cam-nhan-ve-dep-tinh-nguoi-truyen-ngan-vo-nhat-kim-lan

Cảm nhận vẻ đẹp tình người trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân

Cảm nhận vẻ đẹp tình người trong truyện ngắn “Vợ nhặt” (Kim Lân)

  • Mở bài:

Truyện ngắn “Vợ nhặt” được xây dựng trên bối cảnh đời sống nói trên đã tái hiện chân thực nạn đói năm 1945. Từ bối cảnh đó, tác giả đi sâu miêu tả đời sống nhân dân nước ta. Những kiếp người bần cùng, khổ cực đang ngày đêm mong chờ, khát khao ánh sáng Cách Mạng. Rực sáng lên trong tác phẩm là vẻ đẹp tình người; trong đói khổ, thậm chí là kề cận bên cái chết, người ta vẫn cưu mang nhau.

  • Thân bài:

Bối cảnh câu chuyện vô cùng ảm đạm. Dưới sự thống trị của thực dân Pháp và Nhật, năm 1945, hơn 2 triệu người dân Việt Nam đã bị chết đói. Sự kiện bi thảm này đã được đề cập tới trong nhiều tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ như: Tô Hoài, Nam Cao, Nguyên Hồng,… Ngay sau sự kiện ấy, nhà văn Kim Lân đã viết tập truyền dài có nhan đề truyện “Xóm ngụ cư”.

“Xóm ngụ cư’’ – nơi tập trung của những con người đói nghèo phải rời bỏ quê hương, đi tha phương cầu thực, mong tìm được miếng cơm manh áo là tiền thân của tác phẩm Vợ nhặt. Với nhan đề độc đáo này, Kim Lân đã gợi được sự quan tâm, chú ý của người đọc, đồng thời cũng làm nổi bật rõ được tư tưởng, chủ đề của truyện ngắn. Ở đây, từ “nhặt” vốn là một động từ đã được nhà văn sử dụng như một tính từ.

Chỉ qua nhan đề “Vợ nhặt” thôi, Kim Lân cũng nói lên được việc bế tắc, đen tối của xã hội và thân phận rẻ rúm của con người. Xưa nay, việc dựng vợ gả chồng là công việc của cả đời người. Thế nhưng vào thời điểm này, người ta có thể dễ dàng “nhặt” vợ, giống như là nhặt cái rơm cọng rác bên đường vậy.

Nhà văn Kim Lân đã sáng tạo được một tình huống truyện độc đáo, mới lạ. Đó là tình huống nhân vật Tràng (con trai bà cụ Tứ) lấy vợ hay nói đúng hơn là nhặt được vợ: “giữa cái cảnh đói sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều, người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa”. Việc dựng vợ gả chồng là một quy luật bình thường của cuộc sống con người. Nhưng đặt vào bối cảnh của Tràng thì lại là một chuyện lạ đời. Bởi lẽ Tràng là một anh nông dân nghèo, xấu trai, lại là dân ngụ cư. Nạn đói đang hoành hành dữ dội, người chết đầy đường đầy chợ. Trong khốn khó con người còn có thể nghĩ về nhau. Có lẽ chính tình huống truyện đặc sắc như trên đây đã giải thích vì sao nhà văn Kim Lân lại lấy nhan đề là “Vợ nhặt”. Qua cái nhan đề này, tác giả không chỉ nói lên là sự đen tối của xã hội cũ mà còn gợi lên được rất nhiều về hoàn cảnh, số phận người nông dân trong tác phẩm.

