời tâm tình sâu lắng, nhịp thơ khi thì trôi chảy, nhịp nhàng theo lời kể, khi thì ngân nga thiết tha cảm xúc.

– Những xúc động và ám ảnh của bài thơ Ánh trăng chủ yếu thể hiện qua nội dung tư tưởng bài thơ:

+ Tình cảm giữa người và trăng trong quá khứ: tình cảm giữa người và trăng chân thành, sâu nặng. Mạch thơ khiến người đọc xúc động, ám ảnh bởi một quá khứ gian lao nhưng đẹp đẽ, nghĩa tình.

+ Tình cảm giữa người và trăng theo thời gian:

  • Theo thời gian, cách cư xử của con người khiến ta trăn trở, day dứt. Cuộc sống hiện đại, hào nhoáng nơi thị thành đã khiến con người quên đi quá khứ, quên đi người bạn nghĩa tình năm xưa.
  • Vầng trăng, ánh trăng đã được nhân cách hóa như con người, có tâm hồn, có lẽ sống. Trăng khiến chúng ta xúc động và ám ảnh bởi lối sống tình nghĩa, thủy chung, nhân ái, vị tha mà cũng rất nghiêm khắc.
  • Trăng đưa người trở về với quá khứ, để gợi nhắc bài học sâu sắc, thấm thía về lẽ sống cao đẹp, ân tình, thủy chung, nghĩa tình với quá khứ.

3. Đánh giá:

–  Bài thơ giản dị từ đề tài, chủ đề đến hình ảnh, câu chữ, giọng điệu…

–  Bài thơ là bức thông điệp mà tác giả gửi đến cho những người lính vừa bước ra khỏi chiến trường, đồng thời cũng là thông điệp cho tất cả chúng ta: hãy trân trọng quá khứ, hãy sống trọn đạo nghĩa: Uống nước nhớ nguồn.

  • Kết bài:

–  Khẳng định lại nội dung bàn luận.

–  Liên hệ: cần kế thừa, phát huy truyền thống đạo đức Uống nước nhớ nguồn.


ĐỀ SỐ 5. Trong bài thơ “Con cò”, Chế Lan Viên đã viết:

“Lớn lên, lớn lên, lớn lên …
Con làm gì?
Con làm thi sĩ!
Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà và trong hơi mát câu văn …”

Theo em, vì sao trong lời ru thấm hơi xuân ấy, người mẹ lại mong con con lớn lên làm thi sĩ? Từ mong ước của người mẹ trong bài thơ, em có suy nghĩ gì về vai trò của văn chương trong việc bồi đắp tâm hồn con người?

GỢI Ý LÀM BÀI.

I/ Về kĩ năng:

– Biết cách viết bài văn nghị luận văn học. Vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận. Bố cục hợp lí, chặt chẽ, văn viết mạch lạc, trong sáng, có cảm xúc, không mắc lỗi về chính tả, diễn đạt.

II/ Về kiến thức

– Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo những nội dung cơ bản sau:

  • Mở bài:

– Giới thiệu vấn đề nghị luận.

  • Thân bài:

1. Giải thích ý kiến: Vì sao người mẹ lại mong con mình lớn lên làm thi sĩ?

– Vì muốn làm thi sĩ để mang lòng từ tâm như một thứ hương hoa thuần khiết dâng cho cõi đời, để lưu giữ cái đẹp, cội nguồn nhân bản cho cuộc đời.

–  Làm thi sĩ để cánh cò trong trắng của con lại bay hoài trong cõi thơ mênh mông, đánh thức những xao động tế vi và ngọt ngào của tâm hồn con người, của tâm hồn nhân loại.

–  Mẹ mong con làm thi sĩ là để thoát khỏi những toan tính trần tục để hướng vào thế giới nội tâm của tâm hồn.

–  Nếu con không thể trở thành một nhà thơ thì mẹ cũng mong con sẽ có trái tim của một thi sĩ đích thực …

2. Từ mong ước của người mẹ trong bài thơ, suy nghĩ về vai trò của văn chương trong việc bồi đắp tâm hồn con người:

–  Nếu các bộ môn Khoa học tự nhiên như Toán, Lí, Hóa … bồi đắp cho con người trí tuệ thì văn chương lại bồi đắp cho tâm hồn con người:

–  Giúp con người biết yêu cái tốt, cái thiện, cái cao cả; căm ghét cái xấu xa, cái ác, cái thấp hèn …

–  Biết đồng cảm, chia sẻ với nỗi đau của đồng loại

–  Biết nuôi dưỡng ước mơ và hi vọng sống tốt đẹp

–  Biết phê phán, đấu tranh, loại bỏ sự bất công, ngang trái, chà đạp lên nhân phẩm và quyền sống con người

–  Biết sống có lòng tin, lòng tốt và lòng yêu thương con người trong cuộc sống ….

→ Văn chương chân chính sẽ làm cho tâm hồn con người phong phú hơn, tinh tế hơn, sâu lắng hơn, nhân bản hơn và giúp con người hướng thiện, góp phần cho cuộc đời này ngày càng trở nên tươi đẹp hơn.

  • Kết bài:

– Khẳng định vấn đề nghị luận.


ĐỀ SỐ 6. Hình ảnh người lao động mới trong các tác phẩm : “Lặng lẽ Sa Pa”của Nguyễn Thành Long, “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I/ Yêu cầu về kĩ năng:

– Nắm vững phương pháp làm bài nghị luận văn học.

– Bố cục và hệ thống ý sáng rõ.

– Biết vận dụng phối hợp nhiều thao tác nghị luận. Đặc biệt nắm vững thao tác phân tích, chứng minh để làm sáng rõ vấn đề.

– Văn trôi chảy, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục. Không mắc lỗi diễn đạt; không sai lỗi chính tả, dùng từ; trình bày bài rõ ràng.

II/ Yêu cầu về nội dung:

  • Mở bài:

– Giới thiệu vấn đề: Hình ảnh người lao động mới trong hai tác phẩm: “Lặng lẽ Sa Pacủa Nguyễn Thành Long, Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.

  • Thân bài:

1. Giới thiệu chung:

– Họ là những người có trái tim giàu tình yêu lao động , yêu con người, yêu quê hương đất nước. Ở họ tràn đầy niềm lạc quan, niềm tin yêu cuộc sống, đang âm thầm lặng lẽ đem hết tài năng và sức lực của mình cống hiến cho công cuộc xây dựng đất nước trên bước đường đi lên CNXH ở miền Bắc trong giai đoạn lúc bấy giờ.

2. Phân tích cụ thể :

a. Anh thanh niên trong truyện ngắn “ Lặng lẽ Sa Pa:

– Yêu thích công việc, gắn bó, không rời khỏi vị trí làm việc một giờ nào, mặc dù nơi anh sống và làm việc là một đỉnh núi cao trên hai nghìn sáu trăm mét, quanh năm không một bóng người. Có lúc anh “thèm người” đến độ cháy bỏng.

– Anh luôn vượt qua những khó khăn trong cuộc sống để hoàn thành tốt công việc của mình, góp phần dự báo chính xác về thời tiết toàn miền Bắc, phục vụ sản xuất và chiến đấu.

– Anh luôn tìm thấy niềm vui, niềm hạnh phúc thật  sự từ trong công việc của mình, nhất là khi công việc của anh mang lại kết quả cho công việc chung .

– Anh còn là người luôn có ý thức học tập không ngừng( qua sách báo), biết sắp xếp cuộc sống của mình ngăn nắp, cẩn thận. Anh biết tự chăm sóc cho cuộc sống vật chất và tinh thần cho bản thân: trồng hoa, nuôi gà… Đặc biệt, biết quý trọng, chân thành cởi mở và luôn quan tâm đến người khác.

Đó là những con người lao động đang ngày đêm lặng lẽ cống hiến cho đất nước.

b. Hình ảnh những ngư dân đánh cá giữa biển đêm trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá “ của Huy Cận:

– Họ say sưa làm việc trong tiếng hát thâu đêm: hát ra khơi, hát gọi cá vào lưới, tiếng hát gõ nhịp cùng trăng trời, hát căng buồm trở về khi cá đã đầy ắp khoan thuyền… Chính tình yêu, niềm say mê lao động đã tiếp thêm sức mạnh cho họ, giúp họ vượt qua bao lớp sóng điệp trùng . Họ rất khoẻ khoắn, vươn xa, làm chủ biển cả, “Ra đậu dặm xa dò bụng biển, dàn đan thế trận lưới vây giăng”. Tầm vóc của họ trở nên phi thường ,kì vĩ, lớn ngang tầm với vũ trụ bao la…

– Họ làm việc trong niềm say mê và phấn khởi tự hào: tự hào về cuộc đời mới, làm chủ đất nước, làm chủ cuộc đời mình, tự hào về đất nước đang chuyển mình từng ngày trên con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, tự hào về sự giàu đẹp của biển cả quê hương.

– Họ chiến đấu với sóng gió muôn trùng bằng nhiệt tình lao động, bằng niềm lạc quan tin tưởng vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Trong trái tim của những người lao động ấy luôn chất chứa tình yêu đất nước, niềm lạc quan tin tưởng về những bước phát triển đi lên của đất nước…

  • Kết luận:

– Hình ảnh của những người lao động trong hai tác phẩm đó thật tuyệt vời, thật đáng trân trọng. Hình ảnh của họ chính là vóc dáng của dân tộc một thời hào hùng đáng nhớ.


ĐỀ SỐ 7. “Một bài thơ hay không bao giờ ta đọc qua một lần mà bỏ xuống được. Ta sẽ dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi, và đọc lại bài thơ. Tất cả tâm hồn chúng ta đọc, không phải chỉ có trí thức (…). Cho đến một câu thơ kia, người đọc nghe thì thầm mãi trong lòng, mắt không rời trang giấy”. (Trích Tiếng nói của văn nghệ – Nguyễn Đình Thi, Ngữ văn 9, tập hai, NXBGD, 2014)

Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Cảm nhận của em về cái hay trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.

GỢI Ý LÀM BÀI.

  • Mở bài:

Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới với những tác phẩm nổi tiếng như Lửa thiêng, Vũ trụ ca,… Sau Cách mạng, ông nhanh chóng hòa nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc chống thực dân Pháp  xâm lược. Hòa bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống mới đang lên.

– Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” nằm trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”, được sáng tác ở Hòn Gai, năm 1958, nhân một chuyến tác giả đi thực tế  dài ngày. Ra đời giữa bối cảnh miền Bắc mới hoà bình, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân dân thực sự được làm chủ cuộc đời, làm chủ đất nước, bài thơ được đánh giá là một trong những bài thơ hay của thơ ca Việt Nam hiện đại.

  • Thân bài:

1. Giải thích nhận định:

“Thơ hay” là thơ ngay từ lần đọc đầu tiên đã ám ảnh độc giả, nó khiến người đọc phải trăn trở suy tư, càng đọc càng khám phá ra nhiều điều hấp dẫn. Đó là một bài thơ có sự sáng tạo độc đáo về mặt nội dung cũng như hình thức nghệ thuật. Nó có khả năng lay động rung cảm trong sâu thẳm trái tim người đọc, khơi gợi những tình cảm cao đẹp và để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc.

– Nhận định trên đề cập đến cách đọc, tiếp nhận và cảm thụ thơ. Khi người đọc đọc thơ bằng tất cả tâm hồn, trí tuệ bài thơ sẽ tỏa sáng, làm rung lên những cung bậc tình cảm trong lòng người đọc.

Phải yêu thơ và am hiểu thơ mới có khả năng đọc, tiếp nhận cảm thụ thơ một cách sâu sắc và toàn diện.

2. Cảm nhận về cái hay của bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”:

a. Bài thơ hay, độc đáo trong nội dung cảm xúc:

* Vẻ đẹp của thiên nhiên:

– Cảnh hoàng hôn trên biển tràn đầy sắc màu rực rỡ, kỳ vĩ, huy hoàng:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa”.

Nhân hóa, so sánh “Mặt trời xuống biển như hòn lửa”: Gợi tả hình dáng, màu sắc rực rỡ, vẻ đẹp kì vĩ, tráng lệ của mặt trời lúc hoàng hôn. Liên tưởng, tưởng tượng độc đáo qua phép nhân hóa: Sóng đã cài then đêm sập cửa-> làm cho cảnh biển đêm trở nên gần gũi, bớt cảm giác bí hiểm.

– Cảnh biển đêm đẹp lung linh huyền ảo, thơ mộng, đặc biệt là hình ảnh các loài cá làm toát lên vẻ đẹp giàu có, trù phú của biển cả quê hương.

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”.

– Liệt kê tên các loài cá, thể hiện sự phong phú của các loài cá biển, gợi liên tưởng đến hình ảnh những đàn cá bơi hàng đàn, chen nhau lấp lóa dưới làn nước, sự giàu có của biển. So sánh: Cá song lấp lánh/đuốc đen hồng, các tính từ chỉ màu sắc: đen hồng, vàng chóe –> gợi tả màu sắc của cá, vẻ đẹp lung linh, huyền ảo, tráng lệ của biển.

– Nhân hóa “Đêm thở, sao lùa”: Thiên nhiên dường như cũng thức dậy hòa nhịp vào không khí lao động khẩn trương mê say của con người. Hình ảnh thơ bay bổng, giàu liên tưởng làm khung cảnh biển đêm trở nên gần gũi, đẹp như bức tranh sơn mài lộng lẫy.

– Cảnh bình minh khi đoàn thuyền trở về tươi sáng, tinh khôi, tràn đầy sức sống.

“Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”.

Hình ảnh vẩy bạc, đuôi vàng, lóe là hình ảnh đẹp, vừa hiện thực vừa lãng mạn. Những con cá vừa được kéo từ biển lên, ăm ắp  khoang thuyền dưới ánh nắng hồng ban mai, chúng quẫy, đạp làm ánh lên những sắc màu rực rỡ, tươi vui; đó còn là hình ảnh ẩn dụ gợi sự giàu có của thiên nhiên, sự tươi đẹp của cuộc sống mới. Các từ chỉ màu sắc góp phần làm bức tranh thiên nhiên thêm lộng lẫy, rực rỡ.

“Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.

Hai câu thơ gợi cảnh bình minh nắng hồng rực rỡ ngập tràn biển cả.

Bức tranh thiên nhiên biển cả quê hương thể hiện tình yêu, niềm tự hào sâu sắc của tác giả về vẻ đẹp của quê hương, đất nước, của sự nghiệp cách mạng.

* Vẻ đẹp của con người lao động:

Cảm hứng về lao động và cảm hứng lãng mạn cách mạng làm nên hình ảnh người lao động nổi bật trên nền của thiên nhiên biển cả quê hương tươi đẹp, hùng vĩ:

– Khi ra khơi: Con người hào hứng, phấn khởi, hăng say và tràn đầy hi vọng

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”.

– Phó từ tiếp diễn “lại” gợi công việc đánh cá đêm là công việc thường nhật, làm nổi bật tinh thần chủ động vượt khó. Hình ảnh tương phản giữa trạng thái nghỉ ngơi của thiên nhiên vũ trụ (Sóng đã cài then đêm sập cửa) với hoạt động của người ngư dân (Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi) tạo ấn tượng về tư thế chủ động hăng hái chinh phục thiên nhiên của người lao động.

– Hình ảnh ẩn dụ chuyển đổi cảm giác và biện pháp nói quá: Câu hát căng buồm -diễn tả niềm vui phới phới, sự phấn chấn của người lao động. Tiếng “ơi khép lại khổ thơ mà mở ra niềm vui, sự hứng khởi tràn ngập cả không gian.

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng

Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!”.

– Điệp ngữ “hát” thể hiện niềm vui phơi phới, sự lạc quan trong lao động. Nhân hóa: Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi! -> Niềm ước vọng về một chuyến ra khơi sẽ thu về những mẻ lưới trĩu nặng

– Khi đánh cá trên biển đêm:

+ Khí thế hăng hái, tư thế hùng dũng, mạnh mẽ như những chiến sỹ xung trận:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.

– Hình ảnh thơ vừa thực vừa lãng mạn: lái gió, buồm trăng, lướt giữa mây cao, ra đậu dặm xa,dò bụng biển, dàn đan thế trận, vây giăng đã tạo sự khỏe khoắn của những con thuyền đánh cá đêm trên biển. Đoàn thuyền lướt đi trên mặt biển như đang lướt giữa trời mây. Một loạt động từ chỉ hoạt động: lái, lướt, ra, dò, vây giăng, dàn đan gợi tả hoạt động tích cực, khẩn trương, hăng hái của đoàn thuyền như đang bước vào trận chiến. Bút pháp phóng đại khoa trương khiến con thuyền nhỏ bé trở thành con thuyền kì vĩ, khổng lồ ngang tầm vũ trụ. Miêu tả hình ảnh đoàn thuyền nhà thơ làm nổi bật tư thế, sức mạnh của con người trước thiên nhiên, vũ trụ.

– Khí thế lao động đậm chất thơ:

“Ta hát bài ca gọi cá vào,

Nuôi lớn đời ta tự thuở nào”.

– Từ “hát” tiếp tục được láy lại, bộc lộ niềm vui phới phới, lạc quan, yêu đời, tràn đầy niềm tin yêu vào cuộc sống mới. Hình ảnh thơ bay bổng, lãng mạn “hát gọi cá, gõ thuyền, nhịp trăng” tô đậm vẻ đẹp của người ngư dân: hăng say lao động, biến công việc nặng nhọc thành công việc nhẹ nhàng, đầy chất thơ. Hai câu thơ sau là tiếng lòng yêu mến và biết ơn vô hạn với biển cả, thiên nhiên.

– Kết thúc đêm đánh cá với ý chí quyết tâm, nỗ lực, khẩn trương, sức mạnh phi thường:

“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”.

– Hình ảnh sao mờ gợi sự chuyển giao về thời gian, một đêm lao động sắp kết thúc. Cả đoạn thơ toát lên khí thế lao động khẩn trương, tích cực, chạy đua cùng thời gian để thu về những mẻ lưới bội thu giữa bức tranh thiên nhiên thêm rực rỡ sắc màu.

– Khi trở về: Khí thế vẫn khẩn trương, tràn đầy niềm tự hào, tư thế lớn lao sánh ngang tầm vũ trụ

“Câu hát căng buồm với gió khơi,

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.

– Hình ảnh Câu hát, mặt trời, đoàn thuyền được lặp lại nhưng có sự thay đổi vị trí các hình ảnh tạo thành kết cấu đầu cuối tương ứng gợi hoạt động nhịp nhàng, chạy đua của con người với sự tuần hoàn của thiên nhiên vũ trụ. Phép nói quá, hình ảnh thơ lãng mạn: Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời tái hiện không khí lao động khẩn trương, tràn ngập niềm vui của con người dường như đã đánh thức, làm bừng tỉnh cả thiên nhiên vũ trụ.

Vẻ đẹp của những người lao động mới làm chủ quê hương, làm chủ biển trời với tình yêu lao động, yêu quê hương đất nước sâu sắc. Đó chính là cái hay, cái đẹp làm nên sức hấp dẫn cho bài thơ.

b. Bài thơ hay ở nghệ thuật biểu hiện:

– Âm hưởng thơ khỏe khoắn, sôi nổi vừa phơi phới, bay bổng vừa ngọt ngào, tha thiết.

– Nhịp điệu thơ như khúc hát say mê, hào hứng của người lao động.

– Thể thơ 7 chữ, cách gieo vần biến hóa linh hoạt: vần trắc tạo sức mạnh khỏe khoắn, vần bằng tạo vang xa, bay bổng.

– Hình ảnh thơ kì vĩ, tráng lệ được sáng tạo bằng cảm hứng lãng mạn và cảm xúc về thiên nhiên vũ trụ. Đặc biệt là những hình ảnh so sánh, nhân hóa đẹp.

– Kết cấu đầu cuối tương ứng thể hiện trọn vẹn hành trình ra khơi đánh cá và trở về.

Cảm hứng lãng mạn cách mạng, cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về lao động cùng những hình ảnh liên tưởng phong phú, giọng thơ khỏe khoắn, hào hùng đã làm nên đặc sắc nghệ thuật tác phẩm.

3.  Đánh giá chung:

– Khẳng định lại cái hay, sức hấp dẫn của bài thơ:

+ Bút pháp tả thực kết hợp lãng mạn, sáng tạo nhiều hình ảnh thơ gợi cảm, mới lạ…

+ Bài thơ đã tác động sâu sắc đến người đọc bao thế hệ, khơi gợi trong ta tình yêu đối với biển, với quê hương đất nước. Vì thế, đọc bài thơ ta không chỉ một lần mà hiểu được, cần đọc bằng cả tâm hồn, trái tim của mình mới thấm hết cái hay, cái đẹp của nó.

  • Kết bài:

– Khẳng định lại vấn đề nghị luận.

– Liên hệ, suy ngẫm của bản thân về trách nhiệm của thế hệ trẻ với đất nước, biển đảo quê hương…


ĐỀ SỐ 8. Cùng viết về trăng nhưng ba bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận, “Ánh trăng” của Nguyễn Duy lại có những đặc sắc riêng.

