Dàn bài phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

dan-bai-phan-tich-tay-tien-cua-nha-tho-quang-dung

Dàn bài phân tích bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng

Dàn bài 1:

  • Mở bài:

– Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc, một hồn thơ lãng mạn, tài hoa: nhà thơ của xứ Đoài mây trắng, thơ giàu chất nhạc, họa…

Tây Tiến là tác phẩm xuất sắc của Quang Dũng. Bài thơ được viết trong nỗi nhớ da diết của Quang Dũng về đồng đội, về những kỉ niệm của đoàn quân Tây Tiến gắn liền với khung cảnh thiên nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ nhưng cũng rất trữ tình, thơ mộng.

  • Thân bài:

Đoạn 1: Những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội.

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”

– Đoạn mở đầu bằng những dòng thơ chan chưa nối nhớ, lời thơ như chợt thốt lên đầy nhớ nhung và tiếc nuối:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”

– Từ láy “chơi vơi”, hiệp vần “ơi” mở ra một không gian vời vợi của nối nhớ đồng thời diễn tả tinh tế một cảm xúc mơ hồ, khó định hình nhưng rất thực.

– Điệp từ “nhớ” tô đậm cảm xúc toàn bài, không phải ngẫu nhiên mà nhan đề ban đầu của bài thơ tác giả đặt là Nhớ Tây Tiến. Nỗi nhớ trở đi trở lại trong toàn bài thơ tạo nên giọng thơ hoài niệm sâu lắng, bồi hồi. Nỗi nhớ tha thiết, niềm thương da diết mà nhà thơ dành cho miền Tây, cho đồng đội cũ của mình khi xa cách chan chứa biết bao.

– Nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng thật êm đềm thơ mộng:

+ Nhớ những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu những địa danh khi đi vào thơ Quang Dũng nó không còn mang màu sắc trung tính, vô hồn trên bản đồ nữa mà gợi lên không khí núi rừng xa xôi, lạ lẫm, hoang sơ và bí ẩn.

+ Nhớ con đường hành quân gập ghềnh, hiểm trở, đầy sự hiểm nguy giữa một bên là núi cao với một bên là vực sâu thăm thẳm: Dốc khúc khuỷu, dốc thăm thẳm, Heo hút, sương lấp. Không gian được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao đến chiều sâu hút của những dốc núi, chiều sâu của vực thẳm, bề rộng của những thung lũng trải ra sau màn sương. Các từ láy giàu sức tạo hình khiến người đọc hình dung những con đường quanh co, dốc rồi lại dốc, những đỉnh đèo hoang vắng khuất vào mây trời; Cách ngắt nhịp 4/3 của câu thơ thứ ba tạo thành một đường gấp khúc của dáng núi; ba dòng thơ liên tiếp sử dụng nhiều thanh trắc gợi sự vất vả nhọc nhằn.

+ Nhớ những những ngôi nhà nơi xóm núi như cánh buồm thấp thoáng trên mặt biển trong không gian bình yên và êm ả của mưa giăng đầy biến thung lũng thành ‘xa khơi”.

+ Nhớ âm thanh “gầm thét” của thác dữ, tiếng gầm gào của loài hổ dữ rình rập vồ người mỗi khi chiều đến, đêm về. Thời gian buổi chiều, về đêm lại càng nhấn mạnh thêm cảm giác hoang sơ của chốn “sơn lâm bóng cả cây già”. Những từ ngữ và hình ảnh nhân hóa được nhà thơ sử dụng để tô đậm ấn tượng về một vùng núi hoang vu dữ dội. Nơi đây thiên nhiên hoang dã đang ngự trị và chiếm vai trò chúa tể.

⇒ Bức tranh của núi rừng miền Tây giàu được vẽ bằng bút pháp vừa hiện thực, vừa lãng mạn, vừa giàu chất họa lại giàu chất nhạc. Nét vẽ vừa gân guốc, mạnh mẽ, dữ dội nhưng lại cũng rất mềm mại tạo nên vẻ đẹp hài hòa cho bức tranh thiên nhiên.

– Nỗi nhớ về đồng đội và những kỉ niệm trên đường hành quân:

+ Nhớ cái tếu táo, lạc quan trong gian khổ với vẻ đẹp hồn nhiên qua cách nói hóm hỉnh “súng ngửi trời”. Nếu viết “súng chạm trời”, nhà thơ sẽ chỉ tả được độ cao của đỉnh dốc mà khi đứng trên đó, mũi súng của người lính Tây Tiến như chạm cả vào nền trời. Còn ở đây, Quang Dũng đã gợi được “chất lính” trẻ trung, vẻ tươi mới, sức sống dạt dào trong tâm hồn của người lính Tây Tiến vốn xuất thân từ những thanh niên trí thức trẻ Hà Nội.

+ Nhớ những người đồng đội đã ngã xuống nhưng không bi luỵ. Nỗi mất mát, niềm cảm thương được nói bằng giọng thơ ngang tàng, kiêu hãnh gục bên súng mũ bỏ quên đời”.

+ Nhớ tình cảm quân dân giữa những người lính Tây Tiến và đồng bào Tây Bắc “Nhớ ôi… thơm nếp xôi”. Họ dừng chân nơi xóm núi sau chặng đường dài vất vả, họ quây quần trong niềm vui ấm áp, niềm hạnh phúc bên những nồi cơm còn thơm làn gạo mới. Nhớ ôi! – nỗi nhớ da diết, đằm thắm, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung, giữa những con người miền Tây Bắc của tổ quốc với bộ đội kháng chiến.

⇒ Đoạn thơ chỉ là khúc dạo đầu của một bản nhạc về nối nhớ, song cũng đã kịp ghi lại những vẻ đẹp rất riêng của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc trên nền của bức tranh thiên nhiên dữ dội ấy, những người lính Tây Tiến hiện lên thật đẹp. Sự gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên và con người nơi ấy là biểu hiện của tấm lòng gắn bó với quê hương, đất nước. Đồng thời là tấm lòng trĩu nặng yêu thương với những người đồng đội, đồng chí của mình.

