Cảm nhận vẻ đẹp tình đồng chí, đồng đội của người lính qua bài thơ “Đồng chí”
- Mở bài:
Nếu 7 câu thơ đầu, nhà thơ đi tìm cơ sở hình thành tình đồng chí thì mười câu thơ tiếp theo diễn tả những biểu cụ thể vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội của người lính. “Đồng chí” đó là sự cảm thông sâu xa những tâm tư, nỗi lòng thầm kín của nhau:
“Ruộng nương anh gửi bạn cày
Gian nhà không mặc kệ gió lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra linh”.
- Thân bài:
Vẻ đẹp tình đồng chí, đồng đội thể hiện qua tình cảm gắn bó, sẻ chia của người lính trong đời sống và chiến đấu. Đó là tình tri kỷ, hiểu ban như hiểu mình và còn vì mình là người trong cuộc, người cùng cảnh ngộ. Với người nông dân, ruộng nương, căn nhà là cả cơ nghiệp, là ước mơ ngàn đời của họ; họ luôn gắn bó, giữ gìn và chắt bóp cho những gì mình có. Vậy mà họ đã gác lại tất cả để ra đi đánh giặc. Câu thơ “Gian không, mặc kệ gió lung lay” hết sức tạo hình và biểu cảm. Để cả cơ nghiệp của mình hoang trống mà ra đi biết người thân ở lại trống trải nhưng cũng “mặc kệ” thì đó quả là sự hy sinh lớn lao và đó cũng là quyết ra đi mà không dửng dưng vô tình với người thân, quê hương, đất nước.
Các anh hiểu rõ lòng nhau và còn hiểu rõ nỗi niềm người thân của nhau ở hậu phương: “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”,“Giếng nước”, “gốc da” là hình ảnh hoán dụ gợi về quê hương, về người thân nơi hậu phương của người lính. Như vậy, câu thơ nói quê hương nhớ người lính mà thực chất là người lính nhớ nhà, nỗi nhớ hai chiều ngày càng da diết. Vậy là người lính đã chia sẻ với nhau mọi tâm tư, nỗi niềm, chia sẻ cả những chuyên thầm kín, riêng tư nhất. Họ cùng sống với nhau trong kỷ niệm, trong nỗi nhớ và vượt lên trên nỗi nhớ.
- Cơ sở tạo nên tình đồng chí ở bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu
- So sánh hình tượng trăng trong “Đồng chí” (Chính Hữu) và “Ánh Trăng” (Nguyễn Duy)
- So sánh hình ảnh người lính ở bài thơ “Đồng chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”
- Đóng vai người lính trong bài thơ “Đồng chí” kể lại những ngày chiến đấu gian khổ ở nơi rừng núi
Không chỉ chia sẻ cùng nhau những niềm vui, nỗi buồn hay các câu chuyện tâm tình nơi quê nhà mà họ còn chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính nơi rừng núi: “sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Họ đã nhìn thấu và thương nhau từ những chi tiết nhỏ của đời sống, cùng chịu bệnh tật và những cơn sốt rét rừng ghê gớm mà hầu như người lính nào cũng phải trải qua. Họ cùng thiếu, cùng rách và từng bước vượt qua hoàn cảnh. Đây là hoàn cảnh chung của bỏ đối ta trong những năm dấu kháng chiến chống Pháp.
Những hình ảnh thơ được đưa ra rất chân thực nhưng cô động và gợi cảm biết bao, có tác dụng diễn ta sâu sắc sư gắn bó đồng cam cộng khổ của các anh, giúp vượt qua mọi thiếu thốn, gian truân, cực nhọc của đời lính.
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày”
Tác giả đã xây dựng những cặp câu sóng đôi, đối ứng nhau (trong từng cặp câu và từng câu). Đáng chú ý là người lính bao giờ cũng nhìn bạn, nói về bạn trước khi nói về mình. Chữ “anh” bao giờ cũng xuất hiện trước chữ “tôi”. Cách nói ấy phải chăng thể hiện nét đẹp trong tình cảm thương người như thể thương thân, trọng người hơn trọng mình. Chính tình đồng đội đã làm ấm lòng những người lính để họ vẫn cười trong buốt giá và vượt lên trên buốt giá.
Họ quên mình đi để động viên nhau, vun vén cho nhau hơi ấm: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Đây là mốt cử chỉ rất cảm động chứa chan tình cảm chân thành. Nó không phải cái bắt tay thông thường mà là hai bàn tay tự tìm đến với nhau, truyền cho nhau hoi ấm để vượt lên buốt giá, những bàn tay như biết nói. Và đó không phải sự gắn bó bất chợt mà là sự gắn bó trong chiến đấu, đồng cam cộng khổ khiến tình đồng chí thêm sâu dày để đi tói chiều cao: cùng sống chết cho lý tưởng:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo”
Đối lập với hiện thực khắc nghiệt của những đêm dài lạnh giá nơi “rừng hoang sương muối” là những người lính đứng cạnh bên nhau chờ giặc tói trong cái nơi mà sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc. Họ luôn đứng cạnh nhau, sẵn sàng chiến đấu. Hiện thực khốc liệt không giết chết tâm hồn họ mà ngược lại, họ vẫn luôn lạc quan, yêu đời, tin tưởng hướng về tương lai. Từ “chờ” cũng đã nói rõ cái tư thế. Cái tinh thần chủ động đánh giặc của họ. Rõ ràng khi những người lính đứng cạnh bên nhau vững chãi thì cái gian khổ, ác liệt của cuộc chiến bị mờ đi. Tầm vóc của những người lính bỗng trở nên lán lao anh hùng. Sức mạnh của tình đồng chí lại càng nổi bật.
Vầng trăng đêm rừng tiếp thêm cho họ sức mạnh, khơi bùng khát khao chiến đấu và chiến thắng. Trong suốt cuộc kháng chiến trường kỳ đầy gian lao vất vả ấy, tình cảm đồng chí đã đi vào chiều sâu của sự sống và tâm hồn người chiến sĩ để trở thành những kỷ niệm không bao giờ quên.
Rõ ràng, tình cảm đồng chí ấm áp, thiêng liêng đã mang đến cho người lính nét lãng mạn, cảm hứng thi sĩ trong hiện thực đầy khắc nghiệt qua hình ảnh “Đầu súng trăng treo”. Bốn chữ “Đầu súng trăng treo” làm nhịp thơ đột ngột thay đổi, dồn nén, chắc gọn, gây sự chú ý cho người đọc. Trong đêm phục kích giặc, người chiến sĩ bỗng phát hiện mũi súng như treo một vầng trăng.
Từ “treo” đã tạo nên một mối quan hệ bất ngờ độc đáo, nối liền mặt đất vói bầu tròi, gợi những liên tưởng thú vị vừa hiện thực lại vừa lãng mạn. Hiện thực vì đêm khuya trăng trên vòm trời cao đã sà xuống thấp dần. Ở vào một vị trí và tầm nhìn nào đó, vầng trăng như treo trên đầu mũi súng của người chiến sĩ đang phục kích chở giặc. Lãng mạn vì trong hoàn cảnh hết sức gian khổ khốc liệt: đêm đông giá lạnh, rừng hoang sương muối, cái chết cận kề, tâm hồn nhậy cảm của người chiến sĩ vẫn tìm thấy chất thơ bay bổng trong vẻ đẹp bất ngờ của trăng.
Nếu “súng” là biểu tượng của chiến đấu thì “trăng” là biểu tượng của cái đẹp, cho niềm vui lạc quan, cho sự bình yên của cuộc sống; súng và trăng là hư và thực, là chiến sĩ và thi sĩ. Đây là “một cặp đồng chí” tô đậm vẻ đẹp của những cặp đồng chí đang đứng cạnh bên nhau. Chính tình đồng chí đã làm cho người chiến sĩ cảm thấy cuộc đòi vẫn đẹp, vẫn thơ mộng, tạo cho họ sức mạnh chiến đấu và chiến thắng.
Hiếm thấy một hình tượng thơ nào vừa đẹp vừa mang đầy ý nghĩa như “Đầu súng trăng treo”. Đây là một sáng tạo đầy bất ngờ góp phần nâng cao giá trị bài thơ, tạo được những dư vang sâu lắng trong lòng người đọc.
- Kết bài:
Vẻ đẹp tình đồng chí, đồng đội trong bài thơ “Đồng chí là tình cảm sâu sắc chân thành của những con người gắn bó keo sơn trong cuộc chiến đấu vĩ đại vì một lý tưởng chung nhất, với một tinh thần chung nhất. Bài thơ thơ không chỉ nói lên tình cảm gần bó sâu năng của những người lính mà còn thể hiện sức manh của tình cảm ấy. “Đồng chí’ không rực rỡ chiến công mà rực rỡ tình đồng đội ấm nồng khiến họ có thể sống và làm nên bao chiến công hiển hách.