Tràng là nhân vật chính của truyện. Ngay từ đầu tác phẩm, tác giả Kim Lân đã dựng được bức tranh ảm đạm của làng quê Việt Nam vào thời kì đói kém. Từng đoàn người lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên thành phố. Những bóng dáng xanh xám như những bóng ma. Hoặc là nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Người chết đói như ngả rạ. Nhiều đến nỗi cứ đi làm đồng về, người ta lại bắt gặp ba, bốn cái thây nằm cong queo bên đường. Tiếng quạ gào lên từng hồi “thê thiết”. Không khí vẫn lên mùi khen khét của đống rấm, mùi thối của rác rưởi và mùi gây gây của xác người…

Có thể nói vào thời điểm đó, không ai là không nghĩ đến cái chết. Ngay cả lũ trẻ con thường ngày vốn nghịch ngợ vô tư, giờ cũng ủ rũ không buồn nhúc nhích. Một hớp cháo cám nhạt cầm hơi lúc này cũng là niềm ước ao của chúng. Cuộc sống “tối sầm” lại vì đói khát và chết chóc. Cảnh trần gian mà cứ ngỡ như chốn địa ngục tối tăm.

Trong hoàn cảnh túng đói ngặt nghèo đấy, tình yêu, hạnh phúc cũng trở nên đượm màu chua chát, xót xa. Như anh Tràng – một thanh niên nhà nghèo xấu xí thậm chí còn có vẻ ngoài ngờ nghệch, dở hơi mà còn “nhặt” được vợ. Mà đúng là “nhặt được thật”. Anh hỏi vợ bằng mấy lời chọc ghẹo, bông đùa vu vơ. Bốn bát bánh đúc thay cho lễ cưới đơn sơ đến chua chát. Thế là Tràng được vợ. Quả thực, trong nạn đói, giá trị con người quá ư rẻ rúng.

Ngày anh Tràng có vợ không bình thường nên buồn hay nên vui? Cảnh bửa cơm ngày đói đón nàng dâu mới thật thảm hại, tội nghiệp. Ai cũng thấy ngượng ngùng . Đuốc tân hôn, của đôi vợ chồng trẻ là ngọn đèn dầu yếu ớt. Cả nồi chè khoán (không phải nhà nào cũng có) của cụ bà Tứ trong thật tội nghiệp. Tràng ăn thấy đắng ngắt và nghẹn ứ trong cổ,…

Toàn những chi tiết cười ra nước mắt của một cảnh túng đói đến sâu sắc tội ác của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật. Mặc dù trong suốt cả truyện ngắn, đã không hề thấy bóng dáng của một tên thực dân hay phát xít nào. Thế nhưng tội ác của chúng vẫn hiện lên rất rõ nét.

Việc lấy vợ của Tràng lại trở thành một sự kiện lớn của xóm ngụ cư nghèo. Tràng lấy vợ vào thời điểm khó khăn, cùng quẫn nhất. Khi mà người ta không biết có thể qua nổi cơn đói kém này không thì anh lại lấy vợ. Cái anh nông dân nghèo, xấu xí, dở hơi, lại là dân ngụ cư ấy lại lấy được vợ. Xóm ngụ cư chưa hết ngạc nhiên thì lại xót xa cho đôi vợ chồng trẻ ấy. Một cuộc gắn kết thầm lặng khiến ai cũng thấy ngâm ngùi, không biết nói gì hơn.

Qua “Vợ nhặt”, nhà văn đã tái hiện sâu sắc, chân thực xã hội Việt Nam vào thời kì đen tối, cùng quẫn nhất. Toàn bộ cuộc sống nghèo khổ, bế tắc của những người nông dân bị dồn đến bước đừng cùng, không có lối thoát được dụng lại sinh động hết sức. Ngay từ đầu tác phẩm, tác giả đã hắt vào truyện thứ ánh sáng của hoàng hôn xám xịt. Theo bước chân Tràng từ phố chợ đến miền quê. Người chết rải rác nằm cong queo bên lề đường. Người sống thì đi lại dật dờ, mặt mày xanh xám như những bóng ma. Những đứa trẻ của xóm ngụ cư ngồi ủ rũ ở những xó đường không buồn nhúc nhích. Không khí vấy lên mùi ẩm thối. Trên cây gạo đầu làng tiếng quạ gào lên từng hồi thê thiết. Cả một vùng như biến thành bãi tha ma trong không gian đầy mùi tử thi. Một cõi dương có hơi ám cõi âm.

