Bài thơ: Tiếng hát con tàu (Chế Lan Viên) – SGK Ngữ văn 12, tập 1

bai-tho-tieng-hat-con-tau-che-lan-vien-sgk-ngu-van-12-tap-1

Tiếng hát con tàu
(Chế Lan Viên)

Văn bản.

Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu

Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?
Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng

Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia

Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay rạt rào đã chín trái đầu xuân

Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường
Con đã đi nhưng con cần vượt nữa
Cho con về gặp lại mẹ yêu thương

Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa

Con nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con

Con nhớ em con, thằng em liên lạc
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ
Sáng bản Na[1], chiều em qua bản Bắc

Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư

Con nhớ mế[2]! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mế thức một mùa dài
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi

Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chi là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!

Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng[3]
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương

Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương

Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?
Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ
Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga

Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng
Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào
Rẽ người mà đi, vịn tay mà đến
Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao

Nhựa nóng mười năm nhân dân máu đổ
Tây Bắc ơi, ngươi là mẹ của hồn thơ
Mười năm chiến tranh, vàng ta đau trong lửa
Nay trở về, ta lấy lại vàng ta

Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng?

Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân

Chú thích.
[1] Có sách in là “bản Nam”.
[2] Từ gọi mẹ trong ngôn ngữ của một số dân tộc thiểu số, cũng dùng để gọi một cách thân mật và kính trọng những người phụ nữ cao tuổi.
[3] Loài cây thân gỗ, là cây chủ cho loài cánh kiến kí sinh, vào mùa xuân nở hoa vàng lộng lẫy. Còn có cách hiểu khác: tổ cánh kiến đo loài côn trùng này tiết ra, có màu đỏ thẫm, khi tổ cánh kiến nổi các chấm hoa vàng là lúc có thể thu hoạch được.

Bài thơ Tiếng hát con tàu rút từ tập Ánh sáng và phù sa, một tập thơ xuất sắc, kết tinh tư tưởng và nghệ thuật thơ Chế Lan Viên trên con đường thơ cách mạng. Bài thơ được gợi cảm hứng từ một sự kiện kinh tế – chính tri, xã hội: cuộc vận động đồng bào miền xuôi lên xây dựng tinh tế ở miền núi Tây Bắc vào những năm 1958 – 1960.

Nguồn:
1. Ánh sáng và phù sa, NXB Văn học, 1960
2. Chế Lan Viên toàn tập, Vũ Thị Thường sưu tập và biên soạn, NXB Văn học, 2002

Đọc hiểu văn bản.

Câu 1: Trong bài thơ, hình ảnh con tàu và Tây Bắc ngoài ý nghĩa cụ thể còn có ý nghĩa biểu tượng. Hãy cắt nghĩa nhan đề và 4 câu thơ đề từ.
Câu 2: Bài thơ có thể chia làm mấy đoạn? Nêu ý chính của từng đoạn. Bố cục đó thể hiện sự vận động tâm trạng của chủ thể trữ tình như thế nào?
Câu 3: Niềm hạnh phúc lớn lao khi gặp lại nhân dân được nhà thơ thể hiện trong khổ thơ nào? Phân tích nét đặc sắc nghệ thuật của khổ thơ đó.
Câu 4: Hình ảnh nhân dân trong kỷ niệm nhà thơ được thể hiện qua những con người cụ thể nào? Phân tích những khổ thơ nói về những kỷ niệm đó để làm rõ sự gắn bó và lòng biết ơn sâu nặng của nhà thơ với nhân dân
Câu 5: Hãy tìm những câu thơ thể hiện rõ nhất những chất suy tưởng và triết lý của Chế Lan Viên
Câu 6: Nhận xét và đánh giá nghệ thuật sáng tạo hình ảnh của Chế Lan Viên trong bài thơ.


* Soạn bài:

Tiếng hát con tàu
(Chế Lan Viên)

Đọc hiểu.

Câu 1:

a. Nhan đề bài thơ Tiếng hát con tàu

– Con tàu là biểu tượng của khát vọng lên đường, khát vọng đi xa, hướng tới cuộc sống của đất nước, nhân dân đi tới chân trời của ước mơ lớn, đi tới ngọn nguồn cảm hứng của những sáng tạo nghệ thuật.

– Tiếng hát là niềm say sưa của tâm hồn khi tìm được hướng đi và đang trên hành trình đến với nhân dân, đất nước.

– Nhan đề bài thơ có thể hiểu là tiếng hát của tâm hồn nhà thơ – một tâm hồn tràn ngập niềm tin vào lý tưởng, vào cuộc đời. Nhà thơ đã hoá thân thành con tàu, hăm hở làm cuộc hành trình đến với Tây Bắc, đến với cuộc sống của nhân dân và đó cũng là đến với cội nguồn của cảm hứng sáng tạo nghệ thuật.

b. Ý nghĩa khổ thơ đề từ:

– Khẳng định sự gắn bó của thi nhân với Tây Bắc, một miền đất cụ thể, đã trải qua lửa đạn chiến tranh, với những khát vọng xây dựng trong cuộc sống mới, cũng là mảnh đất ươm mầm cho nhiều tác phẩm nghệ thuật nảy nở. Đây cũng chính là cuộc đời rộng lớn của nhân dân, là cuộc đời mới của những con người trẻ tuổi.

– Thể hiện khát vọng lên đường, hoà mình vào cuộc sông rộng lớn của dân tộc, hướng vào mạch nguồn của đất nước, của nhân dân.

Câu 2: Bố cục bài thơ:

– 2 khổ đầu: Sự trăn trở, lời mời gọi lên đường.

– 9 khổ giữa: Khát vọng về với nhân dân, nơi khắc ghi nhiều kỉ niệm nghĩa tình trong kháng chiến.

– 4 khổ cuối: khúc hát lên đường say mê, tin tưởng.

Bố cục 3 phần đã thể hiện sự vận động tâm trạng chủ thể trữ tình: phần đầu có sự day dứt, trăn trở. Đoạn giữa là dòng hoài niệm với cảm xúc thiết tha, biết ơn. Đoạn cuối sôi nổi, háo hức.

Câu 3: Niềm hạnh phúc lớn lao khi gặp lại nhân dân được nhà thơ thể hiện trong khổ thơ:

Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa.

Tác giả đã tạo ra những cặp hình ảnh giàu tính tượng trưng, mỗi cặp một sắc thái khác nhau để so sánh làm nổi bật niềm hạnh phúc lớn lao của mình khi từ bỏ thế giới nhỏ hẹp của cá nhân để về với nhân dân. Đối với người con ở đây, nhân dân là nơi chan chứa tình yêu thương, che chở, cưu mang, là nguồn sống, là bầu sinh khí, tiếp sức cho anh.

Hình ảnh so sánh phong phú chắt lọc từ đời sống thiên nhiên và con người nên rất bình dị, gần gũi. Cách sắp xếp hàng loạt hình ảnh so sánh cùng hướng tới một ý nghĩa tạo sự nồng nàn, tha thiết.

Câu 4:

Nhân dân Tây Bắc trong hoài niệm của tác giả là những người dân lao động nghèo nhưng giàu lòng yêu nước, gắn bó nghĩa tình với kháng chiến. Đó là “người anh du kích”, đã hi sinh trong một trận công đồn, trước lúc ra đi còn nhường lại chiếc áo đang mặc cho người kháng chiến. Chỉ là “chiếc áo nâu suốt một đời vá rách” nhưng nghĩa tình trong cử chỉ nhường áo đó mãi không thể quên. “Nhường cơm sẻ áo” đã trở thành những cử chỉ đẹp trong môi trường kháng chiến thiếu thốn. Trong bài Việt Bắc, Tố Hữu đã viết:

Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.

Đó là hình ảnh “em liên lạc”, một em thiếu nhi Tây Bắc sớm có lòng yêu nước, tận tuỵ, đầy ý thức trách nhiện với công việc “Mười năm tròn chưa mất một phong thư”. Tình cảm của em đối với người kháng chiến rất đáng trân trọng, yêu thương, bảo vệ người kháng chiến hết mình (Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ).

Hình ảnh “mế”, người mẹ Tây Bắc ân cần chăm sóc người kháng chiến khi họ bị bệnh không phải một ngày, một tháng mà cả “mùa dài”. Tình mẹ đối với người kháng chiến chẳng khác tình ruột thịt. Hình ảnh mẹ càng đẹp hơn trong sự phản chiếu lung linh của “lửa hồng soi tóc bạc”.

Hình ảnh cô gái Tây Bắc đọng lại trong cử chỉ ấm áp “Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch”, trong hương thơm của “vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng”. Tình quân dân lâu dần thành tình đôi lứa. Nỗi nhớ được so sánh bằng những hình ảnh gợi bất ngờ, mới lạ, gợi được những tưởng tượng phong phú. (Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét, Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng…)

– Cách xưng hô thân tình, ruột thịt (anh con, em con, mế…) hình ảnh chân thực, từ ngữ gợi cảm, so sánh độc đáo… Đoạn thơ thể hiện lòng biết ơn, tình yêu thương sâu nặng đối với Tây Bắc. Nhân dân Tây Bắc như một đại gia đình ruột thịt của người kháng chiến.

– Khổ thơ:

Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất đã hoá tâm hồn

Thể hiện niềm thương nhớ đằm thắm, sâu nặng với những mạnh đất mình đã đi qua. Những câu thơ triết lí nhưng không khô khan bởi vì nó dựa vào quy luật của tình cảm. Những miền đất lạ theo thời gian và nghĩa tình sẽ âm thầm bồi đắp tình yêu cho con người. Để rồi khi đi xa, những mảnh đất đó vẫn mãi theo người.

Từ những cảm xúc suy tư về những chuyển hoá kì diệu của tâm hồn của người đúc kết thành triết lí đó chính là nét độc đáo trong phong cách thơ Chế Lan Viên.

Câu 5: Những câu thơ thể hiện rõ nhất chất suy tưởng và triết lí của Chế Lan Viên là:

Nhớ bản sương giăng nhớ đèo mây phủ
….
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương.

Câu 6: Nghệ thuật sáng tạo hình ảnh của Chế Lan Viên trong bài thơ:

Bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên hấp dẫn người đọc một phần là ở nghệ thuật sáng tạo hình ảnh. Biểu hiện ở:

– Sự phong phú, đa dạng các loại hình ảnh:

+ Hình ảnh thực với chi tiết cụ thể (hình ảnh “mế”, hình ảnh người du kích, em liên lạc,…)
+ Hình ảnh biểu tượng (con tàu, vầng trăng, mặt hồng em, suối lớn mùa xuân,…)
+ Hình ảnh tượng tưởng (con tàu mộng tưởng, mỗi đêm khuya uống một vầng trăng,…)

– Sử dụng đa dạng các phương thức sáng tạo hình ảnh:

+ Tả thực (khổ 6, 7, 8)
+ So sánh (khổ 5 và 10)
+ Ẩn dụ (con tàu, vầng trăng,…)

– Hình ảnh thường được tổ chức thành từng chuỗi liên kết, tiếp nối, bổ sung nhằm khắc sâu ý tưởng, cảm xúc.

Ý nghĩa hình tượng con tàu và địa danh Tây Bắc trong bài Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên.

Phân tích lí tưởng nghệ thuật của Chế Lan Viên qua bài thơ Tiếng hát con tàu

Cảm nhận bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.