Bằng những hiểu biết của mình, em hãy phân tích, so sánh để làm nổi bật những nét đặc sắc của mỗi bài thơ.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I. Yêu cầu về hình thức

– Đúng kiểu bài, bố cục  rõ ràng, hợp lý.

– Lập luận chặt chẽ. Diễn đạt mạch lạc.

– Không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.

II. Yêu cầu về nội dung

Trên cơ sở những hiểu biết về ba bài thơ học sinh có thể làm bài theo nhiều cách nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau đây:

  • Mở bài:

– Giới thiệu vấn đề cần nghị luận

  • Thân bài:

1. Phân tích chứng minh làm sáng tỏ vấn đề:

a) Điểm giống nhau:

– Đều là hình ảnh thiên nhiên đẹp, trong sáng.

– Đều là người bạn tri kỉ với con người trong lao động, trong chiến đấu và trong sinh hoạt hàng ngày.

b) Điểm khác nhau:

– Trăng trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu:

+ Trăng là biểu tượng đẹp của tình đồng chí gắn bó, keo sơn trong cuộc chiến đấu gian khổ ở giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

+ Trăng là hình tượng hiện thực và lãng mạn, là biểu tượng cho cuộc sống hòa bình, là hình ảnh của quê hương đất nước.

+ Trăng còn là vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ lạc quan, lãng mạn.

– Trăng trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận:

+ Trăng như cánh buồm chuyên chở và nâng lên niềm vui hào hứng của những người lao động.

+ Trăng là nét vẽ tài tình tạo nên bức tranh biển đêm tráng lệ, rực rỡ sắc mầu.

– Trăng trong bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy:

+ Trăng trong quá khứ: gắn bó với tuổi thơ hạnh phúc; là người bạn tri kỉ

+ Trăng trong hiện tại: là người dưng đột ngột gặp lại trong một đêm thành phố mất điện khiến nhà thơ giật mình, day dứt, suy nghĩ về cách sống hiện tại của mình, trăng là vị quan tòa thức tỉnh lương tâm và nhắc nhở con người không lãng quên quá khứ, sống ân nghĩa, thủy chung.

2. Đánh giá chung:

– Vầng trăng trong Đồng chíĐoàn thuyền đánh cá chỉ hiện lên chốc lát còn vầng trăng trong Ánh trăng lại gắn bó với một đời người.

– Nếu vầng trăng trong Đồng chíĐoàn thuyền đánh cá chỉ soi vào phần tươi đẹp của cuộc sống con người vào chính diện cuộc đời thì vầng trăng trong Ánh trăng lại soi rọi vào góc khuất tâm hồn con người để thức tỉnh lương tri giúp người ta biết sống tình nghĩa, thủy chung.

– Với sự sáng tạo tài tình của ba nhà thơ, hình ảnh trăng trong ba tác phẩm thật sự là những hình ảnh đẹp, để lại trong lòng độc giả những cảm xúc dạt dào, sâu lắng.

  • Kết bài:

– Khẳng định vấn đề nghị luận.


ĐỀ SỐ 9. Trong thơ ca Việt Nam, có nhiều bức tranh thiên nhiên đẹp được vẽ bằng ngôn từ.

Có vẻ đẹp tinh khôi, thanh khiết:

“Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”.

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Có vẻ đẹp nên thơ, tráng lệ:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lìa nước Hạ Long”.

(Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận)

Có vẻ đẹp sáng trong, bình dị:

“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”

(Sang thu – Hữu Thỉnh).

Cảm nhận của em về vẻ đẹp tâm hồn và tài năng của mỗi thi nhân qua những bức tranh thiên nhiên trong các câu/đoạn thơ trên.

GỢI Ý LÀM BÀI.

Có thể viết bài văn theo định hướng sau :

  • Mở bài: 

– Trong thơ ca Việt Nam có nhiều bức tranh thiên nhiên đẹp được vẽ bằng ngôn từ.

– Tâm hồn và tài năng của mỗi thi nhân được biểu hiện qua những bức tranh thiên nhiên những câu thơ thuộc các đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, “Đoàn thuyền đánh cá”, “Sang thu”.

  • Thân bài:

1. Giống nhau:

– Thiên nhiên được cảm nhận qua tâm hồn thi nhân và được thể hiện qua bút pháp nghệ thuật độc đáo.

– Qua thiên nhiên gửi gắm những tình cảm, tư tưởng của tác giả.

2. Khác nhau:

a. Vẻ đẹp thiên nhiên tinh khôi, thanh khiết trong “Cảnh ngày xuân” (trích Truyện Kiều của Nguyễn Du):

– Hình ảnh “cỏ non…”:

+ Tái hiện một không gian tràn đầy sắc xanh non của cỏ mùa xuân.

+ Gợi: sự tươi non và sức sống dat dào của mùa xuân.

– Hình ảnh “cành lê”:

+ Đảo ngữ “trắng điểm”: tô đậm sắc trắng của đóa hoa lê.

+ Từ “điểm”: gợi ấn tượng về sự thanh thoát của hoa.

– Màu sắc:

+ Sắc xanh của cỏ.

+ Màu trắng của hoa.

– Bức tranh thiên nhiên với vẻ đẹp hài hòa, gợi một không gian trong trẻo, tinh khôi, tràn trề nhựa sống.

Với bút pháp chấm phá tài tình, tác giả đã rất thành công khi phác họa mọt bức tranh mùa xuân khoáng đạt, tươi đẹp. Thế giới tâm hồn tràn đầy niềm tươi vui, phấn chấn và có chút tiếc nuối của chị em Thúy Kiều.

b. Vẻ đẹp nên thơ, lặng lẽ trong khổ thơ thứ 4 bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận

– Liệt kê: “cá nhụ”, “cá chim”…:

+ Là những loài cá quý giá nhất -> sự hào phóng của biển cả.

+ Tô đậm ấn tượng về một vùng biển giàu có với sản vật phong phú.

– Hình ảnh miêu tả: “cá song…đuốc đen hồng”:

+ Tả thực cá song dài có những chấm nhỏ màu đen hồng.

+ Liên tưởng đến ngọn đuốc làm sáng cả biển đêm.

– Đại từ “em” : nhân hóa câu thơ:

+ Cá không phải là đối tượng để đánh bắt mà là đối tượng để chinh phục.

+ Gợi hành trình chinh phục tự nhiên của con người.

– Nhân hóa: “đêm thở”, “sao lùa”: Vẻ đẹp của đêm trăng trên biển. Ánh trăng sao lồng vào sóng nước nên khi cá quẫy ta có cảm giác không phải mặt nước đang xao động mà là màn đêm đang thở.

Với thể thơ 7 chữ trang trọng cùng các biện pháp tu từ, tác giả khắc họa bức tranh thiên nhiên biển khơi vừa giàu vừa đẹp. Đó là bức tranh biển khơi của đất nước nên thơ, lặng lẽ, đẹp vô ngần.

c. Vẻ đẹp sáng trong, bình dị trong hai câu thơ đầu bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh:

– Mùa thu trong thơ trung đại thường được nhận ra bằng một lá vàng rơi. Đến văn học đầu thế kỉ XX Bích Khê cũng có “Ô hay buồn vương cây ngô đồng – Vàng rơi, vàng rơi, thu mênh mông”. Chỉ đến Hữu Thỉnh, mùa thu mới được nhận ra bằng dấu hiệu rất bình dị của đồng nội quê hương.

– “Hương ổi”: đi liền với từ “bỗng” gợi cảm giác đột ngột, ngỡ ngàng; “phả” – làn hương ngọt ngào, sánh đậm, mùi ổi chín như được cô lại, phả vào gió thu. “Hương ổi” gợi không gian thơ thân thuộc, yêu dấu của làng quê đất Việt với những khu vườn, lối ngõ đầy hoa trái, làm nên hương sắc mỗi mùa; gợi hương vị riêng của mùa thu trong thơ Hữu Thỉnh.

– “Gió se” là ngọn gió heo may mùa thu dịu nhẹ, thoáng chút se lạnh lúc thu về, giúp ta cảm nhận rõ hơn cái ngọt lành của hương ổi.

– Thể thơ 5 chữ với những chất liệu thơ ca bình dị diễn tả những cảm nhận tinh tế của thiên nhiên vào lúc sung thu.

Những cảm nhận mới mẻ, tinh tế của tác giả lúc mùa sang. Ẩn sau những đổi thay của thiên nhiên đất trời lúc sang thu là niềm vui, niềm hạnh phúc của thi nhân.

  • Kết bài:

– Mỗi thi nhân cảm nhận được vẻ đẹp thiên nhiên khác nhau.


ĐỀ SỐ 10. Thơ văn hiện đại Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975, ngoài hình ảnh người chiến sĩ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc còn mang nhịp thở của con người lao động mới.

Bằng những hiểu biết về văn học giai đoạn này, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I/ Yêu cầu về kĩ năng:

– Học sinh hiểu đúng yêu cầu của đề bài. Đảm bảo là một văn bản nghị luận văn học có bố cục 3 phần rõ ràng, kết cấu chặt chẽ. Biết phân tích dẫn chứng để làm sáng tỏ vấn đề. Hành văn trôi chảy. Văn viết có cảm xúc. Không mắc quá năm lỗi diễn đạt, dùng từ, ngữ pháp, chính tả.

II/ Yêu cầu về kiến thức:

– Bài viết có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cơ bản đáp ứng được những nội dung sau:

  • Mở bài:

– Nêu được hiện thực của đất nước ta từ 1945 đến 1975. Hiện thực đó đã tạo nên vóc dáng người chiến sĩ và vóc dáng của con người mới xây dựng CNXH.

– Hình ảnh người chiến sĩ và người lao động mới hoà quyện tạo nên vẻ đẹp của con người dân tộc Việt Nam. Và điều này đã làm nên hơi thở, sức sống của văn học thời kì 1945 – 1975.

  • Thân bài:

– Hình ảnh người chiến sĩ trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc:

+ Họ là những con người nổi bật với lòng yêu nước, ý chí quyết tâm chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, với tình đồng đội cao cả, sắt son, tinh thần lạc quan:

+ Họ là những con người ở mọi tầng lớp, lứa tuổi như: người nông dân mặc áo lính (Đồng chí của Chính Hữu), những chàng trai trí thức vừa rời ghế nhà trường (Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật), là em bé liên lạc (Lượm của Tố Hữu)…

+ Họ là những người lính, người chiến sĩ có lòng yêu nước sâu sắc, có ý chí quyết tâm chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. (dẫn chứng)。

– Hoàn cảnh sống chiến đấu đầy khó khăn, gian khổ song họ luôn có tinh thần lạc quan và tình đồng chí, đồng đội cao đẹp… (dẫn chứng)。

– Hình ảnh người lao động mới: họ xuất hiện với tư cách là những người làm chủ cuộc sống mới, họ lao động, cống hiến một cách hăng say, hào hứng, sẵn sàng hi sinh cả tuổi thanh xuân của mình vì những lí tưởng cao cả và tương lai đất nước:

+ Người lao động trong “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy cận mang nhịp thở tươi vui, hăm hở, hoà mình cùng trời cao biển rộng: họ ra khơi với niềm hân hoan trong câu hát, với ước mơ trong công việc, với niềm vui thắng lợi trong lao động. Đó là những con người mang tầm vóc vũ trụ, hăm hở ra khơi bằng tất cả sức lực và trí tụê của mình.(Dẫn chứng).

+ “Lặng lẽ SaPa” của Nguyễn Thành Long mang nhịp thở của người lao động mới với phong cách sống đẹp, suy nghĩ đẹp, sống có lí tưởng, say mê, miệt mài trong công việc, quên mình vì cuộc sống chung, vô tư thầm lặng cống hiến hết mình cho đất nước. Cuộc sống của họ âm thầm, bình dị mà cao đẹp (Dẫn chứng)

  • Kết bài:

– Khẳng định lại giá trị và những đóng góp của Văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 đã đáp ứng được những yêu cầu của lịch sử và thời đại. Hình ảnh người chiến sĩ và người lao động đã kết tinh thành sức mạnh của con người và dân tộc Việt Nam thế kỉ XX.


ĐỀ SỐ 11. “Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp”. Hãy khám phá “xứ sở của cái đẹp” qua văn bản Đoàn thuyền đánh cá (Huy Cận, Ngữ văn 9, tập 1).

GỢI Ý LÀM BÀI.

I/Yêu cầu về kĩ năng:

– Viết đúng kiểu bài nghị luận văn học (có suy nghĩ, đánh giá, cảm xúc…)

– Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát; bố cục rõ ràng, mạch lạc, không mắc lỗi về chính tả, dùng từ và ngữ pháp. Hành văn lưu loát, trong sáng, có cảm xúc.

II/ Yêu cầu về kiến thức:

  • Mở bài:

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vấn đề nghị luận

– Trích dẫn ý kiến

  • Thân bài:

1. Giải thích:

“Nhà văn chân chính” là nhà văn luôn đặt mục đích sáng tác vào con người và cuộc sống. Đem ngòi bút của mình phục vụ đời sống và có ích cho con người.

“Xứ sở của cái đẹp” trong tác phẩm văn học được thể hiện ở hai phương diện nội dung và 2 hình thức:

+ Vẻ đẹp nội dung là vẻ đẹp của tự nhiên và con người trong lao động, chiến đấu, các lĩnh vực khác… mà nhà văn mang tới cho người đọc.

+ Vẻ đẹp hình thức là khả năng xây dựng được những hình tượng nghệ thuật sinh động, độc đáo, hấp dẫn. Là khả năng kết cấu chặt chẽ, tình huống hợp lí và khả năng sử dụng ngôn từ điêu luyện…

→ Nội dung, hình thức đẹp không chỉ đem lại cho người đọc những rung cảm thẩm mĩ mà còn làm cho con người yêu cuộc sống, khao khát hướng tới những gì đẹp đẽ tốt lành cho cuộc đời. Để người đọc cảm nhận được xứ sở của cái đẹp đó thì nhà văn chân chính là người dẫn đường cho người đọc khám phá cảm nhận. Đó là niềm vui, niềm hạnh phúc của nhà văn.

2. Chứng minh qua văn bản “Đoàn thuyền đánh cá” của nhà văn Huy Cận

* Xứ sở của cái đẹp trong “Đoàn thuyền đánh cá” được thể hiện ở trước hết ở phương diện nội dung :

– Xứ sở của cái đẹp trong Đoàn thuyền đánh cá được thể hiện ở vẻ đẹp của thiên nhiên vùng biển Hạ Long :

+ Đó là cảnh thiên nhiên bao la, bát ngát, hùng vĩ khiến cảnh lao động thêm hùng tráng.

+ Thiên nhiên kì ảo, thơ mộng khiến cảnh lao động trở lên thi vị

+ Thiên nhiên đầy sức sống, ấm áp, gần gũi với con người

+ Thiên nhiên giàu có ban tặng bao loài các với vẻ đẹp lộng lẫy và rực rỡ làm nên kết quả tốt đẹp của người lao động, …

(Lấy được dẫn chứng, phân tích)

Tất cả làm nên một bức tranh thiên nhiên đẹp kì lạ, hấp dẫn gợi ra cho ta bao liên tưởng và yêu mến.

* Xứ sở của cái đẹp trong Đoàn thuyền đánh cá còn được thể hiện ở vẻ đẹp hấp dẫn của con người:

– Làm chủ cuộc đời, làm chủ biển trời quê hương, miệt mài, hăng say lao động, không quản ngày đêm làm giàu cho quê hương, đất nước.

–  Tâm hồn phơi phới lạc quan.

–  Lao động đạt kết quả tốt đẹp.

–  Hình ảnh họ được khắc họa trong sự hòa hợp với thiên nhiên, nổi bật ở vị trí trung tâm, gắn với đoàn thuyền đánh cá, trong lao động tập thể hào hùng, đầy niềm vui. Tầm vóc của họ được phóng to trên nền vũ trụ, mang kích thước vũ trụ. Vẻ đẹp của họ vừa thực, vừa lãng mạn. (Lấy được dẫn chứng, phân tích)

Tất cả đã tạo nên xứ sở của cái đẹp: thiên nhiên đẹp, con người đẹp

* Xứ sở của cái đẹp trong “Đoàn thuyền đánh cá” không chỉ đẹp về nội dung mà còn đẹp về nghệ thuật, được thể hiện:

– Cảm hứng vũ trụ và cảm hứng lãng mạn cách mạng đã tạo cho bài thơ có nhiều hình ảnh độc đáo, vừa thực, vừa ảo, vừa rộng lớn, tráng lệ, lung linh như những bức tranh sơn mài..

– Bài thơ cũng là một khúc ca, khúc ca về lao động, về thiên nhiên đất nước giàu đẹp. Khúc ca ấy phơi phới, khỏe khoắn, mạnh mẽ, được tạo nên bởi âm hưởng, giọng điệu của bài thơ. Các yếu tố lời thơ, nhịp điệu, vần, … góp phần làm nên âm hưởng ấy. Cách gieo vần có nhiều biến hóa, linh hoạt…

– Bút pháp phóng đại khoa trương đạt hiệu quả thẩm mĩ và tạo dấu ấn riêng cho bài thơ…

– Sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ: liệt kê gợi sự giàu có của biển khơi, các hình ảnh ẩn dụ…nghệ thuật nhân hóa gợi một không gian sống động, lung linh, kì ảo mà gần gũi, ấm áp

  • Kết bài:

– Cái đẹp trong tác phẩm văn học đa dạng, phong phú được khơi nguồn kết tinh từ cuộc sống.

– Đời sống tự nhiên ấy được khúc xạ qua ánh sáng, cảm quan, quá trình lao động cực nhọc, sáng tạo, mê say của nhà văn để có được sức hấp dẫn, những giá trị đẹp của con người, làm cho con người sống tốt hơn.

– Yêu cái đẹp của văn chương là chúng ta yêu tấm lòng của nhà văn. Họ là những kĩ sư tâm hồn đốt cháy mình để có được ánh sáng, niềm vui dẫn ta đến bến bờ xứ sở của cái đẹp trong cuộc sống.


ĐỀ SỐ 11. Làm rõ vẻ đẹp con người Việt Nam qua một số tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn 9.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I/ Về kỹ năng:

– HS biết xây dựng luận điểm và lựa chọn, phân tích tác phẩm để làm rõ luận đề. Hành văn, diễn đạt trong sáng, có cảm xúc. Kết cấu bài hoàn chỉnh, chặt chẽ; không mắc những lỗi thông thường về chính tả, ngữ pháp, dùng từ.

II/ Về kiến thức:

– HS trên cơ sở nắm chắc các tác phẩm đã học, biết phân nhóm (theo luận điểm ) các tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại trong chương trình. Ngữ văn 9 để làm rõ luận đề đã nêu ở đề bài.

  • Mở bài:

– Nêu được vấn đề cần nghị luận.

  • Thân bài:

– Vẻ đẹp của tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ:

Yêu nước, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì Tổ quốc, vì cách mạng… (Lựa chọn, phân tích, dẫn chứng qua các tác phẩm: Làng (Kim Lân ), Đồng chí (Chính Hữu), Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật), …

– Vẻ đẹp của tinh thần lao động hăng say, với tinh thần làm chủ…góp phần xây dựng đất nước.

(Phân tích, dẫn chứng qua các tác phẩm: Đoàn thuyền đánh cá (Huy Cận), Lặng lẽ Sa Pa (Nguyễn Thành Long)…

– Vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam trong đời sống tình cảm: lòng kính yêu đối với lãnh tụ; tình đồng chí, đồng đội; tình cảm cha – con, tình mẹ – con, tình bà – cháu…

(Lựa chọn, phân tích, dẫn chứng qua các tác phẩm: Đồng chí (Chính Hữu), Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật) Chiếc lược ngà  (Nguyễn Quang Sáng), Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ (Nguyễn Khoa Điềm ), Bếp lửa (Bằng Việt ),  Ánh trăng (Nguyễn Duy)…

  • Kết bài:

– Khẳng định nền văn học Việt Nam hiện đại đã lưu giữ, phát huy những tinh hoa và bản sắc của tâm hồn dân tộc. Góp phần bồi đắp tâm hồn, tính cách… cho các thế hệ Việt Nam ở hiện tại và tương lai.


ĐỀ SỐ 12. Hãy phân tích bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận để làm rõ ý kiến:“Đoàn thuyền đánh cá là bài thơ đầy ánh sáng”.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I/ Yêu cầu về kỹ năng:

– Biết cách làm bài nghị luận về một vấn đề của tác phẩm văn học – một bài thơ.

– Sử dụng tốt các thao tác nghị luận; phép lập luận; hành văn, diễn đạt trong sáng, có cảm xúc.

II/ Yêu cầu về kiến thức:

  • Mở bài:

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm, ý kiến :“Đoàn thuyền đánh cá là bài thơ đầy ánh sáng”.

  • Thân bài:

Học sinh có thể có những cách trình bày riêng song phải hướng vào ý “đầy ánh sáng”.