Thời gian và không gian nghệ thuật là một tín hiệu thẩm mĩ đặc sắc. Nó báo rằng đó là thời điểm con người đang đứng ở ranh giới giữa ánh sáng với bóng tối, giữa trần gian với địa ngục. Cả dân tộc đang đứng trước hoàng hôn của cuộc đời, đứng mấp mé bên bờ vực thẳm. Điều đó cho thấy sự tàn phá ghê gớm của nạn đói, một hiện thực thê thảm.

Trong hoàn cảnh ấy, thân phận con người thật là bèo bọt. Người đàn bà Tràng gặp ngoài kho thóc quần áo rách tả tơi, thân hình gầy sọp vì đói. Người đàn bà này theo không Tràng mà chẳng còn chút sĩ diện, danh dự. Đó là một sự thật, một hiện thực mỉa mai, cay đắng mà cũng đầy xót xa. Thân phận con người chẳng khác gì cỏ rác. Mẹ con Tràng chỉ còn cháo cám cầm hơi. Nhà cửa chẳng khác gì gia cảnh của chị Dậu (Tắt đèn – Ngô Tất Tố). Họ đứng trước tương lai mờ mịt, nạn đói đang đe dọa đến sinh mạng. Đó là hiện thực về thân phận bọt bèo, hẩm hiu của người lao động trước Cách mạng. Theo bước chân Tràng, truyện mở ra một hiện thực thê thảm. Đó là một thế giới điêu tàn xác xơ vì sự phá hoại của nạn đói. Số phận cả dân tộc thật hắt hiu, buồn não.

Truyện ngắn “Vợ nhặt” còn mang một giá trị nhân đạo sâu sắc. Trong tác phẩm này, Kim Lân đã nói lên được nổi khổ của người dân lao động. Ông bày tỏ nổi niềm đồng cảm, chia sẻ với họ. Nhưng điều đáng quý nhất ở đây là nhà văn vẫn thấy trong những con người đáng thương ấy vẫn có đời sống tâm hồn phong phú, những phẩm chất tốt đẹp. Họ vẫn yêu thương, đùm bọc nhau trong cơn hoạn nạn. Giữa lúc khó khăn, đói kém nhất, việc anh Tràng cưu mang và nhận một cô gái về làm vợ. Trong khi cô gái có hoàn cảnh quần áo rách tả tơi, mặt gầy xọp hẳn đi vì đó. Đó là một cử chỉ cao thượng, hào hiệp, không phải ai cũng làm được.

Như vậy, chuyện thành vợ thành chồng của họ rõ ràng không phải là chuyện tầm phào mà là có tình có nghĩa. Nó đã làm thay đổi toàn bộ cuộc sống của Tràng, của gia đình anh. Hình như có một cái gì đó thức dậy trong tâm hồn Tràng: “Hẳn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt sáng lên lấp lánh”. Lần đầu tiên anh cảm thấy niềm hạnh phúc của cuộc đời. Một cái gì mới mẻ, lạ lẫm, chưa từng thấy ở người nông dân nghèo khổ ấy. Nó “ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng”.

Và điều ấy lớn hơn, mạnh hơn với sự đói khổ. Nó giúp cho người ta vượt lên trên những khó khăn, cơ cực đang rình rập, chờ đón của cuộc sống nhưng cũng hứa hẹn biết bao. Điều ấy giúp Tràng có thêm sức mạnh để quên đi hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày. Giúp anh quên cả đói khát ghê gớm đang đe dọa để mà vui, hi vọng.

  • Kết bài:

Như vậy, cho dù luôn bị cái chết rình rập, đe dọa, phải sống như loài vật nhưng nó không thể dập tắt được cái phần rất con người ở Tràng, ở bà cụ Tứ cũng như người “Vợ nhặt”. Họ vẫn hướng tới tương lai, khát khao hạnh phúc của cuộc sống gia đình. Phát hiện, trân trọng và đề cao vẻ đẹp tình người trong nghịch cảnh khắc nghiệt có lẽ là điểm nổi bậc của nhà văn, cái làm nên giá trị phi thường trong tác phẩm này.