Đoạn 2: Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.

* Những kỉ niệm về tình quân dân thắm thiết qua những đêm liên hoan văn nghệ đậm màu sắc lãng mạn, trữ tình:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.

– Đêm liên hoan được miêu tả bằng những chi tiết lãng mạn:

+ Đêm liên hoan như đêm hội giao duyên, đêm tân hôn của những cặp tình nhân (hội đuốc hoa)

+ Nhân vật trung tâm của đêm hội là những thiếu nữ Tây Bắc trong những bộ trang phục và vũ điệu vừa lộng lẫy, vừa e thẹn, tình tứ.

+ Cái nhìn trẻ trung, ngỡ ngàng, ngạc nhiên, say mê sung sướng của những người lính Tây Tiến trước vẻ đẹp phương xa.

⇒ Bằng bút pháp tài hoa, lãng mạn, thi trung hữu nhạc,tác giả đã làm nổi bật vẻ đẹp giàu bản sắc văn hoá, phong tục của đồng bào vùng biên giới cùng tình cảm quân dân thắm thiết và tâm hồn lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống của người lính Tây Tiến.

* Vẻ đẹp của con người và cảnh vật miền Tây Bắc trong chiều sương trên sông nước Châu Mộc:

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?”

– Không gian trên dòng sông, cảnh vật Châu Mộc hiện lên thật mờ ảo, thơ mộng nhuốm màu sắc cổ tích, huyền thoại.

– Nổi bật lên trên bức tranh sông nước là cái dáng mềm mại, uyển chuyển của các cô gái Thái trên con thuyền độc mộc.

– Những bông hoa rừng cũng như đang đong đưa làm duyên trên dòng nước lũ.

– Những bông lau ven rừng như có hồn và gợi nhớ da diết.

Đoạn 3: Bức tượng người lính Tây Tiến bất tử với thời gian.

Đoạn thơ tập trung vào khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến bằng bút pháp lãng mạn nhưng không thoát ly hiện thực với cảm xúc bi tráng.

– Vẻ đẹp lẫm liệt, kiêu hùng, hào hoa, lãng mạn:

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

+ Sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, thiếu thốn, bệnh tật: Thân hình tiều tuỵ vì sốt rét rừng của người lính Tây Tiến : không mọc tóc, xanh màu lá

+ Trong gian khổ, hình tượng người lính Tây Tiến vẫn hiện ra với dáng vẻ oai phong, lẫm liệt, vẫn toát lên cốt cách, khí phách hào hùng, mạnh mẽ: xanh màu lá, dữ oai hùm

+ Trong gian khổ nhưng:

  • Vẫn hướng về nhiệm vụ chiến đấu, vẫn “mộng qua biên giới” – mộng chiến công, khao khát lập công;
  • Vẫn “mơ Hà Nội dáng kiều thơm” – mơ về, nhớ về dáng hình kiều diễm của người thiếu nữ đất Hà thành thanh lịch.

– Những hình ảnh thơ thể hiện tâm hồn mộng mơ, lãng mạn của người lính – những chàng trai ra đi từ đất Hà Nội thanh lịch. Những giấc “mộng” và “mơ” ấy như tiếp thêm sức mạnh để các anh vượt gian khổ để lập nên nhiều chiến công.

– Vẻ đẹp bi tráng:

Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.

+ Những người lính trẻ trung, hào hoa đó gửi thân mình nơi biên cương xa xôi, sẵn sàng tự nguyện hiến dâng “Đời xanh” cho Tổ Quốc mà không hề tiếc nuối.

+ Hình ảnh “áo bào thay chiếu” là cách nói sang trọng hóa sự hy sinh của người lính Tây Tiến.

+ Họ coi cái chết tựa lông hồng. Sự hy sinh ấy nhẹ nhàng, thanh thản như trở về với đất mẹ: “anh về đất”.

+ “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” : Linh hồn người tử sĩ đó hoà cùng sông núi. Con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc độc tấu đau thương, hùng tráng để tiễn người lính vào cõi bất tử: Âm hưởng dữ dội tô đậm cái chết bi hùng của người lính Tây Tiến.

+ Hàng loạt từ Hán Việt: Biên cương, viễn xứ, chiến trường, độc hành… gợi không khí tôn nghiêm, trang trọng khi nói về sự hi sinh của người lính Tây Tiến.

⇒ Hình ảnh người lính Tây Tiến phảng phất vẻ đẹp lãng mạn mà bi tráng của người tráng sĩ anh hùng xưa.

Đoạn 4: Vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến.

Tây Tiến người đi không hẹn ước,
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

– Khẳng định vẻ đẹp tinh thần của người lính Tây Tiến đối với thời đại và đối với lịch sử:

+ Vẻ đẹp tinh thần của người vệ quốc quân thời kì đầu kháng chiến: một đi không trở lại, ra đi không hẹn ngày về.

+ Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến sẽ còn mãi với thời gian, với lịch sử dân tộc, là chứng nhân đẹp đẽ của thời đại chống thực dân Pháp.

– Cụm từ người đi không hẹn ước thể hiện tinh thần quyết ra đi không hẹn ngày về. Hình ảnh đường lên thăm thẳm gợi lên cả một chặng đường gian lao của đoàn quân Tây Tiến.

⇒ Vẻ đẹp bất tử của người lính Tây Tiến được thể hiện ở âm hưởng, giọng điệu của cả 4 dòng thơ. Chất giọng thoáng buồn pha lẫn chút bâng khuâng, song chủ đạo vẫn là giọng hào hùng đầy khí phách.

Nghệ thuật biểu hiện.

– Cảm hứng và bút pháp lãng mạn.

– Cách sử dụng ngôn từ đặc sắc: các từ chỉ địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt,…

– Kết hợp chất hợp và chất họa.

  • Kết bài:

Bài thơ đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên nền cảnh núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng sẽ luôn đồng hành trong trái tim và trí óc mỗi chúng ta.


Dàn bài 2:

Phân tích bài thơ TÂY TIẾN của nhà thơ Quang Dũng

  • Mở bài:

– Quang Dũng (1921 – 1988) là một nhà thơ xuất sắc của nền văn học kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Ông là một nghệ sĩ rất đa tài. Ngoài là một nhà thơ, nhà văn xuất sắc ông còn là một họa sĩ, nhạc sĩ rất nổi tiếng. Quang Dũng là một người rất hiền từ, chan chứa tình người, sống rất khiêm tốn, đạm bạc và đặc biệt không thích khoa trương, tự cao hoặc nói về mình, tác phẩm của mình. Tây Tiến là tác phẩm xuất sắc của Quang Dũng và của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX. Bài thơ đã khắc họa hình ảnh người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng nhưng cũng đầy lãng mạn, hào hoa, cùng với đó là hình ảnh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ dữ dội và thơ mộng.

  • Thân bài:

“Tây Tiến” là tên gọi của một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng như miền tây Bắc Bộ Việt Nam. Quang Dũng chuyển về đơn vị mới, nhớ đơn vị cũ, ông đã sáng tác bài thơ này tại Phù Lưu Chanh (một làng cũ thuộc tỉnh Hà Đông Cũ).  Ban đầu nhà thơ đặt tên cho nhan đề của mình là “Nhớ Tây Tiến”, sau đó nhà thơ đổi tên thành “Tây Tiến”, in trong tập Mây đầu ô (1986).

– Việc đổi tên bài thơ là một dụng ý nghệ thuật của nhà thơ. Nếu đặt tên là “Nhớ Tây Tiến” cho thấy cảm xúc chủ đạo là nỗi nhớ, nhưng lại không nhấn mạnh được hình tượng trung tâm của bài thơ. Đồng thời khi đọc tác phẩm, người đọc có thể cảm nhận sâu sắc được nỗi nhớ, việc để chữ “nhớ” ở nhan đề không cần thiết. Mặt khác nhan đề này gợi ra sự ủy mị, mềm mại không phù hợp với hình tượng đoàn quân Tây Tiến mạnh mẽ, hào hùng. Khi lược bỏ chữ “nhớ” giúp cho nhan đề trở nên cô đọng hơn. Bởi bản thân hai chữ “Tây Tiến” cũng gợi ra nỗi nhớ. Nhan đề “Tây Tiến” cũng tạo ra âm điệu của nhan đề chắc khỏe, rắn rỏi đem đến cho ta hình dung về miền Tây rộng lớn, thẳm thăm, hùng vị. Cũng như vẻ đẹp của đoàn quân Tây Tiến hào hùng. Mặt khác, nhan đề Tây Tiến cũng giúp cho bài thơ giống như một khúc ca, Tiến Quân Ca, Nam Tiến và ở đây là Tây Tiến.

1. Nhớ những ngày tháng chiến đấu gian khổ gian khổ nhưng đáng tự hào (14 câu thơ đầu).

* 2 câu mở đầu: Bộc lộ cảm xúc chủ đạo: Nỗi nhớ Tây Tiến.

– Cách diễn tả + điệp từ “nhớ”, nhấn mạnh cảm xúc nhớ thương mãnh liệt.

+ Nhớ “chơi vơi”-cách dùng từ độc đáo, cụ thể hoá nỗi nhớ, nỗi nhớ dường như lan tỏa, dáng hình, đang bồng bềnh trong không gian, thời gian.

+ Từ cảm “ơi”, bắt vần với từ láy “chơi vơi”, tạo âm hưởng mênh mang, da diết.

* 12 câu tiếp theo: Nhớ con đường hành quân của người lính qua núi rừng Tây Bắc

– Điều kiện thời tiết khắc nghiệt: “Sài Khao…..đêm hơi”

+ Những hình ảnh đối lập: “sương lấp”, “đêm hơi”

+ Liệt kê những địa danh lạ: “Sài Khao”, “Mường Lát”…, gợi lên sự khắc nghiệt của thời tiết, vẽ nên con đường hành quân cụ thể mà rộng khắp.. Nhưng trong “sương lấp”, “đêm hơi” đoàn hùng binh vẫn dũng cảm vượt qua những nẻo đường chiến đấu.

– Địa hình hiểm trở, dữ dội: “Dốc lên…….xa khơi”

+ Những từ láy: “khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút”

+ Những hình ảnh đối lập: “dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm, ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Câu thơ giàu chất tạo hình vẽ ra cái thế gập ghềnh, cheo leo của dốc núi như thử thách ý chí can trường của người lính. Nhưng các anh vẫn phơi phới, lạc quan, yêu đời, vẫn hồn nhiên, tinh nghịch trong tư thế “Heo hút cồn mây súng ngửi trời”.

– Sự phối thanh, ngắt nhịp lịnh hoạt đã tạo nên âm điệu lạ:

+ Những thanh trắc: Nghe nhọc nhằn, vất vả, giống như con đường hành quân gian khổ mà người lính phải trải qua.

+ Những câu thơ phân nhịp bẻ đôi, như hoạ lại con đường hành quân gian khổ ở độ cao, độ sâu chóng mặt.

+ Những thanh bằng: Nghe êm ái, nhẹ nhàng, như tâm hồn lâng lâng của người lính khi đã chiếm lĩnh được những độ cao tuyệt đối.

– Thiên nhiên hoang dại, dữ dội chứa đầy bí mật: “Chiều chiều…đêm đêm”.

+ Những âm thanh ghê rợn: Tiếng thác “gầm thét”, tiếng cọp “trêu người”.

+ Những từ láy đối ứng nhau “chiều chiều”, “đêm đêm”, gợi tả cái bí mật quyền uy ghê gớm của rừng thiêng. Nơi đây cái chết đang rình rập, đe doạ mạng sống con người.

– Trên chặng đường hành quân gian khổ, có những người lính đã “không bước nữa”, đã “gục lên súng mũ bỏ quên đời”. (Phân tích câu thơ theo nhiều cách hiểu)

+ Âm điệu câu thơ trĩu xuống như một tiếng khóc thầm. Trong gian khổ, dãi dầu, có đồng đội đã không bước nữa, vĩnh biệt đoàn binh, nằm lại nơi chân đèo, góc núi.

+ Những từ “không bước nữa”, “gục lên súng mũ”, “bỏ quên đời” được dùng thay thế cho cái chết nhưng người đọc vẫn cảm nhận rất sâu sắc nỗi xót xa thương tiếc đồng đội như trào lên trong lòng nhà thơ.

+ Nhưng đây là những câu thơ được viết với cảm hứng bi tráng, nhằm ca ngợi cái chết đẹp của người chiến sĩ Tây Tiến vốn xuất thân từ những trí thức tiểu tư sản.

* Hai câu cuối đoạn: Diễn tả những kỉ niệm ấm áp tình quân dân.

Câu thơ chứa đựng hình ảnh đẹp, hương vị ngọt ngào, giọng điệu êm nhẹ như xua tan không khí mệt mỏi, lạnh lẽo, chết chóc & tạo ra cảm giác êm ái, dễ chịu, ấm cả lòng người.

2. Một Tây Bắc thơ mộng, trữ tình và mĩ lệ (8 câu tiếp theo).

* 4 câu trên: Gợi nhớ lại đêm liên hoan văn nghệ của đơn vị.

+ Đêm “ hội đuốc hoa” là đêm liên hoan lửa trại giữa chiến sĩ Tây Tiến với đồng bào (Tây Bắc, Lào) . “Doanh trại bừng lên”-tác giả sử dụng từ “bừng lên” thật hay, làm bừng sáng và tỏa hơi ấm cho không gian đêm hội. Đêm hội có ánh sáng, hơi ấm của “đuốc hoa”, có tiếng khèn, điệu nhạc và có “em” trong trang phục xiêm áo đang yểu điệu, thướt tha, e ấp, dịu dàng. “Em” ở đây là cô gái, có thể là các cô gái miền núi Tây Bắc nước ta, có thể là các cô gái Lào. Sự xuất hiện của các cô gái làm cho đêm hội thêm vui vẻ, ấm áp và quyến rũ, say lòng người.

+ Chiến sĩ Tây Tiến đa phần là những chàng trai Hà Nội hào hoa, lãng mạn và có chút đa tình nên khi các cô gái xuất hiện trong ánh lửa, tiếng khèn điệu nhạc khiến các anh ngạc nhiên, thích thú, say mê. Niềm vui, thái độ thích thú của các anh được tác giả diễn tả ở từ “Kìa”. Phải chăng các anh ngạc nhiên vì nơi núi rừng ấy lại có những “đóa hoa” say lòng người đến thế.

+ Say mê , thích thú trong đêm hội để về “xây hồn thơ” các chiến sĩ xây mộng với các cô gái Các chiến sĩ thật là lãng mạn.

+ Tài hoa của Quang Dũng trong đoạn thơ là kết hợp hài hòa hình ảnh, âm thanh, ánh sáng,…Đoạn thơ là bức tranh đêm hội đuốc hoa thật vui vẻ, ấm áp, lãng mạn. Và đó cũng chính là một trong những kỉ niệm không thể nào quên của trung đoàn Tây Tiến, minh chứng cho tình cảm đồng đội, tình quân dân nồng nàn, thắm thiết. Giây phút vui vẻ, hạnh phúc cùng đồng bào, tình cảm quân dân thắm thiết là hành trang của các chiến sĩ trên chiến trường ác liệt.

* 4 câu sau: Nhớ cảnh sông nước đầy chất thơ:

– Bốn câu thơ theo dòng hồi tưởng “trôi” về miền đất lạ, đó là Châu Mộc thuộc tỉnh Sơn La, nơi có những bãi cỏ bát ngát mênh mông, có dãy núi Pha Luông cao 1884 mét, nơi có bản Pha Luông sầm uất của người Thái. Quang Dũng đã khám phá ra bao vẻ kì thú của miền Châu Mộc. Năm tháng đã đi qua và miền đất ấy trở thành một mảnh trong tâm hồn của bao người.

“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”

(Chế Lan Viên)

+ “Chiều sương ấy” là chiều thu năm 1947, sương trắng phủ mờ núi rừng chiến khu làm cho cảnh, người càng thêm thơ mộng, trữ tình. Buổi chiều thu đầy sương ấy in đậm hồn người khiến cho hoài niệm thêm mênh mang. Chữ “ấy” bắt vần với chữ “thấy” tạo nên một vần lưng giàu âm điệu, như một tiếng khẽ hỏi “có thấy” cất lên trong lòng.

+ “Hồn lau” là hồn mùa thu, hoa lau nở trắng, lá lau xào xạc trong gió thu nơi bờ sông bờ suối“nẻo bến bờ”. Với tâm hồn thi sĩ tài hoa, Quang Dũng đã cảm nhận vẻ đẹp thơ mộng của thiên nhiên Châu Mộc qua cảnh sắc “chiều sương” và “hồn lau nẻo bến bờ”.

+ Điệp ngữ “có thấy”, “có nhớ” làm cho hoài niệm về chiều sương Châu Mộc thêm phần man mác, bâng khuâng. Trong chia phôi còn có nhớ, nhớ cảnh rồi nhớ đến người. “Có nhớ” con thuyền độc mộc và dáng người chèo thuyền độc mộc? “Có nhớ” hình ảnh “hoa đong đưa” trên dòng nước lũ ? “Hoa đong đưa” là hoa rừng đong đưa làm duyên trên dòng nước hay là hình ảnh ẩn dụ gợi tả các cô gái miền Tây Bắc xinh đẹp lái thuyền duyên dáng, uyển chuyển như những bông hoa rừng đang đong đưa trên dòng suối? Và nếu là hình ảnh gợi tả các cô gái Tây Bắc thì các cô gái ấy phải có “tay lái ra hoa” mới có thể “đong đưa” được như vậy. Quang Dũng thật tài tình và con người Tây Bắc thật tài hoa!

→ Bốn câu thơ là những dòng hồi tưởng về cảnh sắc và con người nơi Tây Bắc, nơi cao nguyên Châu Mộc. Với bút pháp tài hoa và tâm hồn lãng mạn, Quang Dũng vẽ lại bức tranh tuyệt đẹp về thiên nhiên và con người Tây Bắc.

3. Chân dung người lính Tây Tiến hào hùng mà vẫn lãng mạn hào hoa, sự hi sinh mất mát (8 câu tiếp theo).

* 4 câu trên: Bức chân dung được dựng, tả bằng bút pháp hiện thực & lãng mạn, bằng cảm hứng bi tráng.

– Trên những nẻo đường hành quân, chiến đấu, vượt qua bao đèo cao dốc hiểm, đoàn quân Tây Tiến hiện ra giữa núi rừng trùng trùng điệp điệp vừa kiêu hùng vừa cảm động. Người chiến binh với quân trang màu xanh của lá rừng, với nước da phong sương vì sốt rét rừng, thiếu thuốc men, lương thực,…

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

+ Hai câu thơ trần trụi như hiên thực chiến tranh những năm tháng kháng chiến chống Pháp. Hình ảnh đoàn quân “ không mọc tóc” vừa gợi nét bi hài vừa phản ánh cái khốc liệt của chiến tranh. Cái hình hài không lấy gì làm đẹp “không mọc tóc”, “xanh màu lá” tương phản với nét “dữ oai hùm”. Với bút pháp tài hoa, Quang Dũng làm bật chí khí hiên ngang, tinh thần quả cảm xung trận của các chiến binh Tây Tiến từng làm quân giặc khiếp sợ.

+ “Dữ oai hùm” là hình ảnh ẩn dụ nói lên chí khí của người lính Tây Tiến , tuy các chiến sĩ có gầy, xanh nhưng không hề yếu, chí khí của người lính vẫn như con hổ nơi rừng xanh. Cái tài của Quang Dũng là khắc họa chân dung bên ngoài của chiến sĩ Tây Tiến tuy gầy , xanh nhưng vẫn toát lên được cái oai phong, khí phách của người lính cụ Hồ.

– Các chiến sĩ Tây Tiến tuy hành quân, chiến đấu trong muôn vàn gian khổ, thiếu thốn, bệnh tật,…nhưng vẫn có những giấc mơ, giấc mộng rất đẹp:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

+ Các chiến sĩ Tây Tiến mộng và mơ gửi về hai phía chân trời : biên giới và Hà Nội, biên giới là nơi còn đầy bóng giặc, Hà Nội là nơi còn đó những kỉ niệm, những người thân thương,…

+ Mắt trừng-hình ảnh gợi tả nét dữ dội, oai phong lẫm liệt, tinh thần cảnh giác, tỉnh táo của người lính trong khói lửa ác liệt, “gửi mộng qua biên giới” là mộng tiêu diệt kẻ thù,bảo vệ biên cương , lập nên chiến công nêu cao truyền thống anh hùng của đoàn quân Tây Tiến, của chiến sĩ cụ Hồ.

+ Các chiến sĩ Tây Tiến lại có những giấc mộng đẹp về Hà Nội, về “ dáng kiều thơm”. Chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên Hà Nội “Xếp bút nghiên theo việc đao, cung”, họ là những chàng thanh niên trẻ hào hoa, lãng mạn và có chút đa tình. Khi xa Hà Nội, tiến về Tây Bắc để thực hiện nhiệm vụ thì các chiến sĩ luôn “Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Sống giữa chiến trường ác liệt nhưng tâm hồn các anh luôn hướng về Hà Nội , mơ về Hà Nội. Đúng vậy, làm sao các anh có thể quên được hàng me, hàng sấu, phố cổ trường xưa…Làm sao các anh quên được những tà áo trắng, những cô gái thân thương…những “dáng kiều thơm” đã từng hò hẹn…Hình ảnh “dáng kiều thơm” của Quang Dũng đem đến cho người đọc nhiều điều thú vị, ngôn từ vốn có trong thơ lãng mạn thời “tiền chiến” nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng nó trở nên có hồn, đặc tả được chất lính trẻ trung, hào hoa, lãng mạn của binh đoàn Tây Tiến trong trận mạc.

* 4 câu dưới: Sự mất mát, tổn thất của chiến tranh được QD tiếp tục khai thác bắng bút pháp lãng mạn & màu sắc bi tráng.

– Trong gian khổ chiến trận, bao đồng đội đã ngã xuống trên mảnh đất miền Tây, họ nằm lại nơi chân đèo góc núi:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

+ Câu thơ “Rải rác biên cương mồ viễn xứ”, câu thơ gợi cái bi, nếu đứng một mình thì nó gợi một bức tranh xám lạnh, ảm đạm, hiu hắt …và đem đến cho người đọc nhiều xót thương. Nhưng cái tài của Quang Dũng là đã tạo cho nó một văn cảnh, tiếp theo sau là “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Khi nằm trong văn cảnh ấy thì câu thơ càng thể hiện chí khí, tinh thần của người lính Tây Tiến. “Đời xanh” là đời trai trẻ, tuổi xuân. “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” là họ sẵn sàng ra trận vì lí tưởng cao đẹp: bảo vệ biên cương, tiêu diệt kẻ thù, giành độc lập tự do…Họ là những thanh niên Hà Nội, họ tiến về miền Tây của Tố quốc vì nghĩa lớn của chí khí làm trai. Dẫu thấy cái chết trước mắt họ vẫn không sợ, họ coi cái chết nhẹ như lông hồng. Họ sẵn sàng “Quyết tử cho Tố quốc quyết sinh”.

+ Câu thơ “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Các anh quyết đem xương máu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ độc lập tự do cho dân tộc. Tinh thần của người lính Tây Tiến cũng như quyết tâm sắt đá của dân tộc ta trong những năm kháng chiến chống Pháp: “Chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.

– Cảnh trường bi tráng giữa chiến trường miền Tây thuở ấy được tác giả ghi lại ở hai câu cuối của đoạn thơ:

“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

+ Các chiến sĩ ngày xưa giữa chốn sa trường lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh. Các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ, với tấm áo bào bình dị ấy “về với đất”. Một sự ra đi thật nhẹ nhàng, thanh thản. Anh giết giặc vì quê hương, anh ngã xuống là “ về đất” , nằm trong lòng Mẹ tổ quốc thân thương. Nhà thơ không dùng từ “chết”, “hi sinh” mà dùng từ “về đất” để ca ngợi sự hi sinh cao cả mà bình dị, thầm lặng mà thanh thản của người lính Tây Tiến. Chiến sĩ Tây Tiến đã sống và chiến đấu
cho quê hương,đã hi sinh cho quê hương, “anh về đất” bằng tất cả tấm lòng thủy chung son sắt với Tố quốc.

+ “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. Đây là câu thơ hay, gợi tả không khí thiêng liêng, trang trọng đồng thời tạo âm điệu trầm hùng, thương tiếc. “Sông mã gầm lên “ hay hồn thiêng sông núi đang tấu lên khúc nhạc tiễn đưa linh hồn các anh về nơi an nghỉ cùng đất Mẹ.

4. Lời thề son sắt (4 câu cuối).

– Âm hưởng trầm hùng thể hiện ý chí quyết tâm của người lính với tinh thần một đi không trở về-sẵn sàng cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh

– Từ ngữ, hình ảnh cổ kính, gợi liên tưởng đến chất uyên hùng của các tráng sĩ thời phong kiến.

  • Kết bài:

– Bài thơ đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên nền cảnh núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, vẻ đẹp của người chiến sĩ xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản: Tâm hồn trong sáng, chân thực, gan dạ, dũng cảm, giàu lòng hi sinh. Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến cũng là vẻ đẹp của thời đại.

– Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng sẽ luôn đồng hành trong trái tim và trí óc.


* Tham khảo:

Phân tích chi tiết bài thơ TÂY TIẾN của nhà thơ Quang Dũng.

  • Mở bài:

Quang Dũng (1921 – 1988) là một nghệ sĩ đa tài; làm thơ, vẽ tranh, soạn nhạc, viết văn… nhưng trước hết ông vẫn là một nhà thơ xuất sắc của thi ca Việt Nam hiện đại, một nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp, một hồn thơ phóng khoáng và tâm huyết, một tiếng thơ tinh tế và lãng mạn. Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện tập trung nét đặc sắc phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Tây Tiến cũng là một trong những bài thơ hay nhất về đề tài người lính của thơ ca kháng chiến chống Pháp.

  • Thân bài:

Tây Tiến là một đơn vị quân đội được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào, đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào và miền Tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của trung đoàn là miền núi rừng rộng lớn và hiểm trở của biên giới Việt Lào, gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, Miền Tây Thanh Hóa và Sầm Nưa. Sau một thời gian hoạt động ở Lào, đoàn quân Tây Tiến trở về Hòa Bình, thành  lập trung đoàn 52.

Chiến sĩ Tây Tiến phần đông học sinh, thanh niên Hà Nội nên tâm hồn mang đậm nét hào hoa, lãng mạn. Bài thơ được viết trong thời kì đầu kháng chiến chống Pháp, đời sống bộ đội gặp nhiều khó khăn; đặc biệt đơn vị Tây Tiến chiến đấu trong hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ vẫn sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm với tinh thần “ quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh”.

Năm 1947, Quang Dũng là đại đội trưởng trong trung đoàn Tây Tiến, tới cuối 1948, ông được lệnh chuyển sang đơn vị khác. Một thời gian sau, khi đang ở Phù Lưu Chanh, một làng thuộc tỉnh Hà Đông, nhớ đơn vị cũ, Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Năm 1957, khi in lại trong tập Mây đầu ô, tác giả đổi nhan đề bài thơ thành Tây Tiến.

Hoàn cảnh sáng tác ấy cho thấy rõ hơn nỗi nhớ da diết của nhà thơ với đơn vị cũ và mảnh đất miền Tây đầy kỉ niệm. Nỗi nhớ trở thành cảm xúc trữ tình xuyên suốt bài thơ. Hoàn cảnh sáng tác cũng đồng thời giúp người đọc hiểu rõ hơn vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của chiến sĩ Tây Tiến, hiểu được nguyên nhân của bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn, những yếu tố làm nên chất bi tráng đặc biệt của bài thơ.

Nỗi nhớ của cựu chiến binh Tây Tiến hướng về những kỉ niệm với thiên nhiên và con người trên chặng đường hành quân gian nan vất vả của đoàn quân Tây Tiến qua vùng rừng núi miền Tây. Thông 14 câu thơ đầu, Quang Dũng đã khắc họa vẻ đẹp hào hoa, hào hùng của chiến sĩ Tây Tiến:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.

Hai câu thơ đầu là khúc dạo đầu của nỗi nhớ nhung. Câu thơ đầu chia thành hai vế trong nhịp ngắt 4/3 với sự hiện diện của cả miền Tây và trung đoàn Tây Tiến:

“Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!”

Sông Mã là dòng sông chảy dọc theo địa bàn biên giới Việt Lào thuộc các tỉnh Mộc Châu, Sầm Nưa, Mai Châu, Quan Hóa. Đây là dòng sông nhiều ghềnh thác, đổ dốc dữ dội, một mình băng băng giữa núi rừng hùng vĩ, hai bên bờ sông còn rải rác mồ chiến sĩ Tây Tiến. Vì thế, sông Mã vừa là một cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, vừa là hình ảnh của vùng đất miền Tây; sông Mã còn là dòng sông gắn liền với chặng đường hành quân của trung đoàn, từng chứng kiến và chia sẻ những buồn vui, những mất mát, hi sinh, từng “gầm lên khúc độc hành” tiễn đưa sĩ tử, sông Mã đựng đầy kỉ niệm về trung đoàn Tây Tiến năm xưa.

Hành hương về quá khứ, Quang Dũng đã nhắc tới sông Mã như biểu tượng đầu tiên của nỗi nhớ. Bài thơ được viết khi Quang Dũng đang ở Phù Lưu Chanh, xa trung đoàn, xa đồng đội, xa núi rừng miền Tây và dòng sông Mã thân yêu. Nhịp điệu 4/3 với dấu ngắt giữa dòng tạo cảm giác như có một phút ngưng lặng để nhận ra sự trống trải mênh mông trong thực tại bởi sông Mã xa rồi, rồi sau đó hiện tại mờ đi, nỗi nhớ ùa vào trong tiếng gọi tha thiết hướng về quá khứ “ Tây Tiến ơi”. Tiếng gọi ấy không dừng lại trong câu 1 mà như được ngân nga tiếp nối trong những vần ơi của từ láy chơi vơi ở câu 2 – phép điệp vần tinh tế khiến tiếng gọi như âm vang, đập vào vách đá, dội lại lòng người, da diết, bâng khuâng…

Sau tiếng gọi ấy, nỗi nhớ ào ạt trào dâng trong câu thơ tiếp :

“Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”

Từ nhớ lại ở đầu hai vế câu diễn tả nỗi nhớ day dứt, miên man, ám ảnh, không thể nguôi ngoai… Vế đầu xác định đối tượng của nỗi nhớ “ nhớ về rừng núi” – đó là không gian mênh mông của miền Tây với những địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông…, những địa danh vừa gợi lên kỉ niệm về con đường hành quân gian truân vất vả, vừa gây ấn tượng mạnh mẽ về miền đất heo hút, hoang sơ; và vì thế, nỗi nhớ không chỉ dừng lại ở rừng núi miền Tây, nỗi nhớ còn hướng về những năm tháng quá khứ đầy kỉ niệm và những đồng đội thân yêu nay kẻ còn người mất. Vế sau câu thơ dành miêu tả sắc thái của nỗi nhớ. Chơi vơi là từ láy vần với 2 thanh không, gợi độ cao phiêu du, bay bổng, là một từ láy thật phù hợp để miêu tả nỗi nhớ hướng về vùng núi cao miền Tây; hơn nữa, từ láy chơi vơi còn gợi cảm giác về một nỗi nhớ vô tình, vô lượng, không thể đo đếm, một nỗi nhớ mơ hồ, đầy ám ảnh, một nỗi nhớ lơ lửng, ăm ắp, khôn nguôi…

Hai câu thơ đầu đã thể hiện cảm hứng chủ đạo của đoạn thơ, cũng là của cả bài thơ, đó là nỗi tha thiết của người cựu chiến binh Tây Tiến hướng về miền Tây, trung đoàn Tây Tiến và những năm tháng quá khứ không thể nào quên.

Toàn bộ đoạn thơ sau đó là nỗi nhớ hướng về những kỉ niệm với thiên nhiên và con người trên chặng đường hành quân gian nan vất vả của đoàn quân Tây Tiến qua vùng rừng núi miền Tây. Thông qua những nét vẻ tài hoa vừa chân thực vừa thấm đẫm chất lãng mạn, Quang Dũng đã làm hiện lên bức tranh thiên nhiên miền Tây heo hút, hiểm trở nhưng cũng hùng vĩ thơ mộng và xiết bao kì thú.

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
(……….)
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”

Nét đặc sắc đầu tiên của thiên nhiên miền Tây trong kí ức Quãng Dũng chính là màn sương rừng mờ ảo: sương phủ dày ở Sài Khao, sương bồng bềnh ở Mường Lát, và đó hình như cũng không chỉ là màn sương của thiên nhiên mà còn là màn sương mờ của kỉ niệm, của nỗi nhớ thương:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Bút pháp hiện thực trong câu trên đã miêu tả chân thực sự khắc nghiệt của thiên nhiên miền Tây qua hình ảnh một đoàn quân dãi dầu mệt mỏi, thấp thoáng ẩn hiện trong sương. Nhịp ngắt 4/3 khiến trọng tâm câu thơ rơi vào từ lấp – một động từ có sức gợi tả màn sương rừng miền Tây mênh mông, dày đặc che kín cả một đoàn quân, trùm phủ, khuất mờ rừng núi khiến con đường hành quân của các chiến sĩ thêm vất vả gian nan.

Tới câu thơ sau, hiện thực khắc nghiệt đã được thi vị hóa bởi cảm hứng lãng mạn: đêm sương thành đêm hơi bồng bềnh, những ngọn đuốc soi đường di chuyển dọc con đường hành quân được nhìn như những đóa hoa chập chờn, lung linh, huyền hoặc… Còn có thể hiểu hoa về trong đêm hơi là hương hoa rừng lan tỏa, phảng phất theo bước chân chiến sĩ. Những thanh bằng nhẹ bỗng trong câu thơ không chỉ làm đậm thêm sắc hư ảo của màn sương rừng, sự huyền hoặc của hương hoa mà còn như tái hiện trạng thái mơ mộng bay bổng trong tâm hồn chiến sĩ. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên đã được cảm nhận một cách thi vị bởi những tâm hồn lãng mạn, hào hoa.

Nhớ đến miền Tây, không thể nào quên sự hiểm trở và hùng vĩ vô cùng của dốc núi. Ba câu thơ tiếp theo đã miêu tả sắc nét khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ và hiểm trở ấy, qua đó làm hiện lên cuộc hành quân gian lao, vất vả, ý chí bất khuất kiên cường và tinh thần lạc quan, yêu đời của người lính Tây Tiến:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”

Đọc đoạn thơ tả dốc núi miền Tây của thơ Quang Dũng, có thể nhớ tới con đường khó khăn lên xứ Thục trong thơ Lí Bạch xưa:

Thục đạo nan! Thục đạo nan
Nan ư hướng thiên thanh

(Đường lên xứ Thục khó thay!
Khó giống như lên trời xanh!)

Câu thơ đầu trực tiếp miêu tả dốc núi miền Tây trập trùng hiểm trở: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm”. Sự phối hợp dày đặc của 5 thanh trắc đã tạo ra âm hưởng gập ghềnh cho một câu thơ 7 chữ khiến người đọc có thể hình dung ra phần nào cuộc hành quân gian truân, vất vả vô cùng của chiến sĩ Tây Tiến trong một địa hình mà sự hiểm trở hiện hữu ngay trong nhạc điệu của câu thơ. Câu thơ ngắt nhịp 4/3, từ dốc điệp lại ở đầu hai vế câu thể hiện sự trùng điệp, chồng chất, nối tiếp như tới vô tận của những con dốc; cũng phần nào gợi ra sự nhọc nhằn của người lính trên đường hành quân: con dốc này chưa qua, con dốc khác đã đợi sẵn, núi rừng miền Tây như muốn thử thách ý chí, nghị lực của các anh. Sự hiểm trở của dốc núi miền Tây cũng hiện ra trong ý nghĩa tạo hình và biểu cảm của các từ láy “khúc khuỷu…thăm thẳm”. Từ láy khúc khuỷu miêu tả sự gồ ghề, gập ghềnh của dốc núi ngay dưới chân chiến sĩ; còn từ láy thăm thẳm lại gợi độ cao hun hút; độ xa vời vợi khi đưa mắt nhìn tiếp con đường hành quân vẫn cheo leo, ngút ngàn nhưng không cùng. Con đường lên miền Tây quả là Khó như lên trời xanh!

Dốc núi miền Tây được gợi tả gián tiếp trong câu thơ sau với việc tô đậm ấn tượng về độ cao chót vót: “Heo hút cồn mây, súng ngửi trời”. Từ láy heo hút vừa gợi cao, vừa gợi xa, vừa gợi vắng, được đảo lên đầu câu thơ nhấn mạnh sự hoang sơ, xa vắng, thăm thẳm như vô tận của dốc núi miền Tây trong cảm nhận của chiến sĩ Tây Tiến – những chàng trai tới từ Thủ đô hoa lệ. Cồn mây là một ẩn dụ đặc sắc cho thấy mây núi miền Tây bộn bề, chồng chất, dựng lên thành cồn, thành dốc, từ đó, câu thơ gián tiếp cho thấy dốc núi miền Tây cao đến mức cao đường như lẫn vào mây, mây bao phủ đường núi, mây mờ mịt, trập trùng, mây khiến con đường hành quân của chiến sĩ thêm cheo leo, hiểm trở, hoang vu.

Vế sau của câu thơ cũng tiếp tục gợi tả độ cao của dốc núi khi người lính như đi trong mây, mũi súng như chạm tới đỉnh trời. Đó là một cảm nhận có thực của thị giác khi những người lính hành quân trên dốc núi miền Tây. Địa hình heo hút, hiểm trở làm tăng thêm những gian truân vất vả cho người lính trên đường hành quân; nhưng bằng cách nói tếu táo, hóm hỉnh, đầy chất lính trong hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời”, Quang Dũng đã cho thấy tâm hồn trẻ trung của những người lính phong trần coi thường mọi gian lao, vất vả. Có nhà thơ còn cho rằng hình ảnh súng ngửi trời là “trung tâm hùng tráng của bức tranh hiểm trở, bởi ở chỗ cao ấy, có con người” – và bởi nói như ca dao thời kháng chiến: Đèo cao thì mặc đèo cao – Ta trèo lên đỉnh, ta cao hơn đèo! Và do vậy, câu thơ không chỉ gợi sự hiểm trở của dốc núi, sự tươi trẻ lạc quan của chiến sĩ Tây Tiến, nó còn khiến các anh hiện ra trong dáng vẻ ngang tàng, kiêu dũng của những chàng trai chinh phục độ cao!

Dốc núi miền Tây tiếp tục được miêu tả trong một nét vẽ sắc sảo và gân guốc: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Điệp ngữ ngàn thước là một ước lệ nghệ thuật có tính định lượng khắc họa vẻ đẹp hùng vĩ, chênh vênh kì thú của núi rừng miền Tây. Yếu tố tương đồng của điệp ngữ ngàn thước và tính chất tương phản của các động từ lên – xuống trong hai vế câu đã tạo ra cảm giác về một nét gập đột ngột, dữ dội cho câu thơ, cũng là cách để nhà thơ gợi tả thật tài hoa độ cao của dốc, độ sâu của vực: bên này đường lên núi dựng đứng vút cao, bên kia, vực đổ xuống hun hút, hiểm trở.

Trong 3 câu thơ đặc biệt giàu chất tạo hình và biểu cảm, dốc núi miền Tây được miêu tả hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, nhưng đều được khắc họa đồng thời cả sự hiểm trở lẫn vẻ đẹp hùng vĩ, kì thú. Thông qua bức tranh thiên nhiên đặt trong sự trải nghiệm của chiến sĩ Tây Tiến trên đường hành quân, có thể thấy vẻ đẹp tâm hồn những người lính Tây Tiến: họ lạc quan, mạnh mẽ coi thường mọi gian truân vất vả, những thử thách của thiên nhiên chỉ càng làm rõ hơn ý chí, sức mạnh, tâm hồn trẻ trung và tư chất nghệ sĩ của họ.

Sau những câu thơ hun hút, nhọc nhằn miêu tả dốc núi, câu thơ tả mưa miên man trong 7 thanh bằng; cùng với rất nhiều âm tiết mở, câu thơ đã gợi tả một không gian mênh mông dàn trải, nhạt nhòa trong mưa:

“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

Hình ảnh mưa xa khơi có thể coi là một ẩn dụ cho thấy cả thung lũng mờ mịt như loãng tan trong biển mưa, không gian bỗng mênh mang, xa vời hơn… Sau những chặng đường hành quân gian khổ, người lính như đang dừng chân đâu đó, đưa mắt nhìn cả núi rừng chìm trong mưa. Ánh mắt những người lính xa nhà bâng khuâng hướng tới những ngôi nhà bồng bềnh thấp thoáng trong màn mưa hư ảo…Sắc thái phiếm chỉ khiến những ngôi nhà trở nên mơ hồ, xa xăm; sắc thái nghi vấn gợi nỗi trăn trở