– Màn đêm buông xuống với hình ảnh “mặt trời xuống biển”: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa”. Cái khối sáng đỏ rực, khổng lồ tưởng chừng bị mất đi trong bóng đêm và biển cả nhưng lại có một thứ ánh sáng mới đã lóe lên – niềm hy vọng, phấn khởi về chuyến ra khơi :

“Đoàn thuyền đánh lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”

– Cảnh đánh cá “đầy ánh sáng” trong đêm: Tiếng hát, không khí lao động, … chính là nguồn sáng mang đến cho đêm lao động vẻ đẹp nên thơ, tráng lệ.

– Cảnh đêm trên biển phát sáng trong niềm hân hoan lao động:

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặn
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.”

(Phân tích các hình ảnh thơ: cá bạc, muôn luồng sáng)

– Không khí khẩn trương, sôi nổi là nguồn sáng chan hòa mặt biển. “Mây cao”, “biển bằng”  bàng bạc ánh trăng. Tay lái con thuyền gắn với gió, cánh buồm thành “buồm trăng”. Con người lao động như tỏa sáng trong tư thế làm chủ thiên nhiên, biển cả:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa  dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”

– Khung cảnh thiên nhiên tràn đầy ánh sáng: ánh sáng của trăng, của sao… tạo nên vẻ đẹp lung linh sắc màu của các loài cá:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.”

– Cảnh đêm chấm dứt và ánh sáng mặt trời lúc bình minh hiện lên cùng với ánh sáng thắng lợi từ thành quả lao động của đoàn thuyền đánh cá sau chuyến ra khơi:

“Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”

(Phân tích hình ảnh thơ: mặt trời, mắt cá huy hoàng)

  • Kết bài:

– Khẳng định vấn đề: Niềm vui lao động xây dựng cuộc sống mới với ý thức làm chủ – làm chủ thiên nhiên, làm chủ cuộc sống – chính là ánh sáng rực rỡ nhất của một bài thơ “đầy ánh sáng” – “Đoàn thuyền đánh cá”.


ĐỀ SỐ 13. Vẻ đẹp của người lao động mới qua hai tác phẩm “Đoàn thuyền đánh cá” (Huy Cận) và “Lặng lẽ Sa Pa” (Nguyễn Thành Long)

GỢI Ý LÀM BÀI.

I. Yêu cầu về kĩ năng:

– HS có kĩ năng làm bài NLVH tổng hợp, biết kết hợp các phép lập luận như giải thích, phân tích, chứng minh, bình luận, biết khái quát để làm nổi bật vấn đề.

– Hiểu đúng vấn đề mà đề bài yêu cầu. Lập được các luận điểm phù hợp.

– Biết lựa chọn và phân tích dẫn chứng sao cho làm sáng rõ vấn đề.

– Không sa đà vào tình trạng diễn xuôi ý thơ hoặc kể lại chuyện.

– Văn viết có cảm xúc, diễn đạt trôi chảy; dùng từ, đặt câu chuẩn xác.

– Bố cục bài hoàn chỉnh, chặt chẽ.

II. Yêu cầu về nội dung kiến thức:

  • Mở bài:

– Nêu đúng vấn đề và giới hạn: Vẻ đẹp của người lao động mới trong hai tác phẩm “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận và “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long.

  • Thân bài:

1. Hoàn cảnh sáng tác hai tác phẩm:

– Sau chiến thắng thực dân Pháp, miền Bắc nước ta bắt tay vào công cuộc xây dựng CNXH. Một không khí phấn khởi, hăng say lao động dấy lên khắp mọi nơi để dựng xây cuộc sống mới và chi viện cho miền Nam đánh Mỹ. Niềm vui, niềm tin yêu dào dạt trước cuộc sống mới đang hình thành, đang thay da đổi thịt đã trở thành nguồn cảm hứng lớn của văn học lúc bấy giờ. Nhiều nhà thơ đã đi tới các miền đất xa xôi của Tổ quốc: miền núi, hải đảo, nhà máy, nông trường để sống và viết. Các tác phẩm “Đoàn thuyền đánh cá” – Huy Cận (1958), “Lặng lẽ Sa Pa” – Nguyễn Thành Long (1970) đều là kết quả của những chuyến đi thực tế, các tác giả đã trực tiếp chứng kiến cuộc sống của người lao động. Các tác giả đã ngợi ca khí thế lao động hăng say, lòng yêu đời của người lao động mới- những người đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước. Họ thuộc đủ mọi lớp người, mọi lứa tuổi, với những nghề nghiệp khác nhau, làm việc ở những vùng khác nhau nhưng đều có chung những phẩm chất cao đẹp.

2. Hình ảnh người lao động mới:

* Công việc, điều kiện làm việc của họ đầy gian khó, thử thách.

– Người ngư dân trong bài thơĐoàn thuyền đánh cá ra khơi khi thiên nhiên, vũ trụ vào trạng thái nghỉ ngơi. Đánh cá trên biển đêm là một công việc rất vất vả và nguy hiểm…

– Trong Lặng lẽ Sa Pa: Anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn cao 2600 mét. Anh sống một mình, xung quanh anh chỉ có cây cỏ, mây mù lạnh lẽo và một số máy móc khoa học. Cái gian khổ nhất với anh là sự cô độc. Công việc của anh là “đo gió, đo mưa..dự báo thời tiết”. Công việc ấy đồi hỏi phải tỉ mỉ, chính xác. Mỗi ngày anh đo và báo số liệu về trạm bốn lần. Nửa đêm, đúng giờ “ốp” dù mưa tuyết, gió rét thế nào thì vẫn phải trở dậy làm việc.

* Trong điều kiện khắc nghiệt như vậy nhưng họ vẫn nhiệt tình, hăng say, mang hết sức lực của mình để cống hiến cho Tổ quốc.

– Những ngư dân là những người lao động tập thể. Họ hăm hở: “ Ra đậu dăm xa dò bụng biển/ Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”. Kiên cường, hòa nhập với thiên nhiên bao la với tư thế ngang tầm vũ trụ. Họ làm việc nhiệt tình, hăng say, đầy khí thế. ( Phân tích dẫn chứng)

– Anh thanh niên am hiểu, thành thạo trong công việc. Anh hiểu việc mình làm có ý nghĩa quan trọng: phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu Công việc tuy lặp lại đơn điệu song anh vẫn rất nhiệt tình, say mê, gắn bó với nó, hoàn thành tốt nhiệm vụ. ( Phân tích dẫn chứng)

* Đó là những con người sống có lí tưởng và tràn đầy lạc quan, thực sự tìm thấy niềm hạnh phúc trong lao động.

– Người đánh cá ra đi, làm việc và trở về đều trong câu hát. Họ đã thu về thành quả thật tốt đẹp. Hình ảnh thơ cuối bài rạng rỡ niềm vui, niềm hi vọng của người lao động vì một ngày mai “huy hoàng”…

(Phân tích dẫn chứng)

– Người thanh niên trên đỉnh núi cao Yên Sơn thì tâm sự với ông họa sĩ: “Cháu sống thật hạnh phúc”.  Chính từ suy nghĩ : “Mình sinh ra. vì ai mà làm việc?” mà anh đã vượt lên sự cô đơn để gắn bó với công việc thầm lặng.

 (Phân tích dẫn chứng)

– Ở Sa Pa, không phải chỉ có anh thanh niên mà còn có cả một thế giới những người lao động “làm việc và lo nghĩ cho đất nước” qua lời anh kể như: anh bạn trên trạm đỉnh Phan- xi- păng, ông kĩ sư vườn rau, đồng chí cán bộ nghiên cứu lập bản đồ sét

3. Đánh giá khái quát:

– Dù ở nơi núi cao hay biển xa nhưng những người lao động vẫn nhiệt tình, âm thầm mang sức lực của mình cống hiến cho Tổ quốc. Người lao động vô danh trong hai tác phẩm đủ mọi thành phần, lứa tuổi , nghề nghiệp… đều là những người nhiệt tình, say mê công việc, sống có lí tưởng. Họ là điển hình cao đẹp của con người lao động mới trưởng thành trong công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc.

– Khẳng định thành công của các tác giả trong việc khắc họa hình ảnh người lao động: Các tác giả đã ghi lại hình ảnh họ rất chân thực và sống động trong những trang viết thấm đẫm cảm hứng lãng mạn, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động; bộc lộ niềm vui, niềm tự hào trước đất nước và cuộc sống.

  • Kết bài:

– Liên hệ thực tế cuộc sống, văn thơ, những suy nghĩ của bản thân…

– Mỗi chúng ta cần biết trân trọng những người lao động bình thường trong cuộc sống hàng ngày bởi chính họ đã dựng xây nên cuộc sống tươi đẹp này. Chúng ta học tập được ở họ những phẩm chất đáng quý…


ĐỀ SỐ 14. Cảm nhận của em về “Sự giao thoa giữa cảm hứng về thiên nhiên, vũ trụ và cảm hứng về lao động” trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận (SGK Ngữ văn 9 , tập một).

GỢI Ý LÀM BÀI.

I/ Yêu cầu về kỹ năng:

– Biết cách làm bài văn nghị luận về một ý kiến bàn về văn học.

– Kết cấu chặt chẽ, diễn đạt trong sáng, khuyến khích các bài viết sáng tạo.

II/ Yêu cầu về kiến thức

Mở bài:

– Giới thiệu vấn đề nghị luận: “Sự giao thoa giữa cảm hứng về thiên nhiên, vũ trụ và cảm hứng về lao động” trong bài thơ Đoàn thuyền đành cá của Huy Cận.

  • Thân bài:

1. Cảm hứng trước cảnh hoàng hôn trên biển và khúc hát ra khơi của đoàn thuyền đánh cá (hai khổ đầu).

– Nhà thơ mở ra trước mắt người đọc cảnh biển đẹp, kì vĩ, tráng lệ. mênh mang không gian bao la, mặt trời đang từ từ xuống biển đỏ như quả cầu lửa khổng lồ. Sóng đan trên mặt nước lung linh ánh vàng như cài then, sập cửa khép lại nửa chu kì nhật nguyệt. Cảnh biển trước hoàng hôn không nặng nề, tăm tối mà mang vẻ đẹp tráng lệ của thiên nhiên tạo vận trong quy luật vận động của nó. Tác giả miêu tả với cảm hứng vũ trụ, nếu trước Cách Mạng, Vũ trụ ca còn mênh mang trời nước một nỗi buồn ảo não bơ vơ thì giờ đây niềm vui tràn ngập ấm áp giao thoa trong cảnh và người.

– Nổi bật lên bức tranh thiên nhiên kì vĩ ấy là hình ảnh đoàn thuyền đánh cá căng buồm lướt sóng ra khơi. Tâm trạng náo nức của người lao động hòa trong khúc hát lên đường đầy khí thế, nhiệt tình và khẩn trương. Họ hát cho buồm căng gió, cho cá bạc đầy khoang, cho cá thu như đoàn thoi đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!

2. Cảm hứng trước cảnh biển đêm trăng và cảnh đánh bắt cá của đoàn thuyền (4 khổ tiếp).

– Khi sóng đã cài then, đêm sập cửa thì hình ảnh vũ trụ lại chuyển sang một cảnh khác – cảnh biển đêm trăng. Không gian bao la lại tạo ra bức tranh trời nước với những ngôi sao lấp lánh, trăng chan hòa sắc vàng không gian, mây cao, gió lộng buồm căng thấm đẫm ánh trăng. Biển đẹp và sống động: “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long”, “gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”.

– Sự giao thoa hai nguồn cảm hứng ở 4 khổ thơ này rất rõ, Cảm hứng lãng mạn cách mạng và cảm hứng vũ trụ đã tạo ra cảnh bắt cá của đoàn thuyền dưới đêm trăng tuyệt đẹp, hùng tráng, mơ mộng: “Thuyền ta lướt gió với buồm trăng/ Lướt giữa mây cao với biển bằng”. Thật bay bổng, lãng mạn, con thuyền nhỏ nhoi trước vũ trụ bao la trở nên kì vĩ, mang tầm vóc vũ trụ, lướt giữa gió, mây, trăng sao và cánh buồm thấm đãm ánh trăng.

– Hình ảnh con người càng khỏe khoắn, lồng lộng giữa biển khơi, ra thăm dò bụng biển, tìm luồng cá, dàn đan thế trận, bủa lưới vây giăng…..vừa làm vừa hát khiến công việc đánh bắt cá trên biển vốn đầy nặng nhọc, gian khổ, nguy hiểm thành bài ca lao động hào hứng, vui tươi.

– Hình ảnh con người lao động là trung tâm của bức tranh được nhà thơ khắc họa bằng nét bút giàu chất tạo hình. Thân hình chắc khỏe, gân guốc, cơ bắp cuồn cuộn, kéo lên những mẻ lưới trĩu nặng cá bạc, vàng. Trăng soi, chiếu xuống mặt biển, sóng xô bóng trăng gõ vào mạn thuyền, tạo nên nhịp sóng lấp lánh ánh trăng như xua cá vào lưới. Thiên nhiên – con người giao hòa, tạo nên bức tranh đánh bắt cá trên biển đêm trăng vừa hùng tráng vừa thơ mộng.

3. Cảnh biển bình minh và đoàn thuyền đánh cá trở về trong chiến thắng (khổ cuối).

– Cảnh bình minh lên, mặt trời đội biển xòe những ngón tay hồng xua đi màn đêm còn xót lại. Biển trời bao la, sự vận động của thiên nhiên trên biển thật kì vĩ, mát mẻ, trong trẻo, tinh khôi, khoáng đãng. Gió khơi lồng lộng đưa đoàn thuyền trở về trong niềm vui chiến thắng cá đầy khoang, khép lại 1 chu trình lao động vất vả trên biển đêm. Con người lúc ra đi đẹp hào hùng đầy hứng khởi thì lúc trở về vẫn trong niềm vui chiến thắng ấy. Ánh dương đã tô điểm cho thành quả của họ thêm rực rỡ: ”Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi”.

– Sự giao thoa giữa hai nguồn cảm hứng: vũ trụ và cảm hứng cách mạng – ca ngợi người lao động đã tạo cho bài thơ những hình ảnh thiên nhiên rộng lớn, tráng lệ, độc đáo, thực mà mộng, biểu hiện niềm say sưa, hào hứng và những ước mơ bay bổng của con người muốn hòa hợp với thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên.

– Đây cũng là niềm vui của nhà thơ trước cuộc sống mới, con người lao động mới. Tâm hồn Huy Cận không còn ảo não, bơ vơ trong cái tôi lẻ loi trước vũ trụ mà đã thực sự hòa vào cái ta chung của đất nước, con người. Có thể nói đây là bài thơ hay nhất của Huy Cận trong thời kì đó.

  • Kết bài:

– Khẳng định vấn đê nghị luận.


ĐỀ SỐ 15. Sự khám phá và cách thể hiện hình ảnh ánh trăng trong các tác phẩm: “Đoàn thuyền đánh cá” (Huy Cận ); “Đồng chí” (Chính Hữu ); “Ánh trăng” (Nguyễn Duy ).

GỢI Ý LÀM BÀI.

I- Yêu cầu về kĩ năng:

– Nắm vững phương pháp nghị luận tác phẩm văn học, thể hiện sự cảm nhận tinh tế…

– Bố cục hợp lý, luận điểm rõ ràng, dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu. Diễn đạt mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp….

– Văn viết trong sáng, có cảm xúc.

II. Yêu cầu về kiến thức:

Học sinh cần trình bày được một số yêu cầu sau :

  • Mở bài:

– Hình ảnh ánh trăng trong thơ ca…đặc biệt ở 3 bài thơ : “Đoàn thuyền đánh cá” (Huy Cận ), “Đồng chí” (Chính Hữu ), “Ánh trăng” (Nguyễn Duy )

  • Thân bài :

– Sự khám phá ánh trăng ở những góc nhìn và cảm nhận khác biệt nhưng 3 nhà thơ đều gặp nhau ở một điểm đó là xem trăng như là người bạn gần gũi để bộc lộ tâm tư tình cảm, người bạn chứng kiến mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

– Dẫn chứng :

+ Trăng xuất hiện trong lao động sản xuất trên biển.

+ Trăng xuất hiện trong cảnh chiến đấu chờ quân thù.

+ Trăng xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày.

– Học sinh phân tích từng tác phẩm cụ thể :

* “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận

– “Thuyền ta lái gió với buồm trăng”

– “ Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”

– “ Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”

– Trăng ở đây giúp gợi lên một không gian bao la của trời biển, trong đó trung tâm là con người. Bằng nghệ thuật nhân hóa, ánh trăng trong bài thơ giúp ta hình dung ra một bức tranh hài hòa, lộng lẫy giữa vẻ đẹp của con người và biển cả , bởi vì nền của bức tranh ấy được dát bạc bởi ánh vàng của trăng, ánh sáng lung linh của muôn loài cá…

* “Đồng chí” của Chính Hữu:

– Hình ảnh “ Đầu súng trăng treo”

– Người lính trong khi làm nhiệm vụ có thêm vầng trăng làm bạn, tâm hồn người chiến sĩ tràn ngập ánh trăng tạo niềm tin chiến thắng trong chận chiến với quân thù.

* “Ánh trăng” của Nguyễn Duy:

– Khi lớn lên, đi bộ đội, vầng trăng như người bạn đồng hành và nhanh chóng trở thành tri kỉ

“Hồi chiến tranh ở rừng
Vầng trăng thành tri kỉ.”

– Khi cuộc chiến kết thúc sống trong điều kiện hòa bình, cuộc sống với đầy đủ tiện nghi :

“Từ ngày về thành phố
Quen ánh điện cửa gương
Ánh trăng đi qua ngõ
Ngỡ người dưng qua đường”

– Thực tế làm thức tỉnh một tư duy, điện tắt sẽ thấy trăng. Ánh trăng làm sáng lên góc tối của con người, đánh thức sự ngủ quên, lãng quên quá khứ trong điều kiện sống của con người hoàn toàn khác trước; từ đó rút ra bài học đạo lí làm người. Ánh trăng thực sự như một tấm gương soi để thấy được mặt thật của mình và tìm lại cái đẹp tinh khôi mà đôi khi chúng ta để mất.

  • Kết bài:

– Nêu nhận xét, đánh giá về hình ảnh ánh trăng trong thơ ca nói chung và ở 3 bài thơ trên về cách khám phá và thể hiện.


ĐỀ SỐ 16. Bàn vế bài thơ Bếp lửa (Bằng Việt) có ý kiễn cho rằng: “Bài thơ biểu hiện một triết lý thầm kín: những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người, đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trên hành trình dài rộng của cuộc đời”. Em hãy phân tích bài thơ để làm sáng tỏ nhận định trên.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I. Yêu cầu về kĩ năng:

– Biết cách làm một bài nghị luận văn học: hệ thống luận điểm rõ ràng, lập luận chặt chẽ, hành văn trong sáng, giàu cảm xúc, hình ảnh.

– Biết kết hợp các thao tác lập luận, bố cục hợp lí, không mắc lỗi diễn đạt, lỗi chính tả.

II. Yêu cầu về kiến thức

  •  Mở bài:

– Khái quát tác giả, tác phẩm, dẫn lời nhận xét.

  • Thân bài:

1. Giải thích lời nhận định:

– “Những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người”: Là những người thân trong gia đình, bạn bè, những kỷ niệm, một cây lược, một chiếc bút… gắn bó sâu sắc với ta. Đều có sức tỏa sáng, nâng đỡ con người trên hành trình dài rộng của cuộc đời”: Trở thành điểm tựa, nguồn động lực, cho ta sức mạnh trong mỗi bước đường đời.

2. Làm sáng tỏ nhận định.

– Trong bài thơ Bếp lửa, những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ là bà, là bếp lửa. Từ thuở khi cháu còn nhỏ (lên 4 tuổi) bà cháu và bếp lửa đã gắn bó với nhau….

– Bà với tình yêu thương, đức hy sinh, niềm tin yêu cuộc sống; Bếp lửa với sự ấm nồng, thân thiết đã là chỗ dựa cho cháu, nhen lên trong cháu những tâm tình, những niềm tin.

– Khi cháu lớn lên, học tập và công tác nơi xa, bà và bếp lửa vẫn là điểm tựa, là nguồn động viên là nơi nâng đỡ…

– Suy rộng ra, điều tạo ra sức tỏa sáng, sự nâng đỡ người cháu trong bài thơ còn là quê hương, đất nước.

  • Kết bài: 

– Khái quát giá trị nghệ thuật, nội dung:

+ Bài thơ kết hợp trữ tình, tự sựvà tính triết lý; hình ảnh thơ đẹp…

+ Bài thơ ngợi ca vẻ đẹp của người bà – người phụ nữ Việt Nam. Gợi lòng biết ơn, tình cảm gia đinh, tình yêu quê hương, đất nước.

– Gợi mở bài học có được từ vấn đề trên.


ĐỀ SỐ 17. Tình cảm gia đình qua hai tác phẩm: “Bếp lửa” của Bằng Việt, “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I/ Yêu cầu về hình thức:

– Viết đúng thể loại nghị luận về tác phẩm văn học.