Tham khảo:

Cảm nhận vẻ đẹp tình người trong truyện ngắn “Vợ nhặt” (Kim Lân)

Nam Cao trong tác phẩm “Đời thừa” từng nói rằng: Một tác phẩm thật giá trị phải vượt lên trên bờ cõi và giới hạn, nó phải là tác phẩm chung cho loài người, nó phải chứa một cái gì đó lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó phải ca ngợi tình thương, sự công bằng, tình bác ái.. nó phải khiến người gần người hơn. Quả thật, đối tượng phản ánh ngàn đời của văn học là con người, và dẫu cho hành trình của văn học có là hành trình băng xuyên qua những nỗi đau thì đích đến cuối cùng vẫn hướng con người đến miền sáng trong, đến hạnh phúc vững bền giữa thời cuộc. Đó đã là bản chất của văn học chân chính, là sứ mệnh của người cầm bút.

Nhà viết kịch, tiểu thuyết gia người Thổ Nhĩ Kỳ từng nói: Con hãy lắng nghe nỗi buồn của cành cây héo khô, của chim muông què quặt, của hành tinh lạnh ngắt, nhưng trước hết con hãy lắng nghe nỗi buồn của con người. Ngênh ngang mà đi vào đời sống văn học, những giọt nước mắt xót xa, những vết cắt rỉ máu, những tiếng nỉ non âm vang vẫn được nghệ thuật trao tặng cho vẻ đẹp riêng biệt và trở thành khúc hát muôn đời về quyền sống của con người. Xuất hiện trong văn học, con người hiện lên không chỉ mỗi hình tượng hoàn hảo, được tô nặn tỉ mĩ kì công mà đó còn là vết nứt khó lòng che đậy. Và người nghệ sĩ chân chính phải là người “đứng trong lao khổ đón mọi vang động ở đời”. Nạn đói khủng khiếp năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân-một nhà văn hiện thực có thể xem là “con đẻ” của nông thôn đồng ruộng Việt Nam. Ngay sau cách mạng ông đã bắt tay vào viết tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”. Khi hòa bình lặp lại, nổi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy.

Ở truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân là đem vào tác phẩm một cái nhìn mới, một khám phá mới, đó là vẻ đẹp của tình người và khát vọng cao đẹp hướng về tương lai của những nông dân nghèo như Tràng, người vợ nhặt hay bà cụ Tứ. Tố Hữu từng nói: Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi đến của văn chương. Nghệ thuật chỉ là nghệ thuật khi nó gắn liền với cuộc đời, hút lấy chất mật từ mảnh đất màu mỡ ấy để làm giàu cho trang viết. Cốt cách ngàn đời của văn học chân chính là để tôn vinh con người. Chúng ta sẽ gửi, lưu giữ trong ngăn kéo của nhân loại những tác phẩm nâng đỡ con người lên bằng tình yêu thương và niềm tin tưởng của người viết. Một tác phẩm văn học có thể nói về núi sông cây cỏ, ca ngợi vẻ đẹp của những áng mây hay bầu trời.

Nhưng một tác phẩm được coi là chân chính khi người nghệ sĩ biết lấy núi sông cây cỏ kia làm đẹp cho không gian sống của con người, lấy trái tim yêu thương của mình để nâng đỡ cuộc sống. Người ta nói cái hồn dân tộc được khắc lại bằng con chữ dọc theo sống lưng của những tác phẩm, những tác phẩm hãy kể cho ta nghe về câu chuyện sống lại của nàng ta Ca-chiu-sa, cả về những nỗi đau thương của Ruồi Trâu, đưa ta đi phá tan lời nguyền cùng với Jane Eyre, đưa ta giương buồm ra khơi cùng Hag Belly… mỗi một tác phẩm mở ra một thế giới, một thời đại, cốt để bồi đắp cho sự phong phú cho tâm hồn, làm giàu thêm tình yêu với cuộc sống bằng “những hình thức nghệ thuật độc đáo”.

