Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận

cam-nhan-bai-tho-trang-giang-cua-huy-can

Cảm nhận bài thơ Tràng giang của Huy Cận

I. Mở bài:

– Giới thiệu về tác giả Huy Cận và đặc điểm thơ Huy Cận trước cách mạng tháng Tám: Huy Cận là một trong số những nhà thơ có nhiều đóng góp cho phong trào thơ Mới. Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, thơ ông mang nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn của một người dân ý thức sâu sắc về cảnh ngộ của non sông đất nước và số phận con người.

– Giới thiệu về bài thơ: Tràng giang (rút trong tập Lửa thiêng) là một trong số những sáng tác tiêu biểu nhất, đặc sắc nhất của Huy Cận.

II. Thân bài:

Ý nghĩa nhan đề và câu thơ đề từ:

– Nhan đề: sử dụng từ ngữ Hán Việt cùng âm tiết mở “ang” gợi không gian cổ kính và tăng thêm liên tưởng về sự rộng lớn của dòng sông.

– Câu thơ đề từ:

+ “trời rộng”, “sông dài” gợi nên cái rộng lớn, mênh mông của thiên nhiên, của vũ trụ bao la

+ “bâng khuâng”, “nhớ” – một cảm xúc của nỗi buồn, của sự cô đơn, lạc lõng.

⇒ Ngay từ nhan đề và câu thơ đề từ, tác giả đã gợi nên cảm xúc bao trùm, xuyên suốt toàn bộ bài thơ.

Khổ 1:

– Thiên nhiên rộng lớn, mênh mông:

+ Hình ảnh”sóng gợn”

+ Hình ảnh con thuyền “con thuyền xuôi mái nước song song” càng tô đậm thêm sự hoang vắng, cô quạnh của cảnh vật.

– Tâm trạng của chủ thể trữ tình được bộc lộ một cách trực tiếp: buồn điệp điệp”, “sầu trăm ngả” tác giả đã diễn tả nỗi buồn dài cùng cực, như không bao giờ nguôi, không bao giờ dứt trong tâm khảm của nhân vật trữ tình

Khổ 2:

– Bức tranh đã từng bước hoàn thiện hơn bằng những hình ảnh hết sức mới mẻ: cồn nhỏ, gió đìu hiu, làng xa, chợ chiều, bến cô liêu gợi tả cảnh vật nhỏ bé, cô độc, thoáng lên cái vắng lặng, lạnh lẽo cô đơn đến rợn ngợp của cảnh vật nơi đây.

– Âm thanh “tiếng chợ chiều” gợi nên sự mơ hồ, tàn tạ, hoang vắng.

– “Sông dài trời rộng bến cô liêu” nhấn mạnh cái cô liêu của cảnh vật và sự lạc lõng, trống vắng, cô đơn của con người.

Khổ 3:

– Khung cảnh thiên nhiên bao la rộng lớn: hàng nối hàng, mênh mông

– Hình ảnh “bèo”gợi sự nổi trôi, vô định

– Câu trúc phủ định “không cầu” – “không đò” đã phủ định hoàn toàn những con đường để kết nối với cuộc đời

Khổ 4:

– Hình ảnh thơ cô điển “mây”, “chim” tác giả đã vẽ nên một bức tranh về quê hương, đất nước,.

– Nỗi nhớ, tình yêu quê hương, đất nước của tác giả qua hai câu thơ cuối bài.

III. Kết bài:

Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ


Tham khảo:

Cảm nhận vẻ đẹp bài thơ Tràng giang của Huy Cận

  • Mở bài:

Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ Mới với phong cách thơ sầu buồn, “Ảo não” gắn với cảm thức không gian. “Tràng Giang” là bài thơ đặc sắc của ông được rút ra từ tập “Lửa thiêng” (1940). Bài thơ là bức tranh thiên nhiên, bức tranh tâm trạng của nhà thơ trước cảnh “Trời rộng, sông dài”, gửi gắm trong đó tình yêu quê hương đất nước tha thiết của nhà thơ.

  • Thân bài:

Bài thơ được viết vào một buổi chiều thu năm 1939, khi Huy Cận đứng trước cảnh sông Hồng mênh mông tại bến đò Chèm, lúc đó nhà thơ đang xa quê, học ở Hà Nội. Tuy nhiên, bài thơ không chỉ do sông Hồng gợi cảm hứng mà nó còn mang cảm xúc chung về những dòng sông quê hương và “nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm thấy lối ra nên như kéo dài triền miên” trong phong trào thơ Mới. Đó là nỗi buồn của những người dân mất nước hòa lẫn nỗi bơ vơ trước tạo vật, thiên nhiên hoang vắng, nỗi buồn của những người sống trên quê hương nhưng luôn cảm thấy thiếu quê hương.

Bài thơ có nhan đề và lời đề từ độc đáo, giàu ý nghĩa. “Tràng giang” là một từ Hán Việt có nghĩa là sông dài, nó còn một âm đọc nữa là “trường giang”. Cách gọi theo từ Hán Việt này gợi sắc thái cổ kính, trang nhã, phù hợp với phong cách thơ giàu tính cổ điển của Huy Cận. Hai chữ này thường gặp trong thơ Đường nên còn gợi cho người đọc những trường liên tưởng văn hóa phong phú. Con sông như thể có từ xa xưa, từ một thời hồng hoang nào đó. Đó là con sông muôn thủa, vĩnh hằng, dường như nó dài rộng hơn, bát ngát, nên thơ hơn.

Mặt khác, Huy Cận là nhà thơ của cảm thức không gian nên ông thường tìm đến những miền không gian khác nhau như cồn, bến, dòng sông… để biểu hiện cảm xúc, tâm trạng của mình. Đặt tên bài thơ là “Tràng giang” rất phù hợp với phong cách thơ Huy Cận, nhà thơ của nỗi sầu nhân thế. Bởi chỉ có những không gian như “Tràng giang” mới chứa hết được nỗi “Sầu vạn kỷ” trong tâm hồn ảo não của Huy Cận.

Lời đề từ của bài “Tràng giang” được trích từ một bài thơ khác của Huy Cận là “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Nó hé lộ cho người đọc thấy một nét quen thuộc trong thơ ông. Sông dài, trời rộng là những hình ảnh gợi không gian bao la, rợn ngợp, một dòng sông dài rộng mênh mông rộng lớn gắn với cảm thức không gian trong thơ Huy Cận. Câu đề từ cũng thâu tóm được cả tình và cảnh trong bài thơ. Tình là bâng khuâng, thương nhớ, cảnh là trời rộng sông dài. Đó là một không gian chứa đầy tâm trạng buồn thương, ảo não của một cái tôi thơ Mới. Câu đề từ cũng tạo được âm hưởng chung cho cả bài thơ, đó là âm điệu buồn bã, trống vắng trước một không gian vô cùng, vô tận.

Khổ đầu tiên của bài thơ là khung cảnh dòng “Tràng giang” với vẻ hoang sơ, hiu quạnh. Hai câu đầu của khổ thơ mở ra một không gian tràng giang mênh mông

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song”

Sóng gợn tràng giang gợi hình ảnh những vòng sóng lan xa, gối lên nhau, xô đuổi nhau đến tận chân trời, không gian như được mở rộng tới vô tận. Đây là con sóng của nỗi buồn chứ không phải con sóng gợi niềm vui như trong những câu thơ sau của Tố Hữu:

“Đẹp vô cùng tổ quốc ta ơi
Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt
Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát
Chuyến phà dào dạt, bến nước Bình Ca”.

Từ láy “điệp điệp” gợi nỗi buồn âm thầm mà da diết, nó như chồng xếp lên nhau, trải theo những lớp sóng nhấp nhô, bất tận. Con sóng trên dòng sông cũng là con sóng buồn mênh mang trong lòng nhà thơ.

Trên dòng sông mênh mông ấy, có một con thuyền thả mình trôi xuôi theo dòng nước. Con thuyền rẽ những luồng nước song song, rong ruổi mãi đến tận cuối trời. Sự vô biên được mở ra ở chiều dài. Trong mối tương quan với dòng sông, con thuyền thật bé nhỏ, đơn côi. Nhà thơ đã sử dụng bút pháp lấy điểm tả diện thường gặp trong thơ Đường để khơi gợi. Cái nhỏ bé của con thuyền càng làm nổi bật cái mênh mông, hoang vắng của dòng sông và ngược lại trên dòng sông mênh mông ấy con thuyền thật lẻ loi, cô đơn. Đó cũng là cảm giác cô đơn, lẻ loi của con người trước mênh mông sông nước. Trải dài trên sông là một nỗi buồn miên man không dứt.

Những từ láy “điệp điệp”, “song song” cùng sự hoán đổi bằng trắc, tạo âm điệu nhịp nhàng, trầm buồn, phù hợp với tâm trạng nhà thơ và âm hưởng chung của toàn bài.

Hai câu thơ đầu không chỉ gợi ra một không gian bát ngát mà còn tạo điểm nhấn, tạo âm hưởng chủ đạo cho toàn bài. Ấy là nỗi buồn của con người khi cảm thấy mình nhỏ bé, đơn côi trước dòng sông mênh mông bao la.

Hai câu thơ tiếp là những cảm nhận mới lạ của tác giả về tạo vật trên sông:

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Cụm từ “Thuyền về nước lại” được miêu tả trong thế đối lập, thuyền thì ra đi, nước ở lại. Nó gợi cảm giác chia lìa giống như một cuộc phân li giữa con thuyền và dòng sông. Con thuyền đang ra đi đến một bến bờ nào đó, chỉ còn lại dòng sông đơn côi với nỗi buồn thấm thía của mình.

Cả dòng sông chứa đựng nỗi buồn đã tạo thành nỗi sầu, nỗi sầu ấy dâng lên, lan tỏa trăm ngả, lan tỏa khắp đất trời. Phải chăng đó cũng là nỗi sầu buồn của tâm hồn thi nhân, một người luôn nhạy cảm trước những miền không gian hoang vắng. Trên dòng sông ấy còn xuất hiện một hình ảnh lạ lẫm, chưa từng xuất hiện trong thơ ca truyền thống:

“Củi một cành khô lạc mấy dòng”

Một câu thơ hoàn toàn hiện đại về hình ảnh, dáng vẻ. Biện pháp nghệ thuật đảo ngữ gợi ấn tượng trước mắt người đọc về một cành củi khô trôi nổi trên sóng nước. Từ “một” gợi ra sự cô đơn, lẻ loi. Từ “cành” gợi sự mỏng manh, yếu ớt, còn từ “củi khô” gợi sự nhỏ bé, cạn kiệt, lụi tàn sự sống. Cả cụm từ “một cành củi khô” gợi sự tầm thường, nhỏ nhoi, vô nghĩa, nơi đó dường như sự sống bị vắt kiệt.

Trong thơ xưa, người ta thường dùng hình ảnh ước lệ, tượng trưng rất đẹp, cao quý như tùng, cúc, trúc, mai, không bao giờ đưa hình ảnh một cành củi tầm thường, thiếu chất thơ mà lại thành thơ nghệ thuật được. Đó chính là tài năng và sự cách tân của Huy Cận. Cành củi trong mối tương quan với dòng sông còn bé nhỏ hơn cả con thuyền. Bút pháp lấy điểm tả diện một lần nữa được Huy Cận sử dụng thật hiệu quả, đắc địa.

Cành củi khô ấy không biết mình sẽ trôi nổi về đâu, sóng nước sẽ đưa mình tới nơi nào. Nó hoàn toàn nhỏ bé, bất lực và bị động. Cành củi cũng như con thuyền lênh đênh trên sóng nước gợi liên tưởng đến những số phận, những cuộc đời nhỏ nhoi, yếu ớt, bấp bênh, những kiếp phù du trôi nổi giữa dòng đời vô định. Người ta thường ví cuộc đời như dòng sông luôn chảy trôi không ngừng, nó cuốn vào mình biết bao số phận nhỏ bé. Câu thơ gợi nỗi buồn về thân phận của những con người nhỏ bé trong xã hội cũ. Nó là sự suy ngẫm, chiêm nghiệm của nhà thơ về thân phận con người giữa dòng đời.

Trong hai câu cuối của khổ 1, vẫn mênh mang, chan chứa nỗi buồn của của một cái tôi thơ Mới luôn cảm thấy mình nhỏ bé, bất lực trước dòng đời rộng lớn.

Bằng bút pháp khơi gợi, hình ảnh dòng sông ở khổ 1 hiện lên trong chiều dài vô tận, trong bề rộng bao la với tất cả vẻ hoang sơ, buồn bã, hiu quạnh. Nó gây ấn tượng đối với người đọc về một nỗi buồn triền miên theo không gian tràng giang, kéo dài miên man theo thời gian.

Ở khổ 2, bức tranh tràng giang được chấm phá thêm những hình ảnh như cồn, bến… nhưng vẫn vắng vẻ, hiu quạnh. Nếu ở khổ 1, hình ảnh dòng sông hiện lên trong chiều dài vô tận, trong bề rộng bao la với tất cả vẻ hoang sơ, buồn bã, hiu quạnh thì ở khổ 2, tác giả cũng mở đầu bằng những hình ảnh gợi buồn:

“Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu”.

Cồn là gò đất hoặc cát nổi cao ở giữa sông. Bản thân nó vốn nhỏ, khi đi cùng với từ láy lơ thơ cùng nghệ thuật đảo ngữ, không gian ấy càng trơ trọi, hoang vắng hơn, dường như không có tín hiệu của sự sống.

Bức tranh thiên nhiên có thêm gió nhưng là gió đìu hiu, thứ gió nhẹ, gợi cảm giác buồn bã. Huy Cận nói rằng khi dùng hai từ đìu hiu này, ông đã chịu ảnh hưởng của hai câu thơ trong “Chinh Phụ Ngâm” (Nguyên tác chữ Hán: Đặng Trần Côn, bản dịch Nôm Đoàn Thị Điểm):

“Non Kì quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò”

Câu thơ trên miêu tả khung cảnh hoang tàn, thê lương của chiến địa. Vì thế, từ đìu hiu cũng gợi nên sắc thái ý nghĩa ấy. Với từ láy đìu hiu , ngọn gió vốn vô hình, vô cảm bỗng trở nên có tâm trạng, nó còn gợi sắc thái thê lương, quạnh vắng. Cảnh vật có thêm chi tiết, hình ảnh nhưng không vui tươi hơn mà trống vắng, hiu quạnh hơn.Nhà thơ cố gắng kiếm tìm dấu vết của sự sống giữa không gian ấy nhưng vô vọng:

“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”

Chợ là nơi tụ họp, buôn bán của con người, là nơi có dấu hiệu của sự sống. Qua một phiên chợ, người ta có thể đánh giá được đời sống vật chất, tinh thần của người dân nơi đó. Họp chợ là nét sinh hoạt bình dị hàng ngày trong đời sống cộng đồng người Việt.

Trong bài “Tràng giang”, hình ảnh “chợ” kết hợp với thời gian chiều tàn. Chiều tàn – chợ vãn kết hợp hô ứng với nhau gợi ra sự tan tác, chia lìa và tạo nên âm điệu buồn. Tuy nhiên, sức gợi của câu thơ nằm ở từ “đâu”. Chính từ này làm cho câu thơ có hai cách hiểu: Ở cách hiểu thứ nhất, “đâu” mang nghĩa khẳng định, nghĩa là ở đâu đó có mua bán của một phiên chợ chiều đã vãn nơi làng quê vẳng lại từ xa. Ở cách hiểu thứ hai, “đâu” là phủ định từ nghĩa là không có tiếng chợ chiều đã vãn ấy.

Cả hai cách hiểu đều có thể chấp nhận được, bởi hiểu theo cách thứ nhất thì đó là thủ pháp lấy động tả tĩnh quen thuộc trong thơ Đường. Những âm thanh mơ hồ từ xa vọng lại càng làm nổi bật không gian mênh mông, quạnh vắng ở tràng giang. Còn hiểu theo cách thứ hai thì phải đặt câu thơ trong toàn bài, đặc biệt là trong mối liên hệ với khổ 3 và khổ cuối khi tác giả viết:

“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật”

Và: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Hàng loạt những phủ định từ liên tiếp mà Huy Cận sử dụng nhằm khẳng định sự hoang vắng, quạnh hiu đến mức gần như tuyệt đối của không gian tràng giang. Đó là một không gian hầu như không có dấu hiệu của sự sống của con người mà chỉ có sông nước mênh mông ngự trị. Cả hai cách hiểu đều gợi nỗi buồn, nỗi sầu và niềm cô đơn, nỗi khao khát được nghe thấy những tiếng vọng thân thiết từ cuộc đời, niềm khát khao được cảm thông chia sẻ trong tâm hồn nhà thơ.

Hai câu đầu của khổ thứ 2 chứa đựng những nét chấm phá về không gian tràng giang. Cảnh vật nhuốm vẻ đìu hiu, tàn tạ. Nó góp phần thể hiện sâu sắc cõi lòng của nhân vật trữ tình. Ấy là nỗi buồn, sầu, cô đơn và niềm khao khát được cảm thông, chia sẻ.

Đến câu thơ 3, 4 không gian Tràng giang được đẩy lên hết tầm

“Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”.

Nắng, trời là những sự vật hiện tượng rất quen thuộc của thế giới tự nhiên. Trong bài thơ này, nó được miêu tả bằng cách kết hợp từ đặc biệt. Hai động từ ngược hướng xen kẽ giữa nắng và trời tạo thành cụm từ “nắng xuống trời lên”. Có cảm giác nắng chiếu xuống đến đâu bầu trời được đẩy lên cao tới đó, mặt đất như rộng thêm ra. Chính vì thế mà dòng sông như dài hơn, đất trời như rộng hơn. Tất cả được đặt trong thế đối lập với bến. Nó vốn nhỏ trong tương quan với trời đất lại càng trở nên nhỏ bé, cô liêu, lẻ loi hơn khi nắng xuống trơi lên. Nhờ sử dụng những cấu trúc đăng đối cân xứng như “nắng xuống trời lên”, “sông dài trời rộng”, trong đó các tính từ dài, rộng như được động từ hóa, khiến cho lời thơ trở nên giàu sức gợi. Cách ngắt nhịp 2/2/3 cũng góp phần làm nổi bật sự tương phản gay gắt giữa bến cô liêu vơi “nắng xuống trời lên”, “sông dài trời rộng”.

Hai câu thơ còn được đánh giá cao bởi cách kết hợp độc đáo khác trong cụm từ “sâu chót vót”.Chót vót vốn tính từ để chỉ độ cao thì nay được kết hợp với từ chỉ độ sâu. Người ta thường nói sâu thăm thẳm, chỉ có Huy Cận mới gọi là sâu chót vót. Cách sử dụng từ này gợi liên tưởng đến câu thơ của Quang Dũng trong bài Tây Tiến vì ông cũng có cách kết hợp từ độc đáo như thế:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”.

Tưởng như vô lí, tưởng như không được đặt đúng chỗ nhưng đó lại là dụng ý và sự sáng tạo của mỗi nhà thơ. Hình ảnh dốc thăm thẳm trong bài Tây Tiến của Quang Dũng gợi lên những vách núi dựng đứng, những con dốc cao, leo đến hụt hơi, chấp chênh bên những bờ vực sâu thăm thẳm. Quang Dũng đã gợi tả rất tài tình địa thế hiểm trở của vùng núi Tây Bắc, mà không thể thay thế bằng từ ngữ nào khác.

Cụm từ sâu chót vót của Huy Cận cũng như vậy. Nó gợi ra nhiều hướng nhìn. Nhà thơ nhìn lên bầu trời thấy trời cao chót vót. Bầu trời ấy như được mở rộng ra đến vô biên vô tận. Bầu trời in hình xuống đáy sông gợi cảm giác sâu thăm thẳm. Vì thế, cụm từ sâu chót vót không chỉ diễn tả được độ cao mà còn diễn tả được độ rộng và độ sâu. Không gian được mở rộng đến ba chiều cao, sâu, rộng thăm thẳm vô biên. Sâu chót vót còn gợi ra cảm giác chới với khi đối diện với cái hun hút của vũ trụ.

Có được những hình ảnh thơ giàu sức gợi ấy là vì nhà thơ ảo não nhất trong phong trào thơ Mới không chỉ vì nhìn bằng con mắt thường mà bằng tâm trạng của cái tôi lãng mạn, đa sầu. Trước cái vô cùng vô tận của không gian, của dòng đời, nhà thơ cảm thấy mình nhỏ bé, đơn độc, bơ vơ mất phương hướng. Đó chính là “nỗi buồn thế hệ”, nỗi buồn không tìm thấy lối ra của tầng lớp thanh niên đương thời trong hoàn cảnh nước mất nhà tan đúng như Huy Cận đã tâm sự. Có thể nói, cái tôi Huy Cận thấm thía một cách đầy đủ trọn vẹn nỗi sầu nhân gian, cho nên nỗi nhớ quê đến với nhà thơ ở khổ thơ cuối như một điều tất yếu.

“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

Quê hương chính là nơi nương náu an toàn tin cậy cho những tâm hồn cô đơn, ảo não như Huy Cận.

Không gian Tràng giang vốn bát ngát lại càng được nới rộng thêm ra tới mọi phía. Chính trong không gian ấy, con người lại càng cảm thấy nhỏ bé, dợn ngợp trước vũ trụ rộng lớn vĩnh hằng và không thể không cảm thấy “lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian” (Hoài Thanh). Đó không chỉ là cảm xúc của Huy Cận mà là cảm xúc chung của những cái tôi thơ Mới cô đơn, bất lực trước thời cuộc.

Ở khổ thơ thứ ba, bức tranh “Tràng giang” được miêu tả cụ thể kĩ lưỡng. không gian trên mặt nước xuất hiện thêm một số hình ảnh như bờ bãi, cánh bèo… song không đông vui hơn mà vẫn quạnh hiu trống vắng:

“Bèo dạt về đâu hàng lối hàng”

Ở khổ thơ thứ nhất và khổ thứ hai của bài thơ, tác giả đã phác họa lên không gian mênh mông, trống vắng của“Tràng giang” qua những hình ảnh giàu sức gợi: Sóng gợn lăn tăn xô đuổi nhau tới tận chân trời, con thuyền bập bềnh trôi trên sóng nước, một cành củi khô lạc loài trôi nổi giữa dòng nước, cùng cồn nhỏ gió đìu hiu… Hầu như không có dấu hiệu nào của sự sống con người. Đến khổ thơ thứ ba này, tác giả cũng mở đầu bằng một hình ảnh rất ám ảnh. Đó là hình ảnh những cánh bèo trôi nổi trên tràng giang. Bèo là hình ảnh quen thuộc trong thơ văn Việt Nam, nó vừa gợi sự nhỏ bé, trôi nổi lại vừa gợi sự chia lìa, loạn li. Vì vậy mà thành ngữ mới có câu “Bèo dạt mây trôi”, còn ca dao thì miêu tả:

“Người về em vẫn trông theo
Trông nước nước chảy, trông bèo bèo trôi
Trông hoa, hoa chẳng muốn cười
Trông núi, núi đứng, trông người, người xa”.

Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, tác giả cũng sử dụng cánh bèo để diễn tả thân phận trôi nổi của nàng Kiều:

“Hoa trôi bèo dạt đã đành
Biết duyên mình, biết phận mình đến đâu”.

Vì thế, cánh bèo trở thành hình tượng nghệ thuật có giá trị tượng trưng cho những kiếp người nhỏ bé, những kiếp người nổi lênh trôi dạt giữa dòng đời trong đục.

Hình ảnh này xuất hiện trong thơ Huy Cận vừa làm cho câu thơ mang tính cổ điển lại vừa hiện đại. Sự xuất hiện của những cánh bèo hàng lối hàng lan tỏa khắp không gian tràng giang vừa gợi được sự mênh mông của dòng sông vừa như sự triết lí của Huy Cận về thân phận con người giữa dòng đời. Hình ảnh này đặt trong tương quan với hình ảnh con thuyền đơn côi trôi lênh đênh giữa dòng nước và cành củi khô bập bềnh giữa sóng nước ở khổ 1, tất cả như một sự khái quát sâu sắc của tác giả về những kiếp người nhỏ bé trôi dạt vô phương, vô định trong xã hội cũ.

Những hình ảnh này góp phần thể hiện nỗi buồn thấm thía trong tâm hồn nhà thơ khi nhận thấy kiếp người thật nhỏ bé, bơ vơ giữa dòng đời vô tận giữa không gian vô cùng. Như vậy, với những thi liệu cũ, Huy Cận đã gửi gắm tâm trạng của cái Tôi thơ Mới. Nét hiện đại của câu thơ chính là ở chỗ đó.

Nhà thơ cố kiếm tìm những dấu hiệu của sự sống giữa mênh mông“Tràng giang”nhưng chỉ thấy:

“Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật”.

Trong cuộc sống “đò, cầu” là những phương tiện nối liền hai bờ sông, là dấu hiệu cho sự hiện diện của cuộc sống con người. Hơn nữa, đò, cầu còn là hình ảnh thân thuộc mang bóng dáng quê hương. Vì thế, trong bài “Quê hương”, Đỗ Trung Quân đã viết:

“Quê hương là con đò nhỏ
Êm đềm khua nước ven sông”

Và:

“Quê hương là cầu tre nhỏ
Mẹ về nón lá nghiêng che”

Trong bài thơ “Tràng giang” , giữa hai bờ sông không có gì cả. Những phủ định từ như “không đò”, “không cầu” được đặt trong hệ thống với những từ “đâu” mang tính chất phủ định ở khổ trên, để nhằm khẳng định không gian của “Tràng giang” không hề có tín hiệu của sự sống, không có chút gì để gợi “niềm thân mật”. Tất cả như bị xóa nhà đi trong dáng vẻ cô quạnh, trong sự thiếu vắng của con người. Vì thế, nó đẩy cái tôi cô đơn của nhà thơ lên đến mức như tuyệt đối.

Trong bài “Đây mùa thu tới”, Xuân Diệu đã từng nói tới nỗi buồn vì xa vắng khi chứng kiến cảnh:

“Đã nghe rét buốt luồn trong gió
Đã vắng người sang những chuyến đò”.

Mùa thu vì lạnh nên đi lại thưa vắng hơn, những chuyến đò bắt đầu không có người sang. Còn trong câu thơ của Huy Cận không hề có đò mà cũng chẳng có cầu chỉ có sông nước ngự trị hoàn toàn và sự hiu quạnh, vắng lặng được đẩy tới cực độ. Câu thơ là hệ quả tất yếu của nỗi sầu nhân gian, nỗi sầu vũ trụ luôn thường trực trong tâm hồn Huy Cận. Đằng sau nỗi sầu ấy là niềm khát vọng tha thiết, cháy bỏng được sống hòa hợp giữa con người với con người, niềm khát khao được cảm thông chia sẻ của

“Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu”.

Không gian “Tràng giang” được điểm thêm những hình ảnh, màu sắc mới nhưng không vui tươi hơn, vắng vẻ hơn:

“Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”

Cách đảo ngữ “lặng lẽ” gợi lên sự vắng vẻ và càng khơi sâu nỗi buồn trong lòng nhà thơ. Quan sát kĩ, nhà thơ chỉ thấy những bờ bãi nối tiếp nhau âm thầm, lặng lẽ như ngàn năm vẫn vậy. Hai sắc màu xanh và vàng tồn tại bên cạnh nhau nhưng không có sự gặp gỡ giao hòa. Tất cả chỉ là một thế giới cô đơn. Trước khung cảnh ấy, con người lại càng cảm thấy nhỏ bé, cô đơn hơn, bị chìm khuất trong không gian đó. Vì thế, cái tôi Huy Cận cần một bến đỗ an toàn, tin cậy. Bến đậu ấy chính là quê hương. Vì thế, nỗi nhớ quê đến với tác giả như một điều tất yếu:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”

Khổ thơ thứ ba là cả một bức tranh thiên nhiên hoang vắng như thủa khai thiên lập địa, lặng lẽ tồn tại với vẻ đẹp nguyên sơ của nó. Nó chất chứa nỗi buồn, nỗi sầu của một cái tôi cô đơn luôn cảm thấy mình nhỏ bé đơn độc trước không gian trống vắng, hiu quạnh. Đến khổ thơ 4, nhà thơ gửi cảm xúc về với quê hương mịt mờ, xa thẳm:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều xa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

Tác giả mở đầu khổ thơ bằng một bức tranh thiên nhiên vừa đậm chất cổ điển lại vừa mang tính hiện đại:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều xa”.

Mây là một thi liệu quen thuộc thường gặp trong thơ cổ, mang đậm chất hội họa phương Đông. Đó là “Mây trắng ngàn năm bay chơi vơi” (Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu). Hay “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt” (Thu điếu – Nguyễn Khuyến). Trong bài “Chiều tối” của Hồ Chí Minh cũng có câu thơ: “Cô vân mạn mạn độ thiên không” (Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không).

Đa số hình ảnh mây xuất hiện trong thơ cổ đều mang vẻ đẹp phiêu diêu, tự do tự tại. Trong thơ Huy Cận, qua cảm nhận của một cái tôi mang nặng nỗi sầu nhân thế nên hình ảnh mây được thể hiện ở một góc độ mới mẻ. Với biện pháp đảo ngữ, cùng từ láy “lớp lớp” được đặt ở đầu gợi ra hình ảnh những đám mây chồng xếp lên nhau tạo thành núi mây. Núi mây ấy lại được ánh chiều dát bạc trắng lóa, bung nở thành núi bạc. Bức tranh thiên nhiên nhờ đó vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, không gian mở ra hết sức khoáng đạt. Có lẽ khi viết câu thơ này, Huy Cận ít nhiều chịu ảnh hưởng hai câu thơ của Đỗ Phủ trong bài “Cảm xúc mùa thu”:

“Lưng trời sóng dợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa”.

Vì thế, câu thơ của Huy Cận vừa có nét cổ điển vừa có nét hiện đại. Nhà thơ mở rộng bức tranh thiên nhiên bằng cách điểm thêm vào nền trời chiều hình ảnh cánh chim. Cánh chim cũng là hình ảnh quen thuộc trong thơ xưa, nó là tín hiệu thẩm mỹ báo hiệu hoàng hôn đã xuất hiện trong ca dao:

“Chim bay về núi tối rồi
Bạn không lo liệu, bạn ngồi rứa răng”.

Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng là hình ảnh:

“Chim hôm thoi thót về rừng
Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành”.

Trong bài Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan cũng có hình ảnh cánh chim chiều:

“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn”.

Hay hình ảnh cánh chim mỏi mệt trong bài “Chiều tối”của Hồ Chí Minh:

“Quyện điểu qui lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiên không”;

(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây lẻ trôi nhẹ giữa tầng không)

Huy Cận đã vận dụng thủ pháp lấy điểm tả diện, lấy không gian để gợi thời gian trong thơ cổ rất sáng tạo. Hình ảnh cánh chim giữa không gian mênh mông lúc chiều tà gợi một nỗi buồn hiu quạnh.

Nhà thơ còn làm mới thi liệu cũ bằng cách sử dụng những động từ và tính từ để cụ thể hóa hình ảnh cánh chim. Đấy là cánh chim “nghiêng”, nhỏ dần, nhỏ dần. Có cảm giác nó như phải chở cả bóng chiều đang sa xuống. Giữa bầu trời bao la, cánh chim trở nên nhỏ nhoi, côi cút vì bóng chiều đè nặng lên đôi cánh. Nhìn cảnh ấy, nhà thơ không khỏi cảm thấy chạnh lòng và càng cảm thấy cái tôi của mình trở nên nhỏ bé hơn, trĩu nặng hơn bởi nỗi “sầu vạn thuở” luôn có sẵn tự trong lòng Huy Cận. Trong hai câu thơ này, nhà thơ đã miêu tả rất thành công nỗi buồn thấm thía, sự khắc khoải của một cái tôi cô đơn trước không gian bao la, rộng lớn.

Cảm giác chới với, rợn ngợp trước vũ trụ bao la khiến nỗi nhớ quê tự đến trong lòng nhà thơ như một điều tất yếu:

“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

Nỗi nhớ quê được diễn tả qua hai từ mộc mạc “lòng quê” – tấm lòng của nhà thơ đối với quê hương, đất nước. Hai chữ ấy thật giản dị nhưng cũng rất chân thành, tha thiết bởi tình yêu quê hương là tình cảm truyền thống ngàn đời của dân tộc.

Sức hấp dẫn của câu thơ còn thể hiện ở nghệ thuật khắc họa nỗi nhớ quê. Từ láy “dợn dợn” gợi ra nhiều sắc thái ý nghĩa. Nó vừa gợi nên hình ảnh những con sóng nhấp nhô, xô đuổi nhau, vừa gợi đến những con sóng lòng của nỗi nhớ quê hương trào dâng trong lòng Huy Cận. Từ láy “dợn dợn” được đặt trong hệ thống từ láy toàn phần của cả bài thơ như “điệp điệp”, “song song”, “lớp lớp” đều góp phần thể hiện thế giới tâm hồn của nhà thơ. Nỗi nhớ quê trong thơ ông rất mênh mông, sâu sắc, nó được gợi lên qua chữ “vời”. Ấy là nỗi nhớ quê vời vợi, đau đáu giống như cảm giác của nàng Kiều khi lưu lạc nơi xứ người:

“Bốn phương mây trắng một màu
Trông vời cố quốc biết đâu là nhà”

(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Huy Cận cũng mang nỗi niềm tha hương ấy khi trông vời con nước mênh mông. Hai tác giả ở hai thời đại khác nhau, hai cách thể hiện khác nhau song vẫn có điểm gặp gỡ ở nỗi nhớ quê bởi:

“Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người”.

(Quê hương – Đỗ Trung Quân)

Khổ thơ kết lại bằng một câu thơ đầy ám ảnh: “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Câu thơ trên của Huy Cận gợi nhớ đến hai câu thơ nổi tiếng của Thôi Hiệu trong bài “Hoàng Hạc Lâu”

“Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”

(Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai)

Giữa hai thi nhân ở hai thời đại đã tìm thấy mối đồng cảm trong nỗi nhớ quê, tuy vậy cách thể hiện lại có sự khác biệt rõ rệt. Nỗi nhớ quê của Thôi Hiệu rất sâu sắc nhưng bình dị, thanh thản, ông hướng tới nơi mình sinh ra với cảm giác bình yên. Còn nỗi nhớ trong thơ Huy Cận cũng sâu sắc không kém nhưng nó lại mang cảm giác bất an, bất ổn trước hiện thực xã hội.

Thôi Hiệu trước tác động của ngoại cảnh mà thốt lên thành lời về nỗi nhớ quê, còn với Huy Cận nỗi buồn, nỗi nhớ đã có sẵn ở trong lòng, ngoại cảnh chỉ làm cho nỗi buồn, nỗi sầu ấy thêm da diết, nhất là khi nhà thơ luôn cảm thấy cô đơn, không tìm được nơi yên ổn, nơi nương tựa trong không gian địa lí, không gian xã hội cũng như không gian tinh thần, bởi một lẽ rất đơn giản ông đang sống trong cảnh xa quê, sống trong cảnh “thiếu quê hương” mang thân phận nô lệ của những người mất nước. Đó là căn nguyên sâu sa của của “nỗi buồn thế hệ” luôn thường trực trong thơ Huy Cận. Hai câu thơ cuối vừa hoàn chỉnh vừa kết lại cả tình và cảnh trong toàn bài thơ.

Bức tranh thiên nhiên rộng lớn, hùng vĩ, thơ mộng ở khổ thơ cuối ẩn chứa nỗi cô đơn, nỗi nhớ quê hương sâu đậm, thấm thía trong lòng nhà thơ.Nó cũng rất tiêu biểu cho phong cách thơ Huy Cận, nhà thơ của cảm thức không gian, của nỗi sầu nhân thế, thơ ông luôn có sự kết hợp hài hòa giữa chất cổ điển và hiện đại.

Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ cũng là bức tranh tâm trạng, nó góp phần làm rõ hơn tư tưởng, chủ đề của bài thơ. Đó là sự mênh mông, vô biên và sự quạnh hiu, hoang vắng tuyệt đối của không gian tràng giang cùng cảm giác cô đơn, bơ vơ, mất phương hướng của một cái tôi thơ Mới trước không gian, thời gian. Cảm xúc thiết tha trước tạo vật thiên nhiên và tình yêu giang sơn, Tổ Quốc mãi là một điểm nhấn đáng nhớ của bài thơ này. Vì thế Xuân Diệu mới khẳng định:“Tràng giang là bài thơ ca hát non sông, đất nước, do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn, tổ quốc”. Phải chăng bài thơ là tiếng nói chung cho tầng lớp thanh niên trong xã hội đương thời.

  • Kết bài:

Bài thơ “Tràng giang” bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cô đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lòng yêu nước thầm kín mà thiết tha. Bài thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển thể hiện trên nhiều phương diện: mỗi dòng 7 chữ ngắt nhịp đều đặn, mỗi khổ 4 dòng, tách ra như bài thơ tứ tuyệt và cách thức miêu tả thiên nhiên theo bút pháp hội họa cổ điển: một vài nét đơn sơ nhưng ghi được hồn tạo vật. Thủ pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc, kết hợp với sự trang nhã, thanh thoát từ hình ảnh, ngôn từ đã phủ một lớp mờ cổ điển vô cùng tuyệt diệu. Chất hiện đại của bài thơ thể hiện trong cách cảm nhận sự việc, tâm trạng bơ vơ, buồn bã phổ biến của cái tôi lãng mạn đương thời.

2 Trackbacks / Pingbacks

  1. Tình yêu Tiếng Việt của các nhà thơ trong phong trào Thơ mới - Theki.vn
  2. Tràng giang (Huy Cận) (Bài 2, Ngữ văn 11, tập 1, Kết Nối Tri Thức) - Theki.vn

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.