– Bố cục ba phần đảm bảo rõ ràng mạch lạc, lập luận chặt chẽ.

– Trình bày sạch sẽ, chữ viết rõ ràng, đúng chính tả, ngữ pháp.

II/ Yêu cầu về nội dung:

Học sinh có thể kết cấu bài theo từng nội dung, hoặc có thể phát biểu cảm nhận về từng tác phẩm, nhưng phải đạt được những nội dung chính sau:

  • Mở bài:

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm, giới thiệu vấn đề nghị luận: tình cảm gia đình trong hai tác phẩm.

  • Thân bài:

1. Nét chung ở cả hai tác phẩm:

– Ca ngợi tình cảm gia đình sâu nặng, gắn bó, không gì có thể chia cắt.

– Là tình cảm riêng của mỗi con người nhưng không hề bé nhỏ cô đơn vì luôn ít nhiều gắn với tình cảm yêu nước.

– Là tình cảm lớn mang tầm nhân loại, nhưng không chung chung trừu tượng, mà được thể hiện bằng những chi tiết, sự việc, cảm xúc rõ ràng cụ thể.

2. Biểu hiện sinh động phong phú qua từng tác phẩm:

* “Bếp lửa”: Một tác phẩm trữ tình, là tình cảm bà cháu, qua cảm xúc của người cháu đã trưởng thành khi nhớ về bà. Cần phân tích được:

– Hình ảnh người bà, người mẹ Việt Nam qua hồi ức của người cháu.

– Tình yêu thương chăm sóc che chở của bà với cháu.

– Lòng thương nhớ ngưỡng mộ biết ơn của cháu với bà.

* “Chiếc lược ngà”: Là một tác phẩm tự sự, ở đó ta bắt gặp tình cảm cha con qua cái nhìn của người thứ ba, trong những tình huống éo le và độc đáo. Cần phân tích được:

– Tình cảm yêu quý bền vững không dễ gì thay đổi của cô bé ngây thơ, hồn nhiên nhưng bướng bỉnh và đầy bản lĩnh đối với người cha bộ đội.

– Tình thương con cao đẹp của người cha hết lòng vì con mà không có điều kiện chăm sóc con.

  • Kết bài:

– Khẳng định tình cảm gia đình trong hai tác phẩm: là động lưc, là cội nguồn của lòng yêu nước.


ĐỀ SỐ 18. Có nhận định rằng: “Từ những suy ngẫm của người cháu, bài thơ biểu hiện một triết lí sâu sắc: Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức tỏa sáng, nâng bước con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu đất nước bắt nguồn từ lòng yêu quý ông bà, cha mẹ, từ những gì gần gũi và bình dị nhất”. Qua bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt. Em hãy làm sáng rõ nhận định trên.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I . Yêu cầu về hình thức:

– Trình bày rõ ràng, diễn đạt tốt, văn viết trong sáng, có cảm xúc. Biết cách làm bài văn nghị luận có bố cục hợp lí, bố cục chặt chẽ.

II. Yêu cầu về nội dung:

– Làm rõ được các yêu cầu cơ bản sau:

  • Mở bài:

– Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm và hoàn cảnh sáng tác.
– Nêu ngắn gọn hình ảnh trong bài thơ và nhận định nêu ở đề bài.

  • Thân bài:

1. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng hồi tưởng, cảm xúc về bà:

– Ba tiếng “một bếp lửa” được nhắc lại hai lần, trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, khẳng định hình ảnh “bếp lửa” như một dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng của nhà thơ. (Trích thơ dẫn chứng)

– Bếp lửa ”chờn vờn sương sớm” là hình ảnh quen thuộc đối với mỗi gia đình Việt Nam trước đây mỗi buổi sớm mai. Hình ảnh bếp lửa thật ấm áp giữa cái lạnh chờn vờn “sương sớm”, thật thân thương với bao tình cảm “ấp iu nồng đượm”.

– Từ láy “chờn vờn” rất thực như gợi nhớ, gợi thương đến dáng hình bập bùng, chập chờn của ngọn lửa trong kí ức.

– Từ láy “ấp iu” gợi bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng của người nhóm lửa, lại rất chính xác với công việc nhóm bếp cụ thể.

– Rất tự nhiên, hình ảnh bếp lửa đã làm trỗi dậy tình yêu thương: Tình thương tràn đầy của cháu được bộc lộ một cách trực tiếp và giản dị. Đằng sau sự giản dị ấy là cả một tấm lòng, một sự thấu hiểu đến tận cùng những vất vả, nhọc nhằn, lam lũ của bà.

2. Kỉ niệm tuổi thơ bên cạnh bà là cuộc sống có nhiều gian khổ:

– Cái đói cơ hồ đã ám ảnh trong văn chương Việt Nam một thời, đói đến nỗi phải ăn đất sét (trong văn Ngô Tất Tố), những trăn trở về miếng ăn luôn dằn vặt trang viết của Nam Cao…

– “Đói mòn đói mỏi”, “khô rạc ngựa gầy”- những chi tiết thơ đậm chất hiện thực đã tái hiện lại hình ảnh xóm làng xơ xác, tiêu điều cùng những con người vật lộn mưu sinh. Trải qua cái đói quay, đói quắt Bằng Việt mới viết được những câu thơ chân thực đến thế!

– Ấn tượng nhất đối với cháu trong những năm đói khổ là mùi khói bếp của bà mùi khói đã hun nhèm mắt cháu để đến bây giờ nghĩ lại “sống mũi còn cay”.

3. Nhớ về những kỉ niệm là nhớ về bếp lửa, nhớ về tình bà trong suốt tám năm bên bà:

– “Tám năm ròng cháu sống cùng bà” – tám năm cháu nhận được sự yêu thương, che chở, dưỡng nuôi tâm hồn từ tấm lòng của bà, cháu sống cùng bà vất vả, khó khăn nhưng đầy tình yêu thương (dẫn chứng)

– Kháng chiến bùng nổ, “Mẹ cùng cha công tác bận không về”, bà vừa là cha, lại vừa là mẹ. Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế để nhắc nhở cháu về truyền thống gia đình, về những đau thương mất mát và cả những chiến công của dân tộc. Bà luôn bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc cho cháu lớn lên.

– Bà và bếp lửa là chỗ dựa tinh thần, là sự chăm chút, đùm bọc dành cho cháu. Bếp lửa của quê hương, bếp lửa của tình bà lại gợi thêm một kỉ niệm tuổi thơ – kỉ niệm gắn với tiếng chim tu hú trên đồng quê mỗi độ hè về (dẫn chứng)

– Tiếng chim tu hú bước vào thơ Bằng Việt như một chi tiết để gợi nhắc nhà thơ về những kỉ niệm ấu thơ được sống bên bà. Tiếng chim như giục giã, như khắc khoải một điều gì da diết khiến lòng người trỗi dậy những hòa niệm, nhớ mong.

-Hình ảnh của bà, hình ảnh của bếp lửa và âm thanh của chim tu hú vang vọng trong một không gian mênh mông khiến cả bài thơ nhuốm màu bàng bạc của không gian hoài niệm, của tình bà cháu đẹp như trong chuyện cổ tích.

4. Đọng lại trong kỉ niệm của người cháu là:

– Chi tiết thơ đậm chất hiện thực, thành ngữ “cháy tàn cháy rụi” đem đến cảm nhận về hình ảnh làng quê hoang tàn trong khói lửa của chiến tranh. Đặc biệt là lời dặn cháu của bà đã làm ngời sáng vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ giàu lòng vị tha, giàu đức hi sinh (dẫn chứng).

– Bà là chỗ dựa cho cháu, là điểm tựa cho các con đang chiến đấu mà còn là hậu phương vững chắc cho cả tiền tuyến, góp phần vào cuộc kháng chiến chung của dân tộc. Tình cảm bà cháu hòa quyện trong tình yêu quê hương, Tổ quốc. (dẫn chứng)

– Hình ảnh bà và những kỷ niệm tuổi thơ luôn gắn với hình ảnh bếp lửa

– Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, tác giả chuyển thành hình ảnh ngọn lửa trong lòng bà. Ngọn lửa là kỉ niệm ấm lòng, là niềm tin thiêng liêng kì diệu nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu (dẫn chứng)

– Cùng với hình tượng “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm rồi chiều”, các động từ “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam giữa thời chiến. Điệp ngữ – ẩn dụ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào (dẫn chứng)

Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, bài thơ đã gợi đến ngọn lửa với ý nghĩa trừu tượng, khái quát. Bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.

5. Suy ngẫm của người cháu về bà và hình ảnh bếp lửa:

– Nếu từ đầu bài thơ, hình ảnh bà và bếp lửa song hành thì đến đây hoà vào làm một, nhòe lẫn, tỏa sáng bên nhau.

– Cụm từ chỉ thời gian “đời bà”, “Mấy chục năm”, từ láy tượng hình “lận đận”, hình ảnh ẩn dụ “nắng mưa” -> diễn tả cảm nhận của nhà thơ về cuộc đời gian nan, vất vả và sự tần tảo, đức hi sinh, chịu thương,chịu khó của bà.

– Suốt cuộc đời, bà luôn chăm chút cho cháu cả về vật chất và tinh thần để cháu lớn lên. Bà là người nhóm lửa, cũng là người luôn giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng, tỏa sáng trong gia đình.

– Điệp ngữ “nhóm” được nhắc lại bốn lần với những ý nghĩa phong phú, gợi nhiều liên tưởng. Từ hành động, bà đã nhóm dậy những gì thiêng liêng, cao quý nhất của con người. Bà nhóm bếp lửa mỗi sớm mai là nhóm lên -> Nhờ ngọn lửa mà bà “ủ”, bà “nhen”, bà “giữ”, cháu biết cách sống ân nghĩa, thủy chung, biết mở lòng ra với mọi người xung quanh, biết sẻ chia, gắn bó với xóm làng

– Trong tâm trí nhà thơ, bếp lửa và bà tuy bình dị nhưng ẩn giấu điều cao quý thiêng liêng. Cảm xúc dâng trào, tác giả đã phải thốt lên: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”. Hình ảnh bà và hình ảnh bếp lửa sáng đẹp lung linh trong tâm hồn nhà thơ

6. Nỗi nhớ bà, nhớ quê hương khôn nguôi, da diết:

Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ. Tuổi thơ đã lùi xa, cháu giờ đã lớn khôn, đã được chắp cánh bay cao, bay xa đến những chân trời cao rộng có “khói trăm tàu”, ”lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả”. Tuy thế, cháu vẫn khôn nguôi nhớ về bà và bếp lửa quê hương, nơi nắng mưa hai bà cháu có nhau.

  • Kết bài:

– Khái quát nội dung ý nghĩa bài thơ

– Khẳng định lại nhận định và nêu được cảm nghĩ của mình về tình cảm gia đình đặc biệt là tình bà cháu.


ĐỀ SỐ 19. Bàn về văn chương, Hoài Thanh viết: Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có, luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có. (Trích Ý nghĩa văn chương- SGK Ngữ văn 7, tập hai)

Bằng hiểu biết của em về bài thơ Bếp lửa của nhà thơ Bằng Việt, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I/ Yêu cầu chung:

– HS làm được bài văn nghị luận về tác phẩm văn học có gắn với một nhận định, xác định đúng luận điểm, có khả năng phân tích- bình DC.

– Trình bày bố cục mạch lạc, diễn đạt lưu loát, có chất văn, ít mắc lỗi.

II/ Yêu cầu cụ thể:

  • Mở bài:

Giới thiệu ý kiến của Hoài Thanh gắn với nội dung cơ bản của bài thơ “Bếp lửa”: Bài thơ thể hiện tình cảm bà cháu thiêng liêng, sâu nặng.

  • Thân bài:

1. Giải thích nhận định:

– Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có: tức là khẳng định các tác phẩm văn chương có khả năng khơi gợi những tình cảm, rung cảm đẹp đẽ cho mỗi người khi tiếp cận tác phẩm. Văn chương luyện cho ta những tình cảm ta sẵn có: tức là nhấn mạnh khả năng văn chương bồi đắp tâm hồn, tình cảm của mỗi người thêm sâu sắc, thêm đẹp đẽ, bền vững.

→ Nhận định đã khái quát một cách sâu sắc hai vấn đề: Khái quát quy luật sáng tạo và tiếp nhận văn chương: Đều xuất phát từ tình cảm, cảm xúc của tác giả và bạn đọc; khái quát chức năng giáo dục và thẩm mĩ của văn chương đối với con người.

– Hoàn cảnh tác giả sáng tác bài thơ: Viết 1963 khi tg đang du học ở Liên xô (cũ), nơi lạnh giá xứ người xa quê hương, xa người bà đã khơi gợi nỗi nhớ thương về quê hương, về bếp lửa ấm nồng cùng với hình ảnh bà yêu dấu.

Bài thơ khơi dậy, bồi đắp thêm cho tình cảm gia đình (tình bà cháu thiêng liêng, sâu nặng), tình yêu thương con người, tình yêu quê hương, đất nước của mỗi con người. Bài thơ là minh chứng cho nhận định của Hoài Thanh.

2. Làm sáng tỏ nhận định:

– Bài thơ khơi dậy và làm đẹp thêm tình cảm bà cháu, tình cảm gia đình cho mỗi người đọc qua dòng hồi tưởng của cháu về kỷ niệm tuổi thơ bên bà, bên bếp lửa – qua tình cảm bà cháu của nhân vật trữ tình (3 điểm)

– Hồi tưởng của cháu bắt đầu từ hình ảnh bếp lửa và hình ảnh bà.

+ Nhân vật trữ tình hồi tưởng lại những kỷ niệm: Kỷ niệm những năm đói khổ; kỷ niệm tám năm sống bên bà; kỉ niệm những năm giặc dã, chiến tranh. Trong dòng hổi tưởng đó luôn có hình ảnh bà tần tảo, hi sinh, yêu thương cháu, có tình bà ấm áp. (phân tích- chứng minh)

+ Hồi tưởng về bà luôn gắn với hình ảnh bếp lửa, bếp lửa là biểu tượng cho tình bà ấm áp, biểu tượng cho ý chí, nghị lực, niềm tin của bà. (Phân tích – chứng minh)

– Cháu khôn lớn, trưởng thành thấm thía cuộc đời bà vất vả, gian khổ, tần tảo, chịu thương chịu khó; công lao của bà mênh mông, sâu nặng (Phân tích – Chứng minh)

+ Cháu tâm nguyện: luôn trân trọng, nhớ bà, biết ơn bà (Phân tích – Chứng minh)

+ Trong suy ngẫm, tâm nguyện của cháu cũng vẫn hiện lên hình ảnh bếp lửa bình dị mà thiêng liêng: Bếp lửa là biểu tượng cho tình bà cháu, biểu tượng của gia đình, quê hương.

+ Bài thơ khơi dậy và làm đẹp thêm tình cảm gia đình gắn bó hài hòa trong tình yêu quê hương đất nước- qua những suy ngẫm của cháu về bà, về đất nước, dân tộc, nhân dân mình. (3 điểm)

+ Tình cảm bà cháu là cội nguồn của tình cảm gia đình, tình cảm với quê hương, đất nước: Mỗi kỉ niệm của cháu với bà gắn với những thời kì lịch sử khó quên của đất nước, dân tộc; gắn với tình làng nghĩa xóm (Phân tích- chứng minh)

+ Người cháu nhớ về bà, biết ơn bà, nhờ hiểu bà mà thêm hiểu nhân dân, đất nước, dân tộc mình. Bếp lửa và bà đã trở thành biểu tượng của quê hương, xứ sở. (phân tích- chứng minh)

+ Khẳng định sự tác động của bài thơ đến tình cảm mỗi người đọc, sự đồng cảm của người đọc với bài thơ. (2 điểm)

+ Với hình tượng bếp lửa và hình tượng người bà, bài thơ bếp lửa đã khơi dậy trong lòng mỗi người đọc tình cảm bà cháu đẹp đẽ, tình cảm gia đình thiêng liêng. Tình cảm của nhân vật trữ tình, của tác giả đã làm sâu sắc, đẹp đẽ, bền vững thêm tình cảm gia đình trong mỗi người đọc. Điều đó chứng minh nhận định của Hoài Thanh là đúng đắn.

+ Bài thơ nhận được sự đồng cảm của bạn đọc, bạn đọc tìm được sự đồng điệu tâm hồn với tác giả. Bài thơ là một minh chứng cho quy luật sáng tạo và tiếp nhận văn chương, minh chứng cho vai trò quan trọng và chức năng của văn chương, đặc biệt là chức năng giáo dục và thẩm mỹ.

3. Đánh giá, mở rộng:

– Bài thơ Bếp lửa với hình tượng thơ độc đáo, ngôn từ biểu cảm, bình dị mà sâu sắc, sử dụng hổi tưởng và hiện tại trong mạch cảm xúc, sử dụng nhiểu biện pháp nghệ thuật đặc sắc đã thể hiện xúc động tình bà cháu thiêng liêng, ấm áp, tình cảm yêu gia đình, quê hương, đất nước trong sáng, đẹp đẽ.

– Bài thơ đã làm sáng tỏ những quy luật sáng tạo và tiếp nhận văn chương; minh chứng cho những tác dụng to lớn của văn chương: Văn chương làm đẹp thêm tình người, hướng con người đến chân, thiện, mỹ.

– Liên hệ đến các tác phẩm ngợi ca tình cảm gia đình: Tiếng gà trưa (Xuân Quỳnh), Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ (Nguyễn Khoa Điềm), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)…

  • Kết bài:

– Khẳng định giá trị, ý nghĩa của bài thơ tác động đến mỗi người: là lời nhắc nhở mỗi con người luôn biết trân trọng, giữ gìn những tình cảm trong sáng, đẹp đẽ.

– Liên hệ nhận thức và hành động của bản thân.


ĐỀ SỐ 20. Có người cho rằng: “Thơ bắt rễ từ lòng người, nở hoa từ từ ngữ”. Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Bằng sự hiểu biết của em về bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt,  hãy làm sáng tỏ điều đó.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I- Yêu cầu về kĩ năng:

– Nắm vững phương pháp nghị luận tác phẩm văn học, thể hiện sự cảm nhận tinh tế…

– Bố cục hợp lý, luận điểm rõ ràng, dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu. Diễn đạt mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp….

– Văn viết trong sáng, có cảm xúc.

II. Yêu cầu về kiến thức:

Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các ý cơ bản sau:

  • Mở bài:

– Giới thiệu vấn đề nghị luận “ Thơ bắt rễ từ lòng người, nở hoa từ từ ngữ”.

– Giới thiệu bài thơ Bếp lửa của Bằng việt.

  • Thân bài:

1.Giải thích

Thơ bắt rễ từ lòng người: thơ là tiếng nói chân thành của tình cảm, thơ do tình cảm mà sinh ra, thơ luôn thể hiện những rung cảm tinh tế, thẳm sâu của tác giả…

– Nở hoa nơi từ ngữ: Lời thơ bao giờ cũng chắt lọc, giàu hình tượng, gợi cảm xúc. Vẻ đẹp ngôn từ chính là yêu cầu bắt buộc với thơ ca…

Thơ khơi nguồn từ cảm xúc của tác giả trước cuộc sống, và tình cảm ấy thăng hoa nơi từ ngữ biểu hiện…

2. Phân tích, chứng minh.

– Thơ khơi nguồn từ cảm xúc của tác giả trước cuộc sống: Bài thơ là dòng cảm xúc của nhà thơ về bếp lửa, về bà và những kỉ niệm tuổi thơ…

+ Mạch cảm xúc bắt đầu từ hồi tưởng: bếp lửa, hình ảnh người bà, những kỉ niệm tuổi thơ…(Phân tích dẫn chứng)

+ Từ kỉ niệm, người cháu nay đã trưởng thành, suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà…(Phân tích dẫn chứng)

* Tình cảm ấy “nở hoa” nơi từ ngữ biểu hiện: Qua việc phân tích, HS phát hiện, bình luận, đánh giá… chiều sâu tư tưởng của các hình tượng thơ: bếp lửa – ngọn lửa; Bà – người nhóm lửa- người giữ lửa – người truyền lửa…

Bài thơ chứa đựng một triết lí thầm kín: những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức toả sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời…

3.Khái quát, đánh giá:

– Ý kiến đã khẳng định: một tác phẩm chân chính phải khởi phát từ tình cảm dạt dào của tác giả và được thể hiện bằng ngôn từ chắt lọc, trau chuốt.

– Người nghệ sĩ phải có trái tim nhạy cảm, tinh tế và khả năng lao động nghệ thuật nghiêm túc thì mới tạo được những vần thơ hay, lay động lòng người…

  • Kết bài:

– Khẳng định vấn đề nghị luận.


ĐỀ SỐ 21. Mối quan hệ giữa bếp lửa đời và “Bếp lửa” trong thơ Bằng Việt.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I- Yêu cầu về kĩ năng:

– Nắm vững phương pháp nghị luận tác phẩm văn học, thể hiện sự cảm nhận tinh tế…

– Bố cục hợp lý, luận điểm rõ ràng, dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu. Diễn đạt mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp….