Đó là tài năng cùng tâm huyết của người nghệ sĩ, họ đem hết trái tim, linh hồn thậm chí là bầu máu nóng để cảm nhận cuộc đời, để hiểu đời sống xã hội của thời đại, đã cảm thấy sâu sắc mọi chuyển động với nỗi lo âu, bực bội, tha thiết của con người trong thời đại. Để linh hồn mình nhập và linh hồn của tác phẩm, mở ra một thế giới sinh động hấp dẫn, mang dáng dấp, hơi thở của thời đại. Ta thấy “Những người khốn khổ” của Victor Huy-Go, vượt qua sự che phủ của thời gian để cho người đọc biết rằng bao nhiêu con người khốn cùng kia đang kêu đòi một cuộc sống tốt đẹp hơn, dù khốn khổ nhưng họ vẫn khát khao được sống lương thiện, cứu giúp người khác. Chẳng phải V.Huy-Go đã nâng con người lên khỏi những nghèo đói tối tăm để thắp sáng cho họ tình yêu cao cả sao?

Đến với văn học phương Đông, ta đau cùng thánh thơ Đỗ Phủ nỗi đau trong “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá”. Tuy có nỗi đau cho riêng mình vì nhà mình bị gió thu tốc mái, mình cùng vợ con phải chịu cảnh mưa lạnh suốt đêm trường nhưng trên tất cả là nỗi đau vì người khác. Nhà thơ dân đen ấy từ nỗi đau riêng đau niềm đau chung. Và chính trái tim đồng cảm vĩ đại này đã làm nên ao ước vĩ đại mà ngàn đời trân trọng: Ước có ngôi nhà chắc chắn ngàn vạn gian để không chỉ riêng ta mà tất cả người dân đều không phải chịu cảnh đói rét. Mang hình thức tự sự của một câu chữ nhưng quả là một sáng tạo độc đáo trong sự tôn vinh đến tột bậc vẻ đẹp của lòng vị tha, của tinh thần nhân đạo trong trái tim người viết trong cuộc sống con người. Vậy tại sao tác phẩm văn chương chân chính phải tôn vinh con người mà không phải điều gì khác? Tại sao phải thông qua hình thức nghệ thuật độc đáo mà không phải cách biểu đạt hời hợt, giản đơn?

Nguyễn Văn Siêu từng nói: “Văn chương có loại đáng thờ và loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chuyên chú ở Văn Chương. Loại đáng thờ là loại chuyên chú ở con người”. Bởi con người là đối tượng phản ánh ngàn đời của văn học, nếu văn học không miêu tả con người, thì nó cũng sáo rỗng, vô nghĩa, phải chăng chỉ là xác chữ nằm thẳng đơ trên trang giấy. Ở con người tồn tại đời sống tinh thần phong phú, với mọi cung bậc cảm xúc, những tiếng đau đớn, tủi hờn, đau khổ, niềm hân hoan. Những hình thái ấy được khắc chạm vào trang viết đầy chân thật, sống động, và tác phẩm không còn đơn thuần là tác phẩm, nó đã trở thành cánh cửa khép mở thế giới, để con người hiểu con người hơn. Và tác phẩm văn học khác với những hình thức nghệ thuật khác bởi tính thẩm mỹ. Văn học vận động dựa trên quy luật của cái đẹp, nên con người trong văn học cũng phải gắn liền với cái đẹp. Một bài thơ, một tiểu thuyết có hàng trăm cách diễn đạt, một tình huống nhưng có hàng ngàn lát cắt được khai phá. Và tuyệt nhiên, không tìm ra sự gặp lại hay nhàm chán trong phong cách sáng tác của người nghệ sỹ

Nguyễn Du – người đã tạo ra kiệt tác truyện Kiều, nâng con người lên khỏi những ràng buộc khắt khe của lễ giáo phong kiến, khỏi những dây trói vô hình đang ngăn cản con người vượt qua để đến với tình yêu. Đặc biệt làm cho con người vượt qua lao khổ để làm chói ngời trên trang văn vẻ đẹp của chữ tình, chữ nghĩa, chữ hiếu, chữ nhân vẻ đẹp của một trái tim nhân đạo lớn, của một nghệ sĩ lớn. Mộng Liên Đường chủ nhân đã nhận xét: Nếu không có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời thì tài nào có được bút lực ấy. Tài năng của Nguyễn Du không phải chỉ là tả tuyệt đẹp cảnh gió trăng mây núi, cũng không phải ở chỗ phản ánh chân thực những nỗi đau đứt ruột của con người trong cõi trần ai gió bụi mà là yêu thương, sẽ chia, đồng cảm đồng tình, trân trọng, nâng đỡ, làm đẹp thêm cho tấm lòng Kiều, cho Kim Trọng cho Từ Hải… cho con người nói chung

. Giá trị vĩnh cửu của tác phẩm nghệ thuật chân chính này có cội nguồn từ hình tượng được xây nên từ bàn tay nghệ sĩ bậc thầy và tấm lòng nhân đạo lớn của Nguyễn Du. Đó chính là cốt cách, phẩm chất hương vị toả ngát của truyện Kiều còn nghìn thu vọng mãi, tiếng thơ Nguyễn Du mãi là tiếng thương, mãi còn động đất trời. Trở lại với truyện ngắn Vợ nhặt, ẩn trong nét bút đôn hậu thuần nông chất phát là cả một tấm lòng yêu thương vô hạn với con người. Kim Lân với cách xây dựng tình huống truyện éo le, độc đáo, tình huống xuất hiện ngay trên nhan đề “Vợ nhặt”. Một hiện thực tối tăm, hoàn cảnh khốn khó đến mức số phận con người bị rẻ rúng như cọng rơm cây cỏ, bởi thế mới có chuyện Tràng nhặt vợ.

Chuyện Tràng có vợ nhỏ là một bất ngờ lớn với hết thảy mọi người, với bà cụ Tứ với chính bản thân Tràng với mọi độc giả. Có ai ngờ một anh nông dân có phần dở hơi, lại nghèo khổ như thế lại có vợ một cách dễ dàng đến vậy! Nhưng éo le thay Tràng lại lấy vợ vào lúc người ta không thể sống qua ngày vì đói khát. Tràng lấy vợ mà không có lễ ăn hỏi, đón dâu. Tất cả những gì đọng lại trong lòng độc giả về đám cưới đó chỉ là hình ảnh đôi bạn trẻ đi bên nhau lặng lẽ trong một buổi hoàng hôn đầy không khí chết chóc. Éo le bởi chỉ trong hoàn cảnh đó Tràng mới lấy được vợ. Éo le bởi đó là một cuộc hôn nhân không xuất phát từ tình yêu mà được bắt nguồn từ bản năng sống, khát vọng được sống thôi thúc con người ta phải hướng với nhau, bấu víu vào nhau.

Tuy nhiên, cuộc hôn nhân đó cũng cho thấy tình thương con người với con người, thấy được tình yêu cuộc sống của những số phận nhỏ nhoi. “Đám cưới” nhỏ nhoi ấy đã làm thay đổi những người trong gia đình Tràng và cả Tràng. Sáng hôm sau tỉnh dậy, Tràng lần đầu cảm nhận được tình yêu trong gia đình, sự gắn bó với tất thành viên, niềm hạnh phúc giản dị mà lớn lao. Vậy đấy, trong nhiều điều mang tên hạnh phúc, có những điều thật bình dị nhưng ấm áp. Không những thế, khi Tràng cho Thị theo về, chấp nhận Thị làm vợ tức là lúc anh đã biết dang rộng vòng tay yêu thương để đón lấy những kiếp đời khốn khổ hơn mình. Đó chẳng phải là một cách tôn vinh con người hay sao?

Còn Thị-nhân vật có vai trò rất quan trọng đối với thiên truyện, cũng được Kim Lân khắc họa bằng những hình thức nghệ thuật rất độc đáo. Thị xuất hiện trong tư thế đang “vân vê tà áo rách như tổ đỉa” với một khuôn mặt lưỡi cày xám xịt và hình dạng gầy sộp vì đói khát. Tính cách, số phận con người ấy dần được hé lộ thông qua cái nhìn của Tràng, và cụ Tứ, những sự kiện diễn ra theo trình tự thời gian. Thị là một người phụ nữ vô danh, không tên tuổi, không quê hương bản quán, không gia đình, hoàn cảnh éo le của cuộc sống đã đẩy thị đến bước đường cùng đói khát. Và vì tình yêu cuộc sống mãnh liệt, bản năng ham sống thị cần tìm cho mình một chỗ dựa. Rồi thị đã bán rẻ cả chút sĩ diện của một con người để bấu víu vào Tràng, liều mình làm dâu nhà người chỉ với bốn bát bánh đúc rẻ mạt.

Hôn nhân là chuyện hệ trọng của đời người, với một người con gái thì nó càng có ý nghĩa quan trọng hơn. Thế nhưng thật trớ trêu thay, đám cưới của Thị đã được cử hành với hai lần gặp gỡ, vài câu bông đùa. Có lẽ đằng sau vẻ “chao chát, chỏng lỏng” kia là bao nỗi niềm chua xót giấu kín. Rồi khi về nhà Tràng, thấy gia cảnh anh cũng nghèo khổ, túng quẫn, Thị bỗng “nén một tiếng thở dài”. Trong căn nhà Tràng không khí bỗng trở nên trùng xuống. Giống như một chuyện đùa nhưng họ đã thực sự bước vào cuộc hôn nhân nghiêm túc. Bây giờ mỗi người theo đuổi một ý nghĩ riêng. Hẳn sẽ có niềm vui nhen nhóm nhưng không biết có sự ân hận, nuối tiếc nào chăng? Và thật bất ngờ, sáng hôm sau thị đã thay đổi hoàn toàn, không còn vẻ “chao chát, chỏng lỏng” nữa, thị trở về đúng nghĩa một người vợ hiền dâu thảo, thực hiện thiên chức của một người phụ nữ trong gia đình: Vun vén việc nhà.

Thị cũng chính là sợi dây gắn kết Tràng và bà cụ Tứ để tình cảm gia đình gắn bó, là người nhóm lên trong hai mẹ con bà cụ Tứ niềm tin vào tương lai tốt đẹp hơn khi nhắc đến chuyện phá kho thóc Nhật ở mạn Thái Nguyên, Bắc Giang. Có thể nói thị chưa thể là hình tượng tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam, nhưng trong con người ấy thấp thoáng bóng dáng họ. Kim Lân đã bộc lộ rất rõ ngòi bút nhân đạo của mình khi khám phá ra vẻ đẹp khuất lấp của tâm hồn con người, nâng niu trân trọng nó, đặt niềm tin vào sự vươn dậy của ý thức, nhân phẩm trong con người. Có lẽ đó chính là một hình thức tôn vinh con người đơn giản, trung thực mà đáng trân trọng.

Nếu như tính cách, số phận của thị được bộc lộ thông qua tình huống truyện độc đáo và sự phân xét đánh giá của Tràng và cụ Tứ thì vẻ đẹp tâm hồn bà cụ Tứ lại hiện lên nhờ vào nghệ thuật miêu tả tâm lí sắc sảo của Kim Lân. Bà cụ Tứ xuất hiện khi đang trở về nhà với dáng đi lầm lũi âm thầm, cái dáng đi như hằn in cả cuộc đời lam lũ cơ cực của một số phận bé mọn khi sống giữa đêm đen nô lệ. Người mẹ nghèo khổ ấy không thể đoán được có chuyện gì đang diễn ra trong nhà mà con trai hôm nay lại khác lạ thế. Rồi khi lật đật bước vào nhà, bà đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Cuối cùng bà cũng hiểu ra mọi chuyện, khoảnh khắc ngắn ngủi ấy như kéo dài ra bởi những giông tố đang chất chứa trong lòng bà cụ, bởi sự đợi chờ trong lo lắng hồi hộp của đôi trẻ mới nên duyên mà chưa có sự đồng ý của người mẹ, là khi bà lão cúi đầu nhìn lại thì chính là “lúc lòng người mẹ nghèo khổ ấy hiểu ra biết bao nhiêu là cơ sự”. Cái cúi đầu xót thương cho cả cuộc đời để những đắng cay mặn mòi nước mắt của chính bà, xót xa cho số phận con trai và thương xót cho cả người con gái đang ngồi trước mặt bà. Bà thiết nghĩ “người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ”. Và thật xúc động, bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng: Thôi, chúng máy đã phải duyên phải kiếp với nhau thì u cũng mừng lòng.

Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé trước vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải là một vật cản lớn. Đói rét thật nhưng trong lòng bà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà thương con, thương dâu và thương cho chính bản thân mình. Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không ngừng bùng cháy lên ngọn lửa của tình người. Bà đang giang tay đón nhận đứa con dâu lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính ở người mẹ nghèo khổ ấy, ngọn lửa của tình người, tình thương yêu nhân loại bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con mình niềm tin về cuộc sống. Bà nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi vịêc sinh con đẻ cái, bà lão nói toàn chuyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm hại. Bà đã đón nhận hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình.

Đặc biệt chi tiết nồi cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người. Nồi chè cám nghẹn cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu thương. Bà lão “lễ mễ” bưng nồi chề và vui vẻ giới thiệu “Chè khoán đấy. Ngon đáo để cơ”. Ở đây nụ cười đan xen lẫn ngước mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cúôi thiên truyện không khỏi làm chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa một sự cảm phục lớn lao ở những con người bình thường mà đáng quý.

Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong đề tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của vẻ đẹp tình người thật thành công ở ba nhân vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất ở nhưng thân phận đói nghèo, thảm hại kia. Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điếm sáng mà Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề tài tâm lý nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân-một nhà văn được đánh giá là viết ít nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.

M.Gorki nói:“Văn học là nhân học”. Cho nên việc ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp của con người đã trở thành hơi thở của tác phẩm mọi thời đại, mà đối với nhà văn, họ phải là người nâng giấc cho những kẻ cùng đường tuyệt lộ, những người bị cái ác và số phận dồn đến chân tường. Họ phải tìm trong tâm hồn những người khốn khổ ấy một ánh sáng, một viên ngọc để chiếu rọi ước mơ của họ. Cũng bàn về vấn đề này, có ý kiến cho rằng: Tác phẩm nghệ thuật trong văn học chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo.Một tác phẩm có giá trị khi nó đem lại điều tốt đẹp cho con người, dẫn con người vào cõi chân – thiện – mỹ, khi nó phát hiện và trân trọng vẻ đẹp con người. Đây quả thật là ý kiến vô cùng đúng đắn, là yêu cầu của một tác phẩm văn chương chân chính trước quy luật băng hoại của thời gian và sự luân hồi của thời thế.

(Đôxtôiepki) cũng khẳng định: “Cái đẹp cứu vớt con người”. “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là con nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã có đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người. Bởi Người nghệ sĩ chân chính phải là nhà nhân đạo tự trong cốt tủy”, nên họ sống, cảm nhận, vắt kiệt suy nghĩ để đóng góp vào trang viết tình người, tinh thần nhân đạo, hiến dân bầu máu nóng của mình để làm sáng ngời lên cốt cách và niềm tin ở con người.

Nghệ thuật vị nhân sinh, giọt mật tinh túy ấy của nhân loại đã tôn vinh con người bằng tất cả khả năng của mình, để rồi, mỗi thời đại, mỗi hình thức nghệ thuật độc đáo đều thấp thoáng tình yêu và tài năng của người viết. Dẫu hành trình của văn học có là hành trình băng xuyên của những nổi đau thì đích đến của nó vẫn là “tôn vinh con người”. Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân đọng lại trong lòng người đọc như một viên ngọc rực sáng vẻ đẹp tình người vừa được vớt lên từ bùn lầy ảm đạm vậy.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang