Củng cố, mở rộng (Bài 6, Ngữ văn 7, tập 2, Kết nối tri thức)

bai-6-cung-co-mo-rong-ngu-van-7-ket-noi-tri-thuc

Củng cố, mở rộng.

Câu 1. Kẻ bảng vào vở theo mẫu sau và điền thông tin phù hợp:

Trả lời:

Phương diện so sánh Truyện ngụ ngôn Tục ngữ
Loại sáng tác – Sáng tác dân gian – Sáng tác dân gian
Nội dung – Dùng cách ẩn dụ hoặc nhân hóa loài vật, con vật hay kể cả con người để thuyết minh cho một chủ đề luân lý, triết lý một quan niệm nhân sinh hay một nhận xét về thực tế xã hội hay những thói hư tật xấu của con người. – Là những kinh nghiệm của nhân dân về mọi mặt (tự nhiên, lao động sản xuất, xã hội), được nhân dân vận dụng vào đời sống, suy nghĩ và lời ăn tiếng nói hằng ngày.
Dung lượng văn bản – Văn vần hoặc văn xuôi, dung lượng của truyện thường không dài. – Ngắn gọn, ổn định, có nhịp điệu, hình ảnh.

Câu 2. Sưu tầm và ghi lại những câu tục ngữ em đã nghe hoặc đọc vào vở hay một cuốn sổ nhỏ (nên chia các câu tục ngữ đó theo nhóm chủ đề)

Trả lời:

* Tục ngữ về thầy cô.

1. Tiên học lễ, hậu học văn

2. Nhất tự vi sư, bán tự vi sư

3. Không thầy đố mày làm nên

4. Một kho vàng không bằng một nang chữ

5. Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học

6. Người không học như ngọc không mài

7. Trọng thầy mới được làm thầy

8. Một gánh sách không bằng một giáo viên giỏi

9. Thầy giáo là đường tinh, học sinh là đường đã lọc.

10. Mồng một tết cha, mồng ba tết thầy

* Tục ngữ về học tập.

1. Học là học biết giữ giàng
Biết điều nhân nghĩa biết đàng hiếu trung.

2. Làm người mà được khôn ngoan
Cũng nhờ học tập mọi đường mọi hay
Nghề gì đã có trong tay
Mai sau rồi cũng có ngày ích to.

3. Học là học để làm người
Biết điều hơn thiệt biết lời thị phi.

4. Học trò học hiếu học trung
Học cho đến mực anh hùng mới thôi.

5. Học là học để mà hành
Vừa hành vừa học mới thành người khôn.

6. Ngọc kia chẳng giũa chẳng mài
Cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc đi.

7. Luyện mãi thành tài, miệt mài tất giỏi.

8. Học ăn học nói, học gói học mở.

9. Học hay cày biết.

10. Học một biết mười.

11. Học thầy chẳng tầy học bạn.

12. Học thầy học bạn, vô vạn phong lưu.

13. Ăn vóc học hay.

14. Bảy mươi còn học bảy mươi mốt.

15. Có cày có thóc, có học có chữ.

16. Có học, có khôn.

17. Dao có mài mới sắc, người có học mới nên.

Tục ngữ về thiên nhiên về sản xuất và lao động.

1. Con trâu là đầu cơ nghiệp

2. Chuồng gà hướng đông cái lông chẳng còn

3. Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng bay vừa thì râm.

4. Đầu năm gió to, cuối năm gió bấc

5. Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng
Ngày tháng mười chưa cười đã tối

6. Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lại lụt

7. Ếch kêu uôm uôm, ao chuôm đầy nước.

8. Gió thổi là đổi trời.

9. Giàu đâu những kẻ ngủ trưa
Sang đâu những kẻ say sưa tối ngày.

10. Lúa chiêm lấp ló đầu bờ
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên.

Tục ngữ về kinh nghiệm lao động, sản xuất.

1. Tấc đất tấc vàng.

2. Nhất canh trì, nhị canh viên, tam canh điền.

3. Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống.

4. Nhất thì, nhì thục.

5. Thứ nhất cày nỏ, thứ nhì bỏ phân.

6. Tốt giếng tốt má, tốt mạ tốt lúa.

7. Trồng tre đất sỏi, trồng tỏi đất bồi.

8. Một cục đất ải bằng một bãi phân.

9. Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng
Ngày tháng mười chưa cười đã tối.

10. Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa

11. Ráng mỡ gà, có nhà thì giữ.

12. Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lại lụt

13. Mây xanh thì nắng mây trắng thì mưa

14. Tháng bảy heo may chuồn chuồn bay thì bão

15. Gió nam đưa xuân sang hè

16. Nhai kĩ no lâu cày sâu tốt lúa

17. Giàu nuôi lợn nái lụi bại nuôi bồ câu

18. Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai trồng đậu trồng khoai trồng cà
Tháng ba thì đậu đã già
Ta đi ta hái về nhà phơi khô
Tháng tư đi tậu trâu bò
Để ta sắm sửa làm mùa tháng năm.

19. Đất thiếu trồng dừa đất thừa trồng cau

20. Qua giêng hết năm qua rằm hết tháng 

21. Con trâu là đầu cơ nghiệp.

22. Chuồng gà hướng đông cái lông chẳng còn.

23. Chuồn chuồn bay thấp thì mưa
Bay cao thì nắng bay vừa thì râm.

24. Đầu năm gió to, cuối năm gió bấc.

Câu 3. Hãy viết đoạn văn (khoảng 8 – 10 câu) nêu những điều tốt đẹp em đã tiếp nhận được sau khi đọc những truyện ngụ ngôn, tục ngữ và thành ngữ trong bài học này.

Đoạn văn 1:

“Hai năm học nói cả đời lắng nghe”. Thật vậy, học tập, lắng nghe chính là chuyện mà con người luôn phải trau dồi trong cuộc đời của mình. Kho tàng văn học dân gian của đất nước ta là cả một kho tri thức, bài học cho con người học tập và noi theo. Sau khi đọc và nghe một số những câu chuyện ngụ ngôn thì bản thân mỗi học sinh đều rút ra được những bài học. Đó là những kinh nghiệm trong lao động sản xuất từ những câu ca dao về thiên nhiên và lao động sản xuất, đó là những bài học đạo lý làm người từ những câu ca dao, tục ngữ về con người và xã hội. Hay là các bài học triết lý nhân sinh được rút ra từ các câu chuyện ngụ ngôn. Bất cứ một câu ca dao, tục ngữ hay truyện ngụ ngôn nào cũng đều đang làm phong phú và hoàn thiện hơn tâm hồn của mỗi con người. Con người từ đây biết nhìn nhận thời tiết, biết làm người nhân hậu, lương thiện, biết ơn, giàu lòng vị tha để cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.

Đoạn văn 2:

Người ta chỉ mất hai năm để học nói, nhưng mất cả đời để học nghe, bởi vậy lắng nghe có ý nghĩa quan trọng trong cuộc sống của con người. Lắng nghe không chỉ đơn thuần là nghe người khác nói, mà còn là “lắng”, tức là là hiểu, đồng cảm, cảm nhận, sẻ chia với người khác trong cuộc sống. Con người cần phải biết lắng nghe vì đó là biểu hiện của biết chia sẻ, đồng cảm…Khi lắng nghe con người có thể hiểu biết hơn về người khác, có sự đồng cảm, đồng điệu, bao dung, giúp đỡ họ, có thể thấy được những nhận xét, đánh giá của người khác về bản thân, có cái nhìn khách quan, toàn diện về bản thân. Từ đó phát huy mặt mạnh và hạn chế, khắc phục mặt yếu. Không chỉ lắng nghe người khác mỗi người còn cần phải lắng nghe chính mình. Lắng nghe để cảm nhận bản thân, biết bản thân muốn gì, thấu hiểu chính con người mình. Vậy nên hãy biết lắng nghe mọi người xung quanh và lắng nghe chính mình để có một cuộc sống tốt đẹp, hạnh phúc.

Câu 4. Hãy kể lại một truyện ngụ ngôn mà ý nghĩa của nó có gắn với một thành ngữ.

Bài làm 1:

Truyện ngụ ngôn gắn liền với một thành ngữ: Thầy bói xem voi.

Có năm ông thầy bói mù nhân buổi ế hàng đã rủ nhau cùng chung tiền biếu người quản voi để có thể xem hình thù con voi trông như thế nào. Chợt nghe người ta rằng nói có voi đi qua, năm thầy bói bèn chung nhau tiền biếu người quản voi, xin cho voi dừng lại để cùng xem thử hình thù của con voi như thế nào. Năm ông thầy bói, chẳng ai nói với ai câu nào, đều tiến lại gần con voi và bắt đầu sờ. Nhưng trớ trêu thay, mỗi thầy chỉ sở vào một bộ phận của con voi. Thầy thì sờ ngà, thầy thì sờ tai, thầy sờ chân, thầy sờ đuôi. Tất cả các thầy đều cảm thấy vui vẻ khi lần đầu được thấy voi. Các thầy sờ một cách rất cần thận, và bằng cảm nhận của mình, họ đều đưa ra những nhận xét riêng.

Thầy sờ vòi bảo rằng:

– Tưởng con voi nó như thế nào, hoá ra nó sun sun giống như con đỉa.

Thầy sờ ngà thì bảo:

– Không phải! Con voi nó dài dài như cái đòn càn.

Thầy sờ tai bảo:

– Đâu có! Nó trông bè bè như cái quạt thóc.

Thầy sờ chân cãi lại:

– Ai bảo? Trông nó sừng sững như cái cột đình.

Thầy sờ đuôi lại nói rằng:

– Các thầy nói đều sai cả. Con voi nó tua tủa như cái chổi xể cùn.

Năm thầy, không thầy nào chịu thua, ai cũng cho mình nói đúng, không ai chịu ai, thành ra xô xát với nhau, đánh nhau toác đầu chảy máu.

Như vậy đấy các bạn ạ, câu chuyện ngụ ngôn “Thầy bói xem voi” khôn chỉ là một câu chuyện cười mà nó còn để lại cho chúng ta những bài học sâu sắc đó là: “Khi nhìn nhận bất cứ một vấn đề nào chúng ta cần nhìn một cách toàn diện và tổng thể các mặt của một vấn đề, không nên có cái nhìn phiến diện để kết luận về một sự vật”. Bên cạnh đó, câu chuyện còn nhắc nhở chúng ta nên học cách lắng nghe ý kiến của người khác.

Bài làm 2:

Kể lại truyện ngụ ngôn “Ếch ngồi đáy giếng” – gắn với thành ngữ “Ếch ngồi đáy giếng”.

Tối thứ bảy hàng tuần, tôi đều được bà kể cho nghe truyện ngày xưa. Trong đó có những câu chuyện ngụ ngôn tuy ngắn nhưng thật hay và bổ ích, giúp con người thấy được nhiều bài học trong cuộc sống. Hôm nay, bà đã kể cho tôi chuyện “Ếch ngồi đáy giếng”.

Bà nội tôi thuộc rất nhiều ca dao, tục ngữ, thành ngữ… Vì thế khi nói chuyện bà hay chêm vào đó những câu tục ngữ lạ mà tôi không hiểu. Những lúc như thế bà lại cặn kẽ giảng giải. Hôm nay, bà nói về câu tục ngữ “Ếch ngồi đáy giếng” chỉ những kẻ dù hiểu biết rất hạn hẹp nhưng lúc nào cũng huênh hoang, tự đắc. Rồi để giải thích cho tôi hiểu hơn, bà kể lại cho tôi nguồn gốc câu thành ngữ ấy.

Ngày xưa, có một chú ếch sống trong một cái giếng nhỏ. Vì sống ở đó lâu ngày nên nó không biết thế giới ở ngoài kia ra sao. Xung quanh nó chỉ có vài con cua, ốc, nhái bé nhỏ… nên nó tưởng rằng mình là to là mạnh nhất. Ếch ta tự hào lắm về tiếng kêu ồm ộp của mình. Mỗi khi nó kêu làm vang động cả cái giếng nhỏ, khiến những con vật nhỏ khác rất hoảng sợ. Ếch cứ ngỡ mình rất oai. Ngẩng mặt lên nhìn trời, nó thấy bầu trời chỉ bằng chiếc vung chứ không cao và rộng lớn như người ta thường đồn đại. Ểch ta kiêu hãnh lắm và cho rằng trời quá bé nhỏ còn nó mới xứng là một vị chúa tể. Suy nghĩ ấy đã làm cho ếch ta coi thường mọi vật. Trong cái nhìn của ếch thì chẳng có ai bằng nó cả. Thế nên, một năm trời mưa to, nước trong giếng dâng cao, đưa ếch ta ra ngoài. Quen cái nhìn cũ, quen cách nghĩ cũ, ếch huênh hoang đi lại trên đường, đi khắp nơi như chốn không người. Theo thói quen, nó cất tiếng kêu ồm ộp và tưởng rằng ai cũng sợ như dưới đáy giếng kia. Nó đưa cặp mắt lên nhìn và vẫn cho rằng bầu trời bé tẹo như cái vung nên chẳng để ý gì đến xung quanh. Bỗng nó thấy tối sầm lại, không nhìn rõ gì nữa. Một vật gì rất lớn che mất tầm nhìn của nó. Nó đâu biết rằng đó là chân của một con trâu nên đã bị dẫm bẹp. Thế là hết đời một con ếch ngông nghênh.

Nghe câu chuyện bà kể, tôi thấy chú ếch con thật đáng chê trách. Có nhiều người trẻ, ít kinh nghiệm, ít hiểu biết nhưng lại là những người có tính cách hung hăng, huênh hoang, ngông nghênh nhiều nhất. Có lẽ vì còn chưa hiểu biết nhiều nên họ mới làm những việc kém hiểu biết. Do đó, những người trẻ tuổi phải cố gắng mở rộng tầm hiểu biết của mình, không chỉ trong sách vở mà còn nhiều lĩnh vực khác, không chủ quan hay kiêu ngạo. Những tính cách đó chỉ làm hỏng một con người mà thôi, đôi khi còn làm cho người khác bị tổn thương nữa.

Bao giờ kể chuyện xong bà cũng giúp tôi rút ra những bài học quý báu, không cao sang, xa vời mà rất thực tế, gần gũi. Tôi luôn lắng nghe những điều bà dặn để áp dụng vào cuộc sống. Bản thân tôi cũng như tất cả mọi người, không ai là hoàn hảo nên luôn phải học hỏi lẫn nhau, những khiếm khuyết của mình sẽ được tri thức của người khác bổ sung và ngược lại. Do đó, không được giấu điểm yếu kém. Bà còn bảo tôi phải học thật chăm để không bị kém hiểu biết, có như thế mới không suy nghĩ hay hành động thiếu hiểu biết. Quả thực những điều bà dặn dò tôi đòi hỏi một sự cố gắng nỗ lực và tự giác rất lớn nhưng dù có thế nào thì tôi cũng không thể để mình như chú ếch ngồi đáy giếng được.

Truyện ngụ ngôn Ếch ngồi đáy giếng của ông cha ta thật sâu sắc: Nói chuyện của loài vật nhưng mục đích là nói chuyện loài người. Bất kì ai khi đọc truyện cũng sẽ tự rút ra được cho mình bài học cần thiết và bổ ích.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.