– Văn viết trong sáng, có cảm xúc.

II. Yêu cầu về kiến thức:

Học sinh có thể viết theo nhiều cách khác nhau song cần đảm bảo những ý sau:

1/ Mở bài:

Cảm nhận chung nhất về bài thơ và tình cảm bà cháu đằng sau hình ảnh bếp lửa.

2/Thân bài:

– Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cảm xúc về bà, về những hồi ức đẹp đẽ của tuổi thơ, về tình bà cháu

– Bếp lửa đời:

+ Là hình ảnh quen thuộc trong mỗi gia đình Việt Nam

+ Gợi sức sống, tình cảm gia đình và sự bình yên, no ấm.

– Bếp lửa trong thơ Bằng Việt:

+ Hình ảnh bếp lửa gắn liền với bà khiến cho người đọc liên tưởng đến mối quan hệ kì lạ, thiêng liêng.

+ Nỗi nhớ về bếp lửa được gợi nhớ bằng nhiều giác quan, bằng trí tưởng tượng: thị giác, cảm giác, khứu giác, xúc giác…Mọi hình ảnh gắn với bếp lửa đã được tái hiện chân thật, rõ ràng từ một thời kí ức xa xôi.

+ Bếp lửa gắn với bà: hình ảnh bếp lửa ấp iu…chính là sự hóa thân của tình cảm bà dành cho cháu…Nếu bếp lửa củi rơm gắn với cảm nhận về mùi khói, với dư vị sống mũi còn cay, thì bà gắn với tuổi thơ cháu vừa như người chăm sóc vừa như một người bạn lớn….(dẫn chứng)

+ Những kí ức tuổi thơ ùa về trong tâm tưởng cháu… Nhớ về bếp lửa, nhắc về bếp lửa là nhắc về bà với những công việc xoay quanh bếp lửa, và tình cảm của một người bà đôn hậu, tần tảo.…(dẫn chứng)

+ Qua dòng hồi tưởng hình ảnh bếp lửa không còn là bếp lửa bình thường mà là một hình ảnh biểu tượng cứ trở đi trở lại trong bài thơ, trong tâm trí cháu với sự hòa quyện tuyệt vời giữa cái ấm áp của bếp lửa đời và bếp lửa lòng người. (dẫn chứng)

+ Từ bếp lửa, tình cảm của bà  đã được  hình tượng hóa trở thành ngọn lửa, là một hành trình từ cái đơn sơ giản dị đến những cái thiêng liêng cao cả, từ cái thực đến cái linh hồn….Bếp lửa trong kí ức tuổi thơ chính là hiện hữu của một tình yêu nồng nàn, đượm đà mà bà dành cho cháu.

+ Trong tình cảm của bà có tình yêu quê hương, đất nước của những người xa quê, nhớ bà là nhớ quê hương đất nước.

 3/ Kết bài:

– Hành trình từ bếp lửa đời đến bếp lửa trong thơ Bằng Việt là hành trình của tình yêu, nỗi nhớ, sự biết ơn và sức sống mãnh liệt.

– Bếp lửa trong dòng hồi tưởng nhưng sẽ rực sáng với ngọn lửa  tình yêu và niềm tin mãnh liệt, không bao giờ vụt tắt.


ĐỀ SỐ 22. Sự khám phá và thể hiện vẻ đẹp tình cảm gia đình qua các tác phẩm Bếp lửa (Bằng Việt), Chiếc lược ngà ( Nguyễn Quang Sáng) (Ngữ văn 9, NXB Giáo dục, 2009)

GỢI Ý LÀM BÀI.

I/ Yêu cầu về kĩ năng:

– Biết làm bài nghị luận về một vấn đề văn học, kết hợp các thao tác lập luận để tìm hiểu những khám phá và thể hiện của các nhà thơ qua vẻ đẹp hình tượng văn học của ba thi phẩm; kết cấu chặt chẽ, bố cục rõ ràng, diễn đạt tốt; không mắc lỗi chính tả, dùng từ và ngữ pháp.

II/  Yêu cầu về kiến thức:

Trên cơ sở hiểu biết về giả, tác phẩm và vẻ đẹp tình cảm gia đình trong tác phẩm Bếp lửa (Bằng Việt), Chiếc lược ngà ( Nguyễn Quang Sáng) học sinh có thể có nhiều cách làm bài khác nhau, song cần đáp ứng được nội dung cơ bản sau:

1/ Mở bài:

– Giới thiệu vấn đề.

2/ Thân bài:

a. Giới thiệu chung vài nét về đề tài tình cảm gia đình và sự khám phá thể hiện vẻ đẹp tình cảm gia đình trong các tác phẩm văn học: đó là tình cảm của những thành viên, thế hệ trong gia đình (ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh em dành cho nhau); tình cảm của sự sinh thành, nuôi dưỡng, chở che, đùm bọc và tấm lòng ứng xử của những con người trong gia đình với nhau; vẻ đẹp tình cảm gia đình được các nhà văn, nhà thơ khám phá và thể hiện vừa có nét gần gũi vừa khác biệt; tình cảm gia đình lại được hoà quyện với tình yêu quê hương đất nước…

b. Phân tích sự khám phá và thể hiện vẻ đẹp tình cảm gia đình qua hai tác phẩm:

* Vẻ đẹp tình bà cháu:

– Khám phá về tình bà cháu:

+Tình yêu bà dành cho cháu – tình cảm hết sức bình dị và thiêng liêng, một cuộc đời vất vả, tần tảo, giàu đức hy sinh vì con cháu, trải qua bao khó khăn nhưng ngọn lửa của tình yêu thương, niềm tin hy vọng bà luôn nhen nhóm trong người cháu thân yêu.

+ Vẻ đẹp của tình cảm người cháu dành cho bà qua sự hồi tưởng được thể hiện trong thi phẩm: yêu, hiểu, biết ơn, luôn nhớ tới bà.

– Cách thể hiện trong tác phẩm:

+ Xây dựng hình ảnh thơ vừa cụ thể, gần gũi, vừa gợi nhiều liên tưởng, mang ý nghĩa biểu tượng (hình ảnh bếp lửa).

+ Viết theo thể thơ tám chữ phù hợp với giọng điệu cảm xúc hồi ưởng và suy ngẫm.

+ Kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận.

* Vẻ đẹp tình cha con:

– Khám phá về tình cha con:

+ Tình yêu thương sâu nặng người cha dành cho con: nhớ con, khao khát gặp con, nôn nao sung sướng khi được về thăm con; trong những ngày đoàn tụ luôn quan tâm, gần gũi chăm sóc con, mong chờ tiếng gọi cha của con; ở nơi chiến trường nhớ con, ân hận day dứt vì đánh con, dồn tình yêu, nỗi nhớ vào việc thực hiện lời hứa làm chiếc lược cho con, chỉ yên lòng nhắm mắt khi đồng đội nhận trao tận tay con chiếc lược.

+ Tình yêu thương mãnh liệt của người con dành cho cha: Kiên quyết, chối từ không nhận ông Sáu vì nghĩ rằng ông không phải là cha mình, trong lòng luôn tôn thờ yêu thương người cha trong tấm ảnh; khi hiểu ra, ân hận, tự hào về cha, bộc lộ tình cảm yêu cha một cách tự nhiên chân thành, mãnh liệt (qua tiếng gọi và hành động).

– Cách thể hiện trong tác phẩm :

+ Tạo tình huống truyện để thể hiện tình cha con trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh.

+ Cốt truyện chặt chẽ mang yếu tố bất ngờ mà tự nhiên, hợp lý.

+ Lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp khiến câu chuyện chân thực, thể hiện xúc động tình cha con.

+ Nghệ thuật miêu tả tâm lý, tính cách nhân vật, nhất là nhân vật trẻ em rất sinh động.

c. So sánh, đánh giá, mở rộng và nâng cao vấn đề:

* So sánh:

– Những nét giống nhau trong việc khám phá và thể hiện vẻ đẹp tình cảm gia đình qua hai tác phẩm : tình yêu thương của sự chăm sóc, ân cần dạy dỗ, tấm lòng vị tha, đức hy sinh vì cháu, con – một tình cảm mang tính phổ quát.

– Những nét riêng trong việc khám phá và thể hiện vẻ đẹp tình cảm gia đình qua hai tác phẩm: hoàn cảnh, tình cảm, xuất phát từ mối quan hệ, tình cảm bà – cháu, cha-con…, và nét riêng trong hình thức thể hiện…

* Đánh giá, mở rộng và nâng cao vấn đề:

– Tình cảm gia đình là một trong những thứ tình cảm thiêng liêng và quý giá của mỗi con người, mỗi tác giả bằng sự khám phá và thể hiện của mình đã đem đến cho văn học những tác phẩm giàu giá trị nhân bản, nhân văn sâu sắc, có ý nghĩa giáo dục và lay thức tình cảm tốt đẹp của con người.

– Vẻ đẹp của tình cảm gia đình trong hai tác phẩm như những nét vẽ góp phần hoàn thiện bức chân dung gia đình của mỗi con người. Tình cảm ấy lại được hoà quyện thống nhất, gắn bó chặt chẽ với tình yêu quê hương đất nước. Đây cũng là một mạch nguồn tình cảm được lưu chuyển qua dòng chảy truyền thống của văn học dân tộc nhưng luôn có những khám phá, phát hiện và cách thể hiện theo những nét riêng, một đặc trưng quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật.

3/ Kết bài:

– Khẳng định vấn đề.


ĐỀ SỐ 23. “Nghệ thuật là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người.” (Nguyên Ngọc, “Báo văn nghệ” số ra ngày 21/10/1987)

Qua hai tác phẩm : Bếp lửa (Bằng Việt), Ánh trăng (Nguyễn Duy) em hãy bày tỏ ý kiến của mình về quan niệm trên.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I/ Yêu cầu về kĩ năng:

Thí sinh biết cách làm một bài nghị luận văn học.

Bài viết có kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, lí lẽ và dẫn chứng thuyết phục, viết có cảm xúc, biết vận dụng linh hoạt các thao tác nghị luận, không mắc các loại lỗi.

II/ Yêu cầu về kiến thức:

Thí sinh có thể có nhiều cách trình bày và lí giài khác nhau, song cần đảm bào các ý cơ bản sau:

  • Mở bài:

– Giới thiệu chức năng của nghệ thuật.

– Giới thiệu, dẫn dắt vào tác giả, tác phẩm.

  • Thân bài:

1. Giải thích nhận định:

– Nghệ thuật chỉ phạm trù lớn, bao gồm cả văn học và các ngành nghệ thuật khác.

– Sự vươn tới, sự hướng về…tính người: Muốn nói tới sự khám phá, phản ánh vẻ đẹp nhân bản, nhân văn của nghệ thuật chân chính.

– “Nghệ thuật là… sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người”, đó là vai trò cảm hóa, tác động tích cực, chức năng bồi bổ tâm hồn con người của văn học nghệ thuật.

– Tóm lại, ý kiến của Nguyên Ngọc muốn đề cao nghệ thuật nói chung, văn học nói riêng: luôn mang thiên chức cao cả là phản ánh, ngợi ca vẻ đẹp nhân tính của con người và vì thế, văn học nghệ thuật đảm nhận chức năng nhân đạo hoá con người, giúp con người hoàn thiện hơn.

2. Cơ sở lí luận:

– Ý kiến đúng đắn, có sở từ lí luận về bản chất của nghệ thuật: Nghệ thuật chân chính bao giờ cũng vươn tới các giá trị: chân, thiện, mĩ – phục vụ cho những nhu cầu chính đáng của con người…

– Văn học nghệ thuật vừa là sản phẩm phản ánh đời sống một cách khách quan vừa là một hình thức biểu hiện tư tưởng tình cảm chủ quan, cũng là phương tiện giao tiếp quan trọng của con người. Nó có nhiều chức năng trong đó có chức năng nhận thức và quan trọng hơn cả là chức năng giáo dục, nhân đạo hoá con người…

– Là sản phẩm tinh thần của con người, do con người tạo ra để đáp ứng những nhu cầu trong đời sống nhất là đời sống tâm hồn, văn học chỉ thực sự có giá trị khi nói lên tiếng nói của tâm hồn con người, thể hiện thái độ trân trọng, ngợi ca, bảo vệcon người. Vì vậy hướng về tính nhân văn, tinh thần nhân đạo bao giờ cũng là vấn đề cốt yếu làm nên giá trị lâu bền của văn học chân chính…

– Tác phẩm văn học thể hiện tính nhân văn và tinh thần nhân đạo qua nhiều phương diện: phê phán, tố cáo tội ác của những thế lực đã chà đạp quyền sống con người, tập trung ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp, thấu hiểu, cảm thông tâm tư tình cảm, nguyện vọng ước mơ của con người giúp con người bày tỏ ước nguyện… Sự đa dạng này tuỳ thuộc ở cá tính sáng tạo, phong cách nghệ thuật, phương pháp sáng tác của nghệ sĩ…

3. Cơ sở thực tiễn – qua hai tác phẩm vừa chọn:

– Trình bày sơ lược nội dung tư tưởng nhân văn, vẻ đẹp trong tâm hồn con người Việt Nam qua hai tác phẩm ấy.

– Chỉ ra được điểm tương đồng, sự đồng điệu giữa các nhà thơ trong cách khám phá và cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn con người. Học sinh phải phân tích làm rõ được cách thể hiện độc đáo của các nhà thơ trong việc phản ánh, níu giữ tính người cho con người qua tác phẩm của họ.

– Những tư tưởng trong tác phẩm của các nhà thơ có gì khác biệt nhau: tư tưởng, tình cảm mà mỗi nhà thơ gửi gắm qua tác phẩm của mình; những biện pháp nghệ thuật độc đáo trong việc truyền tải nội dung tư tưởng nhân văn, tình cảm của con người Việt Nam.

a/ Bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt:

+ Hoàn cảnh tác giả sáng tác bài thơ: Viết 1963 khi tg đang du học ở Liên xô (cũ), nơi lạnh giá xứ người xa quê hương, xa người bà đã khơi gợi nỗi nhớ thương về quê hương, về bếp lửa ấm nồng cùng với hình ảnh bà yêu dấu.

Bài thơ khơi dậy và làm đẹp thêm tình cảm bà cháu, tình cảm gia đình cho mỗi người đọc qua dòng hồi tưởng của cháu về kỷ niệm tuổi thơ bên bà, bên bếp lửa – qua tình cảm bà cháu của nhân vật trữ tình (3điểm)

+ Hồi tưởng của cháu bắt đầu từ hình ảnh bếp lửa và hình ảnh bà.

– Nhân vật trữ tình hồi tưởng lại những kỷ niệm: Kỷ niệm những năm đói khổ; kỷ niệm tám năm sống bên bà; kỉ niệm những năm giặc dã, chiến tranh. Trong dòng hổi tưởng đó luôn có hình ảnh bà tần tảo, hi sinh, yêu thương cháu, có tình bà ấm áp. (phân tích- chứng minh)

– Hồi tưởng về bà luôn gắn với hình ảnh bếp lửa, bếp lửa là biểu tượng cho tình bà ấm áp, biểu tượng cho ý chí, nghị lực, niềm tin của bà.

(Phân tích – chứng minh)

+ Cháu khôn lớn, trưởng thành thấm thía cuộc đời bà vất vả, gian khổ, tần tảo, chịu thương chịu khó; công lao của bà mênh mông, sâu nặng

(Phân tích – Chứng minh)

– Cháu tâm nguyện: luôn trân trọng, nhớ bà, biết ơn bà

(Phân tích – Chứng minh)

– Trong suy ngẫm, tâm nguyện của cháu cũng vẫn hiện lên hình ảnh bếp lửa bình dị mà thiêng liêng: Bếp lửa là biểu tượng cho tình bà cháu, biểu tượng của gia đình, quê hương.

Bài thơ khơi dậy và làm đẹp thêm tình cảm gia đình gắn bó hài hòa trong tình yêu quê hương đất nước- qua những suy ngẫm của cháu về bà, về đất nước, dân tộc, nhân dân mình

– Tình cảm bà cháu là cội nguồn của tình cảm gia đình, tình cảm với quê hương, đất nước: Mỗi kỉ niệm của cháu với bà gắn với những thời kì lịch sử khó quên của đất nước, dân tộc; gắn với tình làng nghĩa xóm (Phân tích- chứng minh)

– Người cháu nhớ về bà, biết ơn bà, nhờ hiểu bà mà thêm hiểu nhân dân, đất nước, dân tộc mình. Bếp lửa và bà đã trở thành biểu tượng của quê hương, xứ sở.(phân tích- chứng minh)

Khẳng định sự tác động của bài thơ đến tình cảm mỗi người đọc, sự đồng cảm của người đọc với bài thơ

– Với hình tượng bếp lửa và hình tượng người bà, bài thơ bếp lửa đã khơi dậy trong lòng mỗi người đọc tình cảm bà cháu đẹp đẽ, tình cảm gia đình thiêng liêng. Tình cảm của nhân vật trữ tình, của tác giả đã làm sâu sắc, đẹp đẽ, bền vững thêm tình cảm gia đình trong mỗi người đọc.

– Bài thơ nhận được sự đồng cảm của bạn đọc, bạn đọc tìm được sự đồng điệu tâm hồn với tác giả. Bài thơ là một minh chứng cho quy luật sáng tạo và tiếp nhận văn chương, minh chứng cho vai trò quan trọng và chức năng của văn chương, đặc biệt là chức năng giáo dục và thẩm mỹ

– Bài thơ Bếp lửa với hình tượng thơ độc đáo, ngôn từ biểu cảm, bình dị mà sâu sắc, sử dụng hổi tưởng và hiện tại trong mạch cảm xúc, sử dụng nhiểu biện pháp nghệ thuật đặc sắc đã thể hiện xúc động tình bà cháu thiêng liêng, ấm áp, tình cảm yêu gia đình, quê hương, đất nước trong sáng, đẹp đẽ.

– Bài thơ đã làm sáng tỏ những quy luật sáng tạo và tiếp nhận văn chương; minh chứng cho những tác dụng to lớn của văn chương: Văn chương làm đẹp thêm tình người, hướng con người đến chân, thiện, mỹ.

– Bài thơ cũng là lời nhắc nhở mỗi con người luôn biết trân trọng, giữ gìn những tình cảm trong sáng, đẹp đẽ “ níu giữ mãi mãi tính người cho con người.”

b/ Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy:

– Nguyễn Duy là gương mặt tiêu biểu của lớp nhà thơ trẻ thời chống Mĩ và có nhiều đóng góp quan trọng cho thơ Việt Nam sau 1975. Thơ Nguyễn Duy dung dị, chất phác mà thâm trầm, lắng đọng những triết lí suy tư. Bài thơ Ánh trăng được viết năm 1978 và in trong tập thơ cùng tên.

– “Ánh trăng” là bài thơ chất chứa tâm sự sâu kín trong tâm hồn Nguyễn Duy – một người lính vừa bước ra khỏi cuộc chiến, trở về với cuộc sống thời bình.

+ Hoài niệm về sự gắn bó nghĩa tình với vầng trăng trong những năm tháng tuổi thơ và khi ở chiến trường.

+ Nghĩ về sự lãng quên, thờ ơ, vô tình của mình với vầng trăng trong hiện tại.

+ Xúc động nhớ thương và giật mình thức tỉnh khi bắt gặp vầng trăng xưa vẫn tròn đầy vẹn nguyên.

→ Bài thơ là lời tự nhắc nhở của nhà thơ về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu.

– “Ánh trăng” là sự vươn tới, sự hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người.”

+ Bài thơ đã đưa tiếng lòng riêng của Nguyễn Duy đến với tiếng lòng chung của bao người: Giật mình trước sự nông nổi, bạc bẽo của chính mình, tự nhìn lại mình để hoàn thiện chính mình

+ Bài thơ Ánh trăng đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn về giá trị của tác phẩm trong việc thể hiện tâm hồn tác giả và níu giữ mãi mãi tính người cho con người.”.

+ Lắng nghe lời tự nhắc của nhà thơ về đạo lí sống uống nước nhớ nguồn, biết trân trọng ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ, người đọc nhận ra những triết lí sống sâu sắc cho mình. Bài thơ của Nguyễn Duy không chỉ là chuyện riêng của nhà thơ mà là chuyện của mọi người, không chỉ là bài thơ của một thời mà là bài thơ của mọi thời, mọi đời, nó luôn nhắc nhở mọi người về đạo lí ân nghĩa thủy chung, uống nước nhớ nguồn

4. Mở rộng, nâng cao vấn đề:

– Ý kiến của Nguyên Ngọc trở thành phương châm, nguyên tắc sáng tạo của người nghệ sĩ chân chính; Đòi hỏi nhà văn phải có tầm nhìn sâu rộng, có tư tưởng nhân văn, nhân đạo…

– Quan điểm này cũng trở thành tiêu chí đánh giá văn học nghệ thuật đối với bạn đọc…

– Nguyên Ngọc đã góp phần khẳng định giá trị lớn lao, phong phú của văn học nghệ thuật đối với đời sống nhân sinh, đặc biệt là thiên chức cao cả: thanh lọc tâm hồn, nhân đạo hóa con người

  • Kết bài:

– Khẳng định lại vấn đề nghị luận.

– Rút ra bài học liên hệ.


ĐỀ SỐ 24. Ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc, trong bài “Việt Bắc”, Tố Hữu đã viết:

“Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”

(Việt Bắc – Tố Hữu)

Những dòng thơ trên gợi cho em liên tưởng đến lời tâm sự của tác giả nào trong một bài thơ mà em đã học ở chương trình Ngữ văn lớp 9, tập 1? Em hãy chỉ rõ điểm đồng điệu giữa ý thơ của Tố Hữu và tâm sự của nhà thơ đó. Hãy phân tích niềm tâm sự sâu kín của tác giả trong bài thơ em đã tìm được.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I/  Yêu cầu về kĩ năng:

– Làm đúng kiểu bài nghị luận văn học.

– Bố cục rõ ràng, kết cấu chăt chẽ, diễn đạt lưu loát trôi chảy

– Không mắc các lỗi chính tả, lỗi diễn đạt, lỗi dùng từ

II/  Yêu cầu về nội dung:

  • Mở bài :

– Giới thiệu được ý thơ của Tố Hữu và bài thơ tương đồng trong chương trình lớp 9 đó là bài “Ánh trăng” của Nguyễn Duy

  • Thân bài:

1. Điểm đồng điệu giữa ý thơ của Tố Hữu và Nguyễn Duy trong bài “Ánh trăng”

– Đều là những lời nhắc nhở về đạo li ân nghĩa thủy chung.

+ Ở những dòng thơ của Tố Hữu:là lời nhắc nhở với những người cán bộ kháng chiến khi từ Việt Bắc về xuôi ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp vừa kết thúc. (Khi sự lãng quên chưa xảy ra mà mới chỉ là dự cảm).

+ Ở bài “Ánh trăng”: Là lời tâm sự tự bạch, tự thú với chính mình, với mọi người khi giật mình nhận ra bản thân đã từng có lúc lãng quên quá khứ khi được sống trong hòa bình (Đã ba năm sau khi kháng chiến chống Mĩ).

Có lẽ từ chiến tranh sang hòa bình, từ gian khổ sang an lạc, có không ít người lãng quên quá khứ, quên những người đã từng gắn bó, đùm bọc, sẻ chia .vì thế điểm đồng điệu của hai bài thơ chính là nhắc nhở moị người về đạo lí uống nước nhớ nguồn, ân nghĩa thủy chung với quá khứ.

2. Phân tích tâm sự sâu kín của Nguyễn Duy qua bài “Ánh trăng”

a. Hoàn cảnh ra đời bài thơ:

– Cuộc kháng chiến dã khép lại ba năm, sống trong thời bình không mấy ai nhớ lại những kỉ niệm gian khổ thời quá khứ, “ánh trăng giản dị như một niềm ân hận trong tâm sự sâu kín của nhà thơ.

– Đó là hình ảnh quen thuộc và còn vừa là niềm thơ vừa là biểu tượng đã qua của một đời người gắn bó với kỉ niệm.

b. Tâm sự của tác giả về những ngày tháng làm bạn với ánh trăng:

– Nhớ về kỉ niệm đã qua: Kỉ niệm thuở ấu thơ gắn liền với không gian “đồng, sông, bể” đến thời chiến tranh gian khổ

– Vầng trăng là biểu tượng của thiên nhiên tươi mát, là biểu tượng nghĩa tình, nguồn cội, biểu tương của quá khứ nghĩa tình. (Phân tích)

c. Tâm sự sâu kín về những ngày lãng quên vầng trăng trong hiện tại:

– Lí do: do hoàn cảnh sống thay đổi. Con người lãng quên vầng trăng, quên quá khứ. Người và trăng trở nên xa lạ trăng trở thành người dưng.

– Đó là sự lãng quên của một lớp người. Nhà thơ không phê phán ánh điện cửa gương mà cốt yếu làm sao để giá trị vật chất không điều khiển được con người.

d. Niềm ân hận của tác giả và “tấm lòng” của vầng trăng:

– Sự bắt gặp lại hình ảnh vầng trăng trong một tình huống bất ngờ “mất điện” -> Sự đối diện trong khoảnh khắc con người đã nhận ra sự bạc bẽo, vô tình của mình. Đó chính là sự ân hận, sám hối. (Phân tích)

– Hình ảnh trăng trở về nguyên vẹn “Tròn vành vạnh” là hình ảnh thiên nhiên tròn đầy, hình ảnh quá khứ vĩnh hằng hay đó chính là tấm lòng của vầng trăng.

– Tâm sự sâu kín của nhà thơ không dừng lại ở đó. Điều ông muốn nói là con người phải tự mình bước qua những lỗi lầm của mình biết tự điều chỉnh để hoàn thiện bản thân.

– Vầng trăng ở đây không chỉ là quá khứ vẹn nguyên, là vẻ đẹp tự nhiên, vĩnh hằng mà ánh trăng còn là bạn, là nhân chứng nghĩa tình – đó là nhân dân, đồng đội của những người lính.

→ Tấm lòng của nhân dân ta là vô cùng rộng lớn, luôn bao dung và tha thứ nhưng cũng nghiêm khắc nhắc nhở mỗi con người về đạo lí ân nghĩa thủy chung, đạo lí “uống nước nhớ nguồn”. (Phân tích)

e. Nghệ thuật góp phần thể hiện chủ đề:

– Thể thơ năm chữ, lời thơ giản dị mộc mạc, kết cấu theo dòng thời gian. Chỉ viết hoa chữ cái đầu mỗi khổ làm cho bài thơ có dáng dấp như một câu chuyện kể, lời tâm tình thủ thỉ của tác giả về nỗi lòng sâu kín của mình.

  • Kết bài:

– Khẳng định lại đạo lí sống ân nghĩa thủy chung luôn là đạo lí tôt đẹp từ xưa đến nay. Bài “ánh trăng” không chỉ là câu chuyện riêng của tác giả mà là câu chuyện, là vấn đề đặt ra đối với mỗi chúng ta.


ĐỀ SỐ 25. Bàn về khả năng tác động của tác phẩm văn học đến tâm hồn con người, nhà văn Nguyễn Đình Thi đã cho rằng: “Mỗi tác phẩm như rọi vào bên trong chúng ta một ánh sáng riêng, không bao giờ nhòa đi…” (Tiếng nói của văn nghệ – SGK Ngữ văn 9, tập 2, trang 14)

Em hiểu như thế nào về ý kiến trên? Từ bài thơ Ánh trăng (Nguyễn Duy) hãy phân tích và làm rõ ánh sáng riêng mà tác phẩm này đã soi rọi vào tâm hồn em.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I. Yêu cầu về kĩ năng:

– Kiểm tra năng lực viết bài nghị luận văn học, đòi hỏi thí sinh phải huy động kiến thức về lí luận văn học, khả năng cảm thụ thơ, kĩ năng tạo lập văn bản để làm bài.

– Học sinh có thể cảm nhận và trình bày theo những cách khác nhau, nhưng phải rõ hệ thống luận điểm, có lí lẽ, lập luận chặt chẽ, căn cứ xác đáng.

– Diễn đạt trong sáng; dùng từ đặt câu chuẩn xác.

II. Yêu cầu về kiến thức:

  • Mở bài:

– Dẫn dắt vấn đề, trích dẫn câu nói của Nguyễn Đình Thi.

  • Thân bài:

1. Giải thích ý kiến:

– Soi rọi vào tâm hồn: Làm bừng sáng, thức tỉnh những điều lương thiện, những điều tốt đẹp trong tâm hồn người đọc.

– Ánh sáng riêng: Là những điều tốt đẹp nhất (những điều chân – thiện – mĩ) được gửi gắm qua mỗi tác phẩm…

– Không bao giờ nhòa đi: Không phai nhạt, không thể mất đi, nó được khắc sâu và trở thành ánh sáng của tâm hồn

→ Ý kiến của Nguyễn Đình Thi đã khẳng định sự tác động mạnh mẽ của tác phẩm văn học: Thức tỉnh tâm hồn con người, hướng con người những điều tốt đẹp nhất. Đây là chức năng giáo dục, chức năng cảm hóa của văn học.

2. Phân tích, làm rõ vấn đề qua bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy.

a. Khái quát về tác phẩm:

– Hoàn cảnh ra đời của bài thơ: Khi chiến tranh kết thúc, người lính (Nguyễn Duy) trở về với cuộc sống đời thường.

– Đề tài: Bài thơ khai thác đề tài về đời sống nội tâm của người lính trong thời bình, giữa cuộc sống đời thường.

– Hai hình tượng nghệ thuật trung tâm là ánh trăng và người lính đã góp phần thể hiện được tư tưởng chủ đề của tác phẩm: Lối sống thủy chung tình nghĩa, không thờ ơ bạc bẽo với quá khứ, biết trân trọng giá trị của quá khứ

b. Ánh sáng riêng từ bài thơ Ánh trăng:

– Hình ảnh vầng trăng gắn với những kỉ niệm tuổi thơ, gắn với kỉ niệm một thời lính chiến của nhà thơ đã đánh thức những kỉ niệm, những kí ức trong lòng mỗi người, đánh thức những cảm xúc trong trẻo, đẹp đẽ nhất trong mỗi chúng ta về thời quá khứ… (HS phân tích hình ảnh vầng trăng trong hai khổ thơ đầu)

– Những tâm sự mà Nguyễn Duy gửi gắm qua bài thơ đã làm thức tỉnh trong lòng người đọc nhiều điều thấm thía:

+ Giữa bộn bề lo toan của cuộc sống đời thường, giữa những vội vã gấp gáp của nhịp sống hiện đại, nhưng con người vẫn nên có những khoảnh khắc sống chậm lại để nhìn lại quá khứ…

+ Không được thờ ơ, phũ phàng với quá khứ. Sống với ngày hôm nay nhưng không thể hoàn toàn xóa sạch kí ức của ngày hôm qua…, luôn thủy chung, giữ trọn vẹn nghĩa tình với quá khứ, trân trọng những điều thiêng liêng đẹp đẽ trong quá khứ… (HS phân tích các khổ thơ 3, 4, 5, 6)

+ Dám dũng cảm đối diện với chính bản thân mình, đối diện với lương tâm mình để nhìn nhận rõ những sai lầm. Khoảnh khắc lương tâm thức tỉnh là khi sự thánh thiện, lối sống tình nghĩa, thủy chung được thức tỉnh trong tâm hồn; sự vô tình vô nghĩa, thái độ sống thờ ơ vô cảm, thậm chí sự vô ơn, bạc bẽo… bị đẩy lùi (HS phân tích cái giật mình của nhà thơ trong câu thơ cuối)

c. Liên hệ: Gắn vấn đề Nguyễn Duy đặt ra trong bài thơ vào cuộc sống đương thời và liên hệ với bản thân:

– Trong cuộc sống hiện đại đương thời, nhịp sống vội vàng, gấp gáp, con người có nhiều to toan, bận rộn… nên đôi khi thờ ơ với quá khứ, thậm chí sống nhanh, sống gấp, thờ ơ với cả những gì thân thuộc đang diễn ra ngay xung quanh mình. (cả vô tình và cả hữu ý) (HS lấy dẫn chứng và phân tích

– Liên hệ bản thân, rút ra bài học sâu sắc, thấm thía.

  • Kết bài: 

– Khẳng định sự đúng đắn của ý kiến, khẳng định chức năng giáo dục, chức năng cảm hóa tâm hồn con người là chức năng quan trong nhất của văn học…

– Khẳng định giá trị của bài thơ Ánh trăng: Có tính giáo dục, có sức mạnh làm thức tỉnh tâm hồn người đọc => Điều này làm nên giá trị nhân văn của tác phẩm


ĐỀ SỐ 26. Nhà thơ Trần Đăng Khoa cho rằng: “Thơ hay là thơ giản dị, xúc động và ám ảnh”. Bằng hiểu biết của mình và dựa vào ý kiến của Trần Đăng Khoa, em hãy chứng minh rằng: Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy là một bài thơ hay.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I/ Về kỹ năng:

– Biết cách làm một bài nghị luận văn học: hệ thống luận điểm rõ ràng, lập luận chặt chẽ, hành văn trong sáng, giàu cảm xúc, hình ảnh.

– Biết kết hợp các thao tác lập luận, bố cục hợp lí, không mắc lỗi diễn đạt, lỗi chính tả.

II/ Yêu cầu về kiến thức:

– Đây là một đề văn nhằm đánh kiến thức thí sinh về một tác phẩm cụ thể đồng thời ở một mức độ nào đó đánh giá sự hiểu biết của các em về góc độ lí luận văn học đó là cái hay của thơ ca. Tuy nhiên. từ xưa đến nay có rất nhiều quan niệm về thi ca, nhưng ở đề này cái chính là hiểu và lấy bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy để làm sáng tỏ quan niệm của Trần Đăng Khoa: Thơ hay là thơ cùng một lúc phải đạt cả ba phẩm chất: gián dị, xúc động và ám ảnh.

– Học sinh có thể viết bằng nhiều cách khác nhau nhưng phải đảm bảo nắm được và làm toát lên những nội dung cơ bản sau:

  • Mở bài:

– Một bài thơ hay là bài thơ có sự kết hợp của các yếu tố: giản dị, xúc động và ám ảnh. Ba yếu tố này cùng một lúc được thể hiện hoà quyện trong bài thơ. Nó là kết tinh tình cảm nồng cháy và lí trí một cách nhuần nhuyễn mang tính nghệ thuật của nhà thơ.

  • Thân bài:

a/ Thế nào là giản dị, xúc động và ám ảnh trong thơ?

“Giản dị trong thơ”: Học sinh biết phân biệt được giản dị không phải là đơn giản. Giản dị để làm nên cái hay của một bài thơ là kết quả của quá trình tinh luyện. Nó thể hiện ở đề tài, ngôn ngữ, trong đặt câu, hiệp vần, trong sử dụng hình ảnh và nội dung thể hiện…

“Xúc động”: Trước hết là sự xúc động của chính nhà thơ. Thơ là tiếng lòng của thi nhân trong một sự dồn nén cao độ của cảm xúc. Từ tiếng lòng của thi nhân, bằng thơ và qua thơ tạo sự giao cảm và hội ngộ về cảm xúc giữa đọc giả và nhà thơ từ đó thầy được thơ và sự giao hoà giữa thế giới riêng tư của cá nhân và xã hội. Thơ đem đến cho người đọc những rung cảm đẹp góp phần nâng cao và bồi dưỡng tâm hồn con người.

“Ám ảnh”: Những cảm xúc về vấn đề tác giả thể hiện trong bài thơ phải thực sự có sức gợi: Gợi cho người đọc những trăn trở, nghĩ suy; để lại trong tâm hồn người đọc những cảm xúc không thể nào quên

b/ Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy là một bài thơ hay bởi đó là một bài thơ đã hội tụ đầy đủ cả ba yếu tố: giản dị, xúc động và ám ảnh

– Bằng sự cảm thụ tác phẩm, học sinh chứng minh cái giản dị, xúc động và ám ảnh được thể hiện trong bài thơ qua đề tài, chủ đề, câu tứ, ngôn ngữ, hình ảnh hình tượng … của bài thơ

– Bài thơ có nội dung chủ đề rất quen thuộc, đã trở thành đạo lí của dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thuỷ chung cùng quá khứ

– Để thê hiện nội dung chủ đề nhà thơ chọn trăng – hình ảnh thiên nhiên đep đẽ, hồn nhiên, khoáng đạt, tươi mát, làm biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, cho vẻ đẹp bình dị, vĩnh hẳng của đời sống, gợi nhắc con người cùng có thái độ sống ân nghĩa, thủy chung.

– Cả bài thơ có sáu khổ thơ được viết theo thể ngũ ngôn rất bình dị tạo giọng điệu tâm tình sâu lắng, tự nhiên như một lời tự nhắc nhở, đồng thời cũng là sự sẻ chia, gợi nhắc với mọi người

– Bài thơ có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tự sự với trữ tình. Từ câu chuyện của người lính – nhân vật trữ tình trong bài thơ, người đọc cảm nhận được những cảm xúc sâu lắng, xúc động, những trăn trở suy nghĩ mà tác giả muốn gửi gắm.

– Kết cấu, gỉọng điệu của bài thơ có tác dụng làm nổi bật chủ đề, tạo tính chân thực, bình dị, có sức truyền cảm sâu sắc, gây ấn tượng mạnh cho người đọc.

  • Kết bài:

Tình cảm, cảm xúc của nhà thơ được bộc lộ tự nhiên, chân thành và thấm thía qua cách chọn lọc các hình ảnh, chọn tình huống, lựa chọn từ ngữ.


ĐỀ SỐ 27. Viết về mẹ, Chế Lan Viên gửi gắm:

“Con dù lớn vẫn là con của mẹ,
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con”.

(Con cò)

Nguyễn Duy tâm sự:

“Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru”.

(Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa).

Nguyễn Khoa Điềm cũng đã từng tự bạch:

“Và chúng tôi một thứ quả trên đời.
Bảy mươi tuổi mẹ đợi chờ được hái
Tôi hoảng sợ ngày bàn tay mẹ mỏi
Mình vẫn còn một thứ quả non xanh”.

(Mẹ và quả)

Nhưng B.Babbles lại nói: “Sứ mạng của người mẹ không phải là làm chỗ dựa cho con cái mà là làm chỗ dựa ấy trở nên không cần thiết”.

Cảm nhận của em về người mẹ qua các ý kiến trên? Từ đó, trình bày những suy nghĩ của em về vai trò của người mẹ.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I/ Yêu cầu về kĩ năng:

Thí sinh biết cách làm bài văn nghị luận văn học, bố cục rõ ràng, kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, lời văn trong sáng; không mắc lỗi về chính tả, dùng từ và ngữ pháp.

II/ Yêu cầu kiến thức

– Thấy được sự thể hiện phong phú về vai trò của người mẹ qua các ý thơ và nhận định.

– Thấy được vai trò quan trọng của người mẹ trong cuộc đời mỗi con người.

III. Yêu cầu cụ thể:

HS có thể có nhiều cách triển khai bài làm, nhưng cuối cùng hướng tới các ý cơ bản sau:

1/ Mở bài: Giới thiệu vấn đề:

Vai trò của người mẹ qua các ý thơ và nhận định.

– Thấy được vai trò quan trọng của người mẹ trong cuộc đời mỗi con người.

2/ Thân bài:

2.1. Trình bày được cảm nhận về giá trị nội dung, nghệ thuật của các dẫn chứng đã nêu trong đề bài

a/Câu thơ của Chế Lan Viên:

– Điệp từ ngữ cặp hình ảnh ”mẹ, con” ”vẫn”, lời thơ lục bát mang âm hưởng lời ru, chất triết lý nhưng trữ tình thiết tha…

– Hai câu thơ ngắn vừa thể hiện cảm xúc về tình mẹ của nhà thơ vừa thể hiện sự trải nghiệm để rút ra quy luật tình cảm của muôn đời con luôn cần có mẹ, mẹ luôn dõi theo con, mẹ là nguồn sức mạnh đỡ nâng tâm hồn con. Hai câu thơ không chỉ khái quát ý nghĩa của tình mẫu tử giản dị gần gũi, cao cả thiêng liêng, bất diệt mà còn tô đậm tiếng lòng thiết tha của mẹ đối với con, niềm xúc động dâng trào của con đối với mẹ.

– Sự cảm nhận trải nghiệm của nhà thơ cũng là sự đồng vọng của muôn người trong cuộc đời khi thấu nhận tình yêu bao la của mẹ đối với con bất chấp mọi biến thiên của cuộc đời…

b/ Câu thơ của Nguyễn Duy:

– Câu thơ tài hoa, đặc biệt là ở thể lục bát phảng phất phong vị ca dao nhưng vẫn mang đậm chất triết lý ở các cặp ý đối nhau “đi trọn kiếp” với “không đi hết”, “kiếp con người” với “lời mẹ ru”…

– Vẻ đẹp của hai câu thơ thể hiện ở cảm xúc vừa lắng đọng, vừa thiêng liêng nhưng thật triết lý. “Mấy lời mẹ ru” là biểu tượng cho tình cảm yêu thương vô bờ mà mẹ dành cho con. Cách nói “đi trọn kiếp…vẫn không đi hết…” khẳng định tình mẫu tử là vô cùng thiêng liêng, cao cả; là vô cùng, vô tận, không gì có thể đền đáp hết được.

c/ Câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm:

– Sự sâu sắc của tứ thơ kết hợp với những cách thể hiện và ngôn từ độc đáo tạo nên một chất suy tưởng riêng.

– Hai câu thơ cuối đầy ẩn ý, vừa là sự băn khoăn về trách nhiệm của bản thân, vừa là sự lo lắng về một điều tất yếu: “bàn tay mẹ mỏi” mang nhiều hàm ý. Có lẽ đó là điều đau xót nhất đối với mỗi người con, và càng đau xót hơn khi con vẫn còn là một thứ quả non xanh thì mẹ đã đi xa rồi. Những câu thơ là sự thức tỉnh trong tâm thức nhà thơ và người đọc.

d/ Câu nói của B.Babbles:

– Cách nói ngắn gọn, hàm súc, mang tính triết lý cao.

– Vai trò và cách dạy con đúng đắn của người mẹ để con tự lập trong cuộc sống.

2.2. Khẳng định cách nhìn về người mẹ không mâu thuẫn nhau

– Những lời thơ về hình ảnh người mẹ là lời tự bạch của chủ thể trữ tình (người con), là lời tự thú chân thành và cảm động của đứa con về sự lớn lao của tình mẫu tử trước bước đi lặng lẽ mà cũng thật nghiệt ngã của thời gian. Đồng thời, đây cũng là tiếng lòng, tấm lòng của con hướng về mẹ. Trong tình mẫu tử bao la vĩ đại kia, đứa con nào cũng chỉ là “một thứ quả non xanh” được chở che, nâng niu trong bàn tay mẹ, đứa con nào dù lớn đến đâu cũng “không đi hết mấy lời mẹ ru” “vẫn là con của mẹ”…

– Lời nói của B.Babbles lại nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giáo dục con cái biết sống chủ động, tích cực, không dựa dẫm. Người mẹ luôn dang rộng vòng tay để che chở, yêu thương nhưng cũng cần dạy con không ỷ lại, biết tự đứng và bước đi bằng chính đôi chân của mình, tức là làm cho “chỗ dựa ấy trở nên không cần thiết”…

2.3. Nêu dẫn chứng chứng minh: Lúc bạn vừa lẫm chẫm tập đi, mẹ buông tay không giữ bạn để mong bạn có thể đi vững hơn. Mẹ luôn là người giúp ta giải quyết khó khăn nhưng một lúc nào đó chúng ta sẽ phải tự làm lấy. Nếu ta vấp ngã, mẹ sẽ chỉ cho ta những chỗ sai để ta tự đứng lên trên đôi chân của mình. Sau mỗi lần như vậy, chúng ta có thể rút ra nhiều bài học cho bản thân. Để rồi sau này, trên đường đời dài rộng, nhiều chông gai sẽ có nhiều lần ta chùn bước bàn tay mẹ sẽ không chìa ra để kéo ta dậy mà đến lúc đó chúng ta sẽ tự biết phải làm thế nào. Ngay trong cuộc sống hàng ngày cũng vậy, từ những việc nhỏ nhặt mẹ cũng dạy cho ta làm từ nhỏ để chúng ta quen dần với việc tự lập…

2.4. Mở rộng

– Việc làm để đền đáp công ơn cha mẹ: Muốn giúp mẹ, muốn học cách tự lập…

– Phê phán những biểu hiện, những thái độ, hành vi chưa đúng với đạo lí làm con của một số người trong cuộc sống hiện nay.

– Giá trị của vấn đề trong cuộc sống hiện tại…

– Liên hệ, mở rộng đến những tình cảm gia đình khác.

3/ Kết bài:

– Kết luận vấn đề: Nhưng dù sao thì tình yêu thương mà mẹ dành cho chúng ta sẽ không bao giờ thay đổi. Một bài học quý giá học được ở Chế Lan Viên, Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa Điềm và B. Ba-let.


ĐỀ SỐ 28. Trong buổi thảo luận về bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, một bạn học sinh cho rằng: “Bài thơ được người đọc yêu thích bởi  Nguyễn Duy đã tìm về một đề tài thi vị, quen thuộc”. Một bạn khác lại đưa ý kiến: “Bài thơ sống trong lòng người đọc bởi  Nguyễn Duy đã chọn cho mình một lối đi riêng”.

Em hãy bàn luận về các ý kiến trên.

GỢI Ý LÀM BÀI.

Yêu cầu: Hiểu bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy; có kĩ năng làm bài văn nghị luận ý kiến bàn về tác phẩm. Thí sinh có thể kết cấu bài viết theo các cách khác nhau song cần đảm bảo những nội dung sau:

  • Mở bài:

– Giới thiệu vấn đề nghị luận; trích dẫn các ý kiến.

  • Thân bài:

1. Giải thích:

– Đề tài thi vị, quen thuộc: Trăng là đề tài quen thuộc của các tao nhân mặc khách, với ánh sáng huyền diệu,với sự tròn khuyết lạ lùng, trăng là nguồn cảm hứng bất tận của thi nhân.

– Chọn cho mình một lối đi riêng: Viết về đề tài quen thuộc nhưng tác giả có cách viết riêng, mang phong cách riêng.

2. Chứng minh:

a/ Bàn luận về ý kiến: “Bài thơ được người đọc yêu thích bởi Nguyễn Duy đã tìm về một đề tài thi vị, quen thuộc.”

– Ý kiến cho rằng: sở dĩ người đọc yêu thích bài thơ là ở đề tài thi vị, quen thuộc.

– Bày tỏ quan điểm của bản thân về ý kiến đã nêu:

+ Khẳng định ý kiến đã nêu:

++ Trăng là đề tài muôn thuở của thơ ca từ cổ chí kim. Các thi nhân tìm đến trăng là để mở lòng ra với thiên nhiên, mượn trăng để gửi gắm bầu tâm sự. Có biết bao vần thơ viết về trăng làm say lòng độc giả muôn đời (nêu dẫn chứng những thi phẩm viết về trăng trong thơ cổ, thơ hiện đại).

++ Sự thể hiện của đề tài trong bài thơ: qua nhan đề  Ánh trăngtrăng là hình tượng xuyên suốt toàn bài (có mặt trong tất cả các khổ thơ).

++ Như vậy, Nguyễn Duy đã đưa thơ mình hòa nhập vào nguồn mạch thơ truyền thống, đưa người đọc đến với vẻ đẹp ngàn đời để đánh thức tình yêu, sự nhạy cảm với cái đẹp. Đây là lí do khiến người đọc yêu thích bài thơ.

+ Bổ sung ý kiến: Ý kiến trên đúng nhưng chưa đủ. Bởi:

++ Đề tài hay cũng chưa đủ để tạo nên giá trị của thi phẩm.

++ Đứng trước một đề tài nhiều người đã khai thác, nếu nhà văn không có sự sáng tạo thì tác phẩm sẽ lẫn với vô vàn những ánh trăng khác trong thi ca và thi phẩm không có chỗ đứng trong lòng người đọc.

2. Bàn luận về ý kiến “Bài thơ sống trong lòng người đọc bởi Nguyễn Duy đã chọn cho mình một lối đi riêng.”

– Giải thích ý kiến: Nguyên nhân tạo nên sức sống của bài thơ là bởi sự sáng tạo của Nguyễn Duy .

– Bày tỏ quan điểm của bản thân về ý kiến đã nêu

+ Khẳng định ý kiến đã nêu: Cần chỉ ra và phân tích sự sáng tạo của Nguyễn Duy trong bài thơ  Ánh trăng ở các phương diện sau:

++ Nguyễn Duy đã chọn thể thơ 5 chữ, không có dấu chấm ngắt câu, mỗi khổ thơ chỉ viết hoa chữ cái đầu khổ khiến nhịp kể và nhịp cảm xúc tuôn chảy tự nhiên và sâu lắng

++ Nguyễn Duy đã sáng tạo trong việc kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình: Bài thơ là câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian và theo dòng tự sự ấy, cảm xúc của nhân vật trữ tình được bộc lộ; tạo nên giọng tự bạch, tâm tình

++ Nguyễn Duy dụng công trong việc tạo tứ thơ: Từ tình huống mất điện trong thành phố, con người đột ngột gặp lại vầng trăng và bao cảm xúc, suy tư ùa về.

++ Hình tượng trăng được Nguyễn Duy xây dựng mang nhiều tầng ý nghĩa: trăng là hình ảnh của thiên nhiên tươi mát; là người bạn tri kỉ nhân hậu, nghĩa tình, trong sáng, thủy chung; là quá khứ gian lao, tình nghĩa; là vẻ đẹp vĩnh hằng của cuộc sống…

++ Hình tượng cái “tôi” trữ tình trong bài thơ hiện lên thật đặc biệt: người lính vừa đi qua chiến tranh, sống giữa thời bình có chiều sâu nội tâm, sống ân nghĩa thủy chung (phân tích cái giật mình ở cuối bài)

++ Tìm đến với một đề tài quen thuộc nhưng Nguyễn Duy đã chọn cho mình một chủ đề riêng: Trên nền của một câu chuyện riêng tư, Ánh trăng như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Bài thơ có ý nghĩa gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung cùng quá khứ.

(Trong quá trình phân tích cần so sánh với những thi phẩm khác cùng đề tài để thấy sự sáng tạo của Nguyễn Duy trong Ánh trăng).

++ Như vậy, viết Ánh trăng Nguyễn Duy đã chọn cho mình một lối đi riêng ở cả phương diện hình thức và nội dung tư tưởng. Sự sáng tạo ấy làm giàu có cho đề tài đem đến cho người đọc những thông điệp sâu sắc về con người, cuộc sống. Đồng thời tạo nên sức sống của thi phẩm, khẳng định được dấu ấn riêng của Nguyễn Duy – điều vô cùng cần thiết đối với người nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật.

+ Bổ sung ý kiến: Nhà thơ chọn cho mình một lối đi riêng là vô cùng cần thiết trong sáng tạo nghệ thuật. Tuy nhiên, lối đi ấy không được xa rời giá trị tốt đẹp của cuộc sống con người.

3. Đánh giá chung về các ý kiến:

– Hai ý kiến là những cách nhìn ở những phương diện khác nhau nhưng bổ sung cho nhau để khẳng định giá trị của bài thơ.

– Các ý kiến tranh luận gợi ra nhiều suy nghĩ cho người làm thơ và đọc thơ trên con đường sáng tác và thưởng thức (ví dụ như: làm thế nào để có thơ hay và thưởng thức được cái hay của thơ…)

  • Kết bài:

– Khẳng định lại giá trị vấn đề.

– Rút ra bài học liên hệ.


ĐỀ SỐ 29. “Mỗi nghệ sĩ có thể đến với văn chương và cuộc đời bằng con đường riêng của mình. Nhưng….tư duy nghệ thuật dù có đổi mới đến đâu đi nữa thì cũng không thể vượt ra ngoài các quy luật của chân thiện mĩ, quy luật nhân bản” (Lã Nguyên – Về tác gia và tác phẩm, NXBGD).

Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua một vài tác phẩm văn học 9 mà em đã học.

GỢI Ý LÀM BÀI.

  • Mở bài:

– Giới thiệu vấn đề, trích dẫn ý kiến.

– Giới thiệu tác phẩm cần chứng minh.

  • Thân bài:

1. Giải thích:

– Con đường riêng: chỉ cách thức khác nhau trong lao động sáng tạo văn học nghệ thuật của người nghệ sĩ.

– Quy luật của chân thiện mĩ, quy luật nhân bản: là những giá trị văn học (nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ….) có khả năng nhân đạo hóa con người. Đó là bản chất mang ý nghĩa nhân văn muôn đời của văn học.

↓ Ý kiến khẳng định vai trò của hướng đi riêng trong khám phá, sáng tạo nhưng đích đến muôn đời của văn chương vẫn là chân thiện mĩ, nhân bản.

2. Bàn luận:

– Mỗi nghệ sĩ có thể đến với văn chương và cuộc đời bằng con đường riêng của mình, bởi vì:

+ Vì đời sống là đối tượng khám phá của nghệ thuật, của văn chương. Cuộc đời là nơi xuất phát của văn học. Đứng trước hiện thực cuộc sống phong phú, mỗi nhà nghệ sĩ có những cảm xúc, suy ngẫm, lí giải khác nhau, lựa chọn những mảng đề tài khác nhau, cách xử lí đề tài khác nhau để đặt ra những vấn đề khác nhau. Và đó là con đường riêng họ tạo ra cho mình. Đó cũng là yêu cầu xuất phát từ đặc trưng của văn học nghệ thuật: lĩnh vực của sự sáng tạo. Đó cũng là lương tâm, là trách nhiệm của mỗi người nghệ sĩ. Nam Cao tâm niệm: “Văn chương không cần những người thợ khéo tay…”.

+ Đặc trưng của văn học là lĩnh vực sáng tạo. Đứng trước hiện thực phong phú, mỗi nghệ sĩ có những cảm xúc, suy ngẫm, lí giải khác nhau, chọn những mảng đề tài khác nhau, cách xử lí khác nhau.

+ Lựa chọn con đường riêng sẽ tạo ra sự đa dạng, mới lạ trong sáng tạo nghệ thuật, khẳng định được vị trí, phong cách của nhà văn.

– Tư duy nghệ thuật dù có đổi mới đến đâu đi nữa cũng không thể vượt ra ngoài quy luật của chân thiện mĩ, quy luật nhân bản, bởi vì:

+ Chân thiện mĩ, nhân bản là đích hướng đến, tâm điểm của mọi khám phá sáng tạo nghệ thuật. Nếu không tạo ra con đường riêng của mình thì tác phẩm của họ sẽ trở thành sự sao chép, sẽ chết, dẫm lên vết chân của người đi trước.

+ Quy luật chân thiện mĩ, nhân bản có khả năng soi rọi cho người đọc ánh sáng của lí tưởng, khơi gợi tình yêu cuộc sống, nuôi dưỡng sự đồng cảm, bồi đắp và thanh lọc tâm hồn con người….làm cho người gần người hơn.

– Tác dụng: Tạo ra con đường riêng của mình người nghệ sĩ sẽ tạo ra sự đa dạng trong sáng tạo nghệ thuật, khẳng định sức sống của mỗi tác phẩm, vị trí, phong cách của nhà văn, cái lí để nhà văn đứng được với cuộc đời.

a. Tư duy nghệ thuật…. quy luật chân thiện mĩ, quy luật nhân bản:

– Đây là vấn đề đổi mới tư duy nghệ thuật – một vấn đề đặt ra như một nhu cầu bức thiết, sống còn của nghệ thuật. Nhà văn luôn phải tự làm mới mình góp phần đổi mới nghệ thuật. Đổi mới cái gì? Đổi mới đề tài, chủ đề, cảm hứng, văn phong… Quan trọng là đổi mới tư duy, cách nhìn nhận của nhà văn trước cuộc đời.

– Nhưng mọi sự đổi mới đều không vượt ra ngoài quy luật chân, thiện, mĩ. Cái chân, cái thiện, cái mĩ, cái nhân bản vẫn là cái đích hướng đến của mọi khám phá, sáng tạo nghệ thuật. Quy luật chân thiện mĩ, nhân bản giống như sợi dây neo giữ, là giới hạn mà bán kính sáng tạo nhà văn quay chiều nào cũng không thể vượt qua. Nói cách khác, nó cũng là một tâm điểm của mọi khám phá sáng tạo nghệ thuật.

– Văn học sở dĩ là nhu cầu, là món ăn tinh thần không thể thiếu của con người, vì nó là lĩnh vực đáp ứng nhu cầu sống của con người. Văn học có nhiều chức năng (nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ, dự báo, giải trí…); có nhiều quan niệm cổ kim đông tây, nhưng điểm giao thoa gặp gỡ vẫn cứ là cái chân – thiện – mĩ, những vấn đề mang tính nhân bản nhân văn của đời sống con người. Cái chân, là muốn nói đến chức năng nhận thức của văn học; văn học phải chân thực. Cái thiện là nói đến chức năng giáo dục, cảm hóa của văn học. Cái mĩ, là nói đến chức năng thẩm mĩ, chức năng cơ bản nhất, chất keo kết dính các chức năng khác. Khi đạt tới chân thiện mĩ là văn học đạt tới chiều sâu nhân bản, hướng về con người, vì con người.

b. Sứ mệnh nhà văn chân chính… đại dương nhân bản mênh mông:

– Đây là vấn đề trăn trở của nhiều cây viết. Chữ dùng có thể khác nhau, nhưng thực chất vẫn là một. Đó là vấn đề cái tâm của người cầm bút. Ở đây người nói đặt vấn đề: “khơi nguồn dòng sông văn học đổ ra đại dương nhân bản mênh mông” – ý tưởng độc đáo. Mọi dòng sông đều đổ về biển rộng, cũng như mọi khám phá sáng tạo đều có đích hướng về, những vấn đề thuộc về con người, nhân sinh, nhân bản. Bởi lẽ, con người là một trung tâm khám phá của văn học nghệ thuật. Văn học có thể viết về mọi vấn đề của đời sống, mọi hình thức sáng tạo, nhưng đều hướng tới là để đặt ra và cắt nghĩa những vấn đề của nhân sinh. Văn học chân chính phải là thứ văn chương vị đời, nhà văn chân chính phải là nhà văn vì con người, tác phẩm mới đạt tới tầm nhân bản.

3. Chứng minh qua một vài tác phẩm.

* “Truyện Kiều” của Nguyễn Du:

– Truyện Kiều có nguồn gốc từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài nhân, nhưng bằng tài năng và sự sáng tạo của mình, Nguyễn Du đã khoác lên cho cốt truyện ấy một gương mặt hoàn toàn mới mẻ. Đó là sự thay đổi, cách tân cả về hình thức và nội dung.

– Tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du khiến con người ta biết:

+ Yêu thương, cảm thông cho số phận bất hạnh của Thúy Kiều, vì cứu cha, cứu gia đình mà phải bán mình, chịu nỗi khổ 15 năm phiêu dạt nơi đất khách quê người. Đồng thời cũng cảm thông cho số phận của những người phụ nữ sống dưới chế độ phong kiến.

+ Không chỉ vậy, tác phẩm cũng khiến ta căm ghét, phẫn nộ trước sự tàn ác của chế độ phong kiến, cướp đi quyền sống, hạnh phúc, quyền được tự do,… của con người. Đẩy con người ta đến đường cùng.

* “Ánh trăng” của Nguyễn Duy:

– Viết về trăng không phải điều mới mẻ trong văn học, nhưng đến với Nguyễn Duy ông đã phú cho nó một hình thức mới:

+ Thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu.

+ Bài thơ chỉ viết hoa chữ cái đầu tiên của mỗi khổ và không sử dụng dấu câu khi kết thúc câu, chỉ dùng dấu câu khi kết thúc khổ thơ đó. Với hình thức như vậy đã giúp bài thơ được liền mạch cảm xúc, thể hiện quan điểm, tư tưởng của tác giả.

– Đồng thời tác phẩm còn là những bài học về chân – thiện – mĩ cho người đọc: bài học về sự thủy chung, tình nghĩa, là nối tiếp truyền thống dân tộc “uống nước nhớ nguồn”. Không được quên đi nghĩa tình quá khứ.

+ Khép lại bài thơ Ánh trăng, Nguyễn Duy đã thể hiện rất rõ ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng và từ đó tác giả nêu ra bài học triết lí gợi nhắc thái độ sống đối với mỗi người

“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.”

+ Trăng xưa vẫn vậy, vẫn tròn đầy, vẹn nguyên thủy chung, từ “cứ”, “kể chi” còn cho thấy thái độ bao dung, độ lượng của vầng trăng nhưng đối lập với hình ảnh trăng tròn vành vạnh là con người vô tình, đổi thay.

+ Trăng như một người bạn với ánh nhìn im phăng phắc, đó là cái nhìn nghiêm nghị dù rất bao dung, không một lời trách cứ.

+ Đến đây “Vầng trăng” đã được thay bằng “Ánh trăng” để nhấn mạnh về ánh sáng. Ánh sáng của lương tri con người soi rọi những góc khuất tối trong tâm hồn người. Ánh sáng soi đường cho con người trở về về với con đường thủy chung, tình nghĩa.

+ Trước cái nhìn nghiêm nghị, bao dung của người bạn thủy chung, ân tình, trước ánh sáng kì diệu của vầng trăng, con người phải “giật mình”. Giật mình để nhìn lại chính mình. Giật mình để tự vấn lương tâm, để soi vào chính mình, để thấy những tháng ngày qua mình đã vô tình bạc bẽo, để hoàn thiện bản thân. Đây là cái giật mình vô cùng đáng quý, đáng trân trọng.

→ Như vậy, qua khổ thơ cuối, hình ảnh vầng trăng mang ý nghĩa biểu tượng sâu xa. Trăng là vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên, trăng là đồng chí, đồng đội, là tấm lòng bao dung, nhân hậu của nhân dân. Trăng là quá khứ vất vả, gian lao nhưng tình nghĩa. Trăng là cội nguồn, là quê hương, đất nước. Từ hình ảnh vầng trăng, tác giả gợi nhắc người đọc một bài học triết lí sâu xa, đó là thái độ sống “Uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung.

* “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu.

– Bến quê là một tác phẩm giàu triết lí của nhà văn Nguyễn Minh Châu, tác phẩm đã thức tỉnh hàng triệu con người, hàng triệu trái tim về lối sống, cách ứng xử:

+ Nhĩ đã cho ta thấy quê hương là nơi ấm áp gần gũi nhất với chúng ta. Nơi có người vợ luôn tảo tần, hi sinh thầm lặng, có những đứa trẻ tay chua lòm mùi dưa nhưng vô cùng đáng yêu… Nơi đó mới là bến đỗ bình yên của cuộc đời mà chúng ta phải trân trọng.

+ Tác phẩm cũng cho ta thấy, trong cuộc đời này có nhiều cái chùng chình, vòng vèo chúng ta cần phải tỉnh táo để không sa vào những cái chùng chình đó. Và cũng là để biết trân quý những giá trị đích thực của cuộc sống.

* “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long

– Tác phẩm là bài ca ca ngợi về anh thanh niên với nhiều phẩm chất đẹp đẽ, đáng quý:

+ Quan niệm đúng đắn về hạnh phúc, hạnh phúc đối với anh là được làm việc, được phục vụ cộng đồng.

+ Anh thanh niên là người trung thực, biết quan tâm. chăm sóc người khác và là người rất khiêm tốn.

+ Có lý tưởng nghề nghiệp đúng đắn.

+ Xây dựng cuộc sống ngăn nắp, khoa học, tự làm giàu tri thức bản thân và làm phong phú đời sống tinh thần.

– Hình ảnh của anh thanh niên cũng chính là một bài học về chân – thiện – mĩ cho người đọc. Anh thanh niên hướng con người đến với lối sống giản dị, hòa mình vào thiên nhiên. Hướng chúng ta đến với quan điểm đúng đắn về nghệ nghiệp, lao động để cống hiến cho đất nước. Và anh thanh niên cũng giúp chúng ta nhận thấy cần sống chân thành, yêu thương với mọi người và sống thành thực, khiêm tốn,…

  • Kết bài:

– Văn học khuyến khích người nghệ sĩ đổi mới, cách tân nhưng cần có sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa dấu ấn riêng và giá trị chung.

– Yêu cầu đối với người nghệ sĩ trong sáng tác phải là nhà nhân đạo từ trong cốt tủy, phải có sự trải nghiệm sâu sắc, đứng trên lập trường nhân sinh vì con người.


ĐỀ SỐ 30. “Thơ hiện đại không chỉ đem lại những cái mới về nội dung tư tưởng, cảm xúc mà còn đổi mới về phương thức biểu cảm, về sáng tạo hình ảnh, cấu trúc câu thơ, ngôn ngữ thơ.” (Ngữ văn 9, tập 2, trang 200, NXB GD, 2004)

Em hãy làm sáng rõ nhận định trên qua tác phẩm Ánh trăng của Nguyễn Duy.

GỢI Ý LÀM BÀI.

Yêu cầu về kĩ năng:

Thí sinh biết cách làm bài văn nghị luận văn học, bố cục rõ ràng, kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, lời văn trong sáng; không mắc lỗi về chính tả, dùng từ và ngữ pháp.

Yêu cầu về kiến thức:

Thí sinh có thể triển khai bài viết theo nhiều cách khác nhau, nhưng cần đảm bảo những nội dung sau:

  • Mở bài:

– Dẫn dắt từ mối quan hệ giữa văn học và đời sống.

-Trích dẫn nhận định và giới thiệu tác phẩm Ánh trăng của Nguyễn Duy.

  • Thân bài:

1. Giải thích nhận định.

– Khái niệm thơ hiện đại: được xác định từ đầu thế kỷ XX khi văn học tiếp thu, chịu ảnh hưởng của các trào lưu văn học phương Tây và ánh sáng cách mạng của Đảng soi đường. Đặc biệt, sau năm 1975 đất nước hoàn toàn thống nhất, thơ ca nói riêng và văn học nói chung có sự giao lưu, tiếp xúc, hội nhập với nền văn học thế giới.

– Xã hội, con người, tư tưởng thay đổi theo thời đại. Việc phản ánh tâm tư, tình cảm mới đòi hỏi văn học, thơ ca hiện đại cũng phải thay đổi để phù hợp với sự tinh tế, nhạy cảm và phong phú đa dạng trong đời sống tinh thần của thế hệ, con người Việt Nam.

2. Chứng minh qua bài thơ Ánh trăng.

a. Hoàn cảnh ra đời của bài thơ:

– Bài thơ được viết năm 1978, đất nước Việt Nam bước sang trang mới sau chiến thắng huy hoàng trong công cuộc bảo vệ đất nước. Bắc Nam sum họp một nhà. Ba năm trôi qua, con người Việt Nam vẫn ở trong trạng thái hưởng niềm vui chiến thắng nên nhiều khi quên mất quá khứ gắn bó, vất vả đau thương. Và nhiều khi chợt nhận ra sự vô tình lãng quên của mình… “Ánh trăng” thể hiện những trăn trở, suy ngẫm của nhà thơ và xu hướng đổi mới của thơ ca Việt Nam hiện đại. Ánh trăng, một bài thơ nhỏ – một bài học lớn.

b. Bài thơ Ánh trăng thể hiện cái mới về nội dung, tư tưởng, cảm xúc.

– Bài thơ phản ánh tâm trạng của người chiến sĩ – một lớp người rất đông trong xã hội vừa trải qua giai đoạn chiến tranh ác liệt. Trong niềm vui hân hoan chiến thắng, cuộc sống hiện đại văn minh đôi khi con người đã lãng quên quá khứ của mình, lãng quên quá khứ vất vả đau thương của dân tộc. Dòng cảm xúc đó được thể hiện theo thời gian từ quá khứ đến hiện tại và nâng lên thành suy ngẫm mang tính triết lý.

– Kỷ niệm gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị hiền hậu trong quá khứ hiện về trong hai thời điểm của nhân vật trữ tình: thời thơ ấu và thời chiến tranh. Dù ở đâu trên quê hương, đồng, sông, rừng bể người lính vẫn gắn bó với ánh trăng với thiên nhiên như người bạn tri kỉ. Sự gắn bó ân tình, thủy chung ấy khiến con người nghĩ rằng cả cuộc đời sẽ không bao giờ quên người bạn tình nghĩa.

– Đạo lí sống nghĩa tình và thủy chung với quá khứ đã bị quên lãng một cách vô tình bởi hoàn cảnh sống hiện tại. Nơi đô thị, con người làm quen với tiện nghi hiện đại, văn minh “ánh điện, cửa gương” nên cứ vô tình quên lãng vầng trăng tri kỉ. Đêm nào trăng cũng sáng trên đầu nhưng bị mờ đi bởi ánh điện rực rỡ. Vô tình trăng và người cứ dửng dưng như người xa lạ, chưa hề quen biết với nhau dù trước đây là tri âm, tri kỉ.

– Một tình huống giản dị bình thường trong cuộc sống đã khiến nhân vật trữ tình tỉnh ngộ nhận ra sự thay đổi bội bạc đáng lên án đó của mình – thành phố mất điện. Giây phút ngắn ngủi bất ngờ nhưng thực sự có ý nghĩa như một bước ngoặt trong dòng tư tưởng của con người để giúp họ thay đổi.

– Việc đối diện với vầng trăng – người bạn tri kỷ đã giúp người lính nhớ về kỷ niệm xưa gắn bó, tươi đẹp và rồi ân hận, xúc động xốn xang. Nỗi ân hận được thể hiện trong dòng nước mắt rưng rưng, nhẹ nhàng xót xa. Chính mình đã đổi thay và bản thân không thể chấp nhận được.

– Con người suy ngẫm về mối quan hệ của trăng với mình và giật mình, bừng tỉnh, xót xa… Dù thời gian qua đi, dù đất trời thay đổi, trăng vẫn nguyên vẹn, tình nghĩa thủy chung với con người, không hề trách cứ con người đã đổi thay. Trăng vẫn vị tha, nhân hậu tỏa sáng cho con người. Sự cao thượng của vầng trăng khiến con người thức tỉnh lối sống về đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc để sống tốt hơn, người hơn.

Ánh trăng không chỉ là chuyện của riêng nhà thơ, chuyện của một người mà có ý nghĩa với cả một thế hệ. Hơn thế, bài thơ còn có ý nghĩa với nhiều người, nhiều thời bởi tác phẩm đặt ra vấn đề thái độ đối với quá khứ, với những người đã khuất và đối với chính mình.

c. Bài thơ Ánh trăng thể hiện những đổi mới về phương thức biểu cảm, về sáng tạo hình ảnh, cấu trúc câu thơ, ngôn ngữ thơ.

– Bài thơ như một câu chuyện riêng, có sự kết hợp hài hòa, tự nhiên giữa tự sự và trữ tình.

– Giọng điệu tâm tình với nhịp thơ khi trôi chảy tự nhiên, nhịp nhàng theo lời kể, khi ngân nga thiết tha cảm xúc (khổ 5), lúc lại trầm lắng biểu hiện suy tư (khổ cuối).

– Kết cấu, giọng điệu của bài thơ có tác dụng làm nổi bật chủ đề, tạo nên tính chân thực, chân thành, sức truyền cảm sâu sắc cho tác phẩm, gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người đọc.

– Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc. Đặc biệt hình ảnh ánh trăng là hình tượng đa nghĩa, vừa cụ thể vừa khái quát mang ý nghĩa triết lí sâu sắc.

– Thể thơ ngũ ngôn được sử dụng sáng tạo. Mỗi khổ chỉ viết hoa chữ cái đầu dòng thứ nhất. Tác phẩm chỉ có một dấu chấm ở câu thơ cuối. Nghệ thuật viết câu, đặt câu, sử dụng dấu chấm câu đã diễn tả mạch cảm xúc dạt dào tuôn chảy liền mạch trong một tình huống bất ngờ, giản dị đời thường.

3. Đánh giá chung.

Ánh trăng của Nguyễn Duy là một sáng tác thể hiện rõ nét tinh thần đổi mới của thơ ca hiện đại. Đề tài trăng, thể thơ ngũ ngôn là nét truyền thống của Đường thi song bài thơ thể hiện cái mới trong việc phản ánh nội dung câu chuyện nhỏ của người chiến sĩ vừa trải qua chiến tranh, sống trong hòa bình, hiện đại. Ánh trăng mang vẻ đẹp hình tượng thiên nhiên, đồng thời cũng là biểu tượng của quá khứ – nhân dân, đất nước trong quá khứ và hiện tại, mãi mãi vẹn nguyên, vĩnh hằng, bất biến, thủy chung, nghĩa tình, bao dung, độ lượng. Con người hãy biết sống ân tình, thủy chung với quá khứ. Tác phẩm như lời giáo huấn đạo đức nhẹ nhàng nhưng rất sâu sắc. Ánh trăng là bài thơ của những phút giật mình, giật mình để thức tỉnh, để sống nhân văn hơn.

– Từ những đổi mới và sáng tạo của bài thơ Ánh trăng trên hai phương diện nội dung, tư tưởng và hình thức nghệ thuật bình luận về mối quan hệ giữa cuộc sống – tác giả – tác phẩm: Nền tảng của bất kì tác phẩm nào phải là chân lí được khắc họa bằng tất cả tài nghệ của nhà văn. Cần phải hát đúng giai điệu về thời đại mình và phải miêu tả nó một cách trung thực bằng những hình ảnh hấp dẫn, không một chút giả tạo.

  • Kết bài:

– Khẳng định vấn đề nghị luận.

– Khẳng định sự thành công của tác phẩm thơ hiện đại.


ĐỀ SỐ 31. Trong tiểu luận “Tiếng nói văn nghệ” Nguyễn Đình Thi đã viết: “Một bài thơ hay không bao giờ ta đọc qua một lần mà bỏ xuống được, ta sẽ dừng tay trên trang sách đáng lẽ sẽ lật đi và đọc lại bài thơ, tất cả tâm hồn chúng ta đọc”.

Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên qua bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy” .

GỢI Ý LÀM BÀI.

  • Mở bài:

– Giới thiệu vấn đề, Giới thiệu bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy”.

+ Tác phẩm thơ là kết tinh những rung cảm của trái tim người nghệ sỹ trước cuộc đời, là tiếng nói của tình cảm, là tấm gương của tâm hồn.

+ Thơ tác động đến người đọc bằng tình cảm chân thành, mang đến cho người đọc những liên tưởng, tưởng tượng phong phú….. Vì vậy khi đọc “một bài thơ hay ta không bao giờ đọc qua một lần mà bỏ xuống được, ta sẽ dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi, và đọc lại bài thơ. Tất cả tâm hồn chúng ta đọc”

+ Đến với bài thơ « Ánh trăng » của nguyễn Duy chúng ta không thể đọc một lần mà bỏ xuống được, ta sẽ đọc bằng cả tâm hồn chúng ta.

  • Thân bài: 

1. Giải thích nhận xét:

a. Thơ và cuộc sống : 

+ Nhà thơ Sóng Hồng đã nhận định về thơ : “Thơ là nghệ thuật kì diệu bậc nhất của trí tưởng tượng » song ông cũng khẳng định « Thơ biểu hiện cuộc sống một cách cao đẹ”. Thế có nghĩa thơ gốc rễ của thơ vẫn là cuộc sống.

+ Thơ tác động đến của người đọc : vừa bằng sự nhận thức cuộc sống vừa bằng khả năng gợi cảm sâu sắc, vừa trực tiếp với những cảm xúc, suy nghĩ cụ thể, vừa gián tiếp qua những liên tưởng tưởng tượng độc đáo.

+ Thơ gắn liền với chiều sâu tâm hồn, thế giới nội tâm sâu kín của con người vừa gắn với cuộc sống khách quan – chiều sâu của sự phong phú trong đời sống xã hội nên thơ có khả năng lay đông tâm hồn người đọc một cách kì diệu.

b. Giải thích một bài thơ hay và cách thưởng thức một bài thơ hay : 

– Bàn về thơ hay nhà thơ Xuân diệu đã nói : « Thơ hay là hay cả hồn lẫn xác, hay cả bài ». Nói thế có Nghĩa một bài thơ hay là hay từ cảm hứng sáng tác, tình ý trong thơ, đến ngôn ngữ, đến nghệ thuật biểu hiện.

– Bài thơ hay là bài thơ có sự sáng tạo độc đáo về mặt nội dung cũng như hình thức nghệ thuật.

– Bài thơ hay là bài thơ có khả năng lay động, đánh thức những rung cảm sâu thẳm trong lòng người đọc ,có khả năng khơi gợi những tình cảm cao đẹp trong tâm hồn con người.

– Chính vẻ đẹp tình ý sâu sa, và cách biểu hiện độc đáo, sắc sảo mà mà thơ hay có sức lôi cuốn kì lạ khiến người ta không thể đọc qua một lần mà bỏ xuống được, nó khiến người ta phải dừng tay lại trên trang giấy đáng lẽ sẽ lật đi để đọc lại, và lần đọc lại ấy người đọc phải đọc bằng cả tâm hồn.

c. Vậy thế nào là đọc bằng cả tâm hồn :

+ Thơ là sản phẩm của cảm xúc, được viết ra bằng thứ ngôn ngữ tinh lọc, hàm súc, nhiều tầng, đẹp như hoa nhưng không dễ nhìn thấy như hoa. Vì vậy để cảm nhận hết được cái hay cái đẹp của một bài thơ ta phải « dừng tay trên trang vở đáng lẽ sẽ lật đi để đọc lại bài thơ, đọc bằng cả tâm hồn » như vậy ta mới thấy hết cái hay, cái đẹp, cái tinh túy sâu sa, sức lan tỏa, lay động của nó.

2. Chứng minh bài thơ “Ánh Trăng” của Nguyễn Duy là một bài thơ hay.

– Đến với bài thơ Ánh trăng của Nguyễn duy để có thể cảm nhận hết cái hay của bài thơ ta phải đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác, cảm nhận tấm lòng của nhà thơ đối với quê hương đất nước, với quá khứ, nét độc đáo trong sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh, trong nghệ thuật biểu hiện …

a. Cái hay và độc đáo của bài thơ ánh trăng trước hết được thể hiện qua nghệ thuật của bài thơ :

– Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ kết hợp tự sự, miêu tả, trữ tình, bình luận rất phù hợp với mạch cảm xúc vừa kể chuyện vừa bộc lộ tình cảm: Đây là Câu chuyện về mối tình giữa người và trăng được kể với ba mốc thời gian: Một thời khó khăn, gian khổ

– Trăng và người gắn bó như tri kỉ; thời hòa bình về thành phố

– Trăng thành người dưng; khi mất điện Trăng hiện ra “im phăng phắc” khiến cho người giật mình. Chính thời gian và hoàn cảnh đã cho người đọc thấy được sự đổi thay từ tri kỉ thành người dưng, và sự đối mặt khi mất điện làm cho nhân vật rưng rưng rồi giật mình,Từ những cảm xúc, những kie niệm gần gũi, bình dị ấy mà nâng lên thành lẽ sống ân nghĩa thủy chung với quá khứ thể hiện rõ tư tưởng chủ đề của bài thơ.

– Ngôn ngữ thơ giản dị mộc mạc nhưng giàu hình ảnh, cô đọng, hàm súc, ý tứ sâu sa có sức quyến rũ kì lạ :

– Giọng thơ kể chuyện nhỏ nhẹ, như là một lời tâm tình, trong đó không dùng từ nhân xưng. Nhân vật trữ tình kể chuyện nhưng trong suốt bài thơ không dùng một từ nhân xưng nào. Các câu thơ không chủ ngữ nối tiếp nhau xuất hiện trong toàn bài. Suốt các khổ thơ có một chủ thể như là vô danh đã sống, đã ngỡ, đã về thành phố, đã bật tung cửa sổ, đã ngửa mặt lên nhìn mặt. Chỉ đến dòng thơ cuối cùng mới có một từ nhân xưng. “ta”: Ánh trăng im phăng phắc/Đủ cho ta giật mình Như vậy tác giả đã thành công khi để cho câu chuyện này là chuyện không phải của riêng ai. Có thể là của tôi, của bạn, của các bạn và rộng ra là của chúng ta. Vì mỗi người đều từng có quá khứ của mình.

b. Nhan đề bài thơ cũng rất hay :

+Trong bài thơ tác giả bốn lần nhắc đến vầng trăng:

– vầng trăng thành tri kỉ

– cái vầng trăng tình nghĩa

– vầng trăng đi qua ngõ

– đột ngột vầng trăng tròn đến cuối bài thơ tác giả dùng :

– ánh trăng im phăng phắc. Ánh trăng được dùng làm nhan đề Phải chăng, tác giả muốn đem phần tốt đẹp, phần nhân ái, thủy chung của vầng trăng tượng trưng cho ánh sáng để soi vào chỗ bóng tối, soi rọi vào sự lãng quên, vô tình trong tâm hồn con người, khiến người ta nhìn rõ mình, khiến người ta giật mình để rồi từ đó sống ân nghĩa, thủy chung với quá khứ dù quá khứ đó nhọc nhằn, gian khổ và trần trụi? Đấy là những nét nghệ thuật làm nên sự khác biệt và làm nên thành công của bài thơ Ánh trăng.

c. Cái hay và độc đáo của bài thơ ánh trăng được thể hiện trong nội dung cảm xúc.

– Ánh trăng là bài thơ hay chứa đựng nội dung tình cảm, cảm xúc phong phú, trong đó có những lớp nghĩa hàm ẩn không dễ nhận ra :

+ Bài thơ là lời thủ thỉ tâm tình của nhà thơ về những năm tháng gian lao của cuộc đời người lính sống gắn bó với thiên nhiên đất nước hiền hậu và bình dị.

+ Bài thơ ánh trăng chứa đựng những suy ngẫm và chiêm nghiệm của nhà thơ về những đổi thay của lòng người trước những biến thiên của cuộc sống.

+ Bài thơ ánh trăng là lời nhắc nhở người đọc về thái đọc sống uống nước nhớ nguồn, ân nghĩa thủy chung với quá khứ, đặc biệt là qua khứ nhọc nhằn, gian lao.

Với những ý nghĩa đó bài thơ đã tác động sâu sắc đến bạn đọc bao thế hệ, khơi gợi từ tình cảm cá nhân đến cộng đồng, từ quá khứ đến hiện tại. Từ câu chuyện tâm tình giữa người và trăng mà nâng lên thành lẽ sống đẹp : Sống có nghĩa có tình, có trước có sau, ân nghĩa trọn vẹn. Vì thế mà khi đọc bài thơ ta không thể đọc một lần mà bỏ xuống được ta phải dừng tay trên trang giấy đáng lẽ lật đi……

  • Kết bài:

–  Thơ cũng như bất cứ thể loại nghệ thuật nào đều có mối quan hệ chặt chẽ với đời sống.

–  Tiếp nhận một bài thơ hay là quá trình người đọc hòa mình vào tác phẩm để cảm nhận nó. Lúc ấy trái tim người đọc hòa cùng một nhịp với những rung cảm của nhà nghệ sỹ. Qua đó độc giả không chỉ hiểu được tấc lòng của nhà nghệ sỹ đối với cuộc đời mà còn tham gia đồng hành vào quá trình sáng tạo

–  Đọc tác phẩm văn học là ta đang được sống những cuộc đời ta chưa từng được sống và đó là cách bồi dưỡng tâm hồn tình cảm của ta thêm phong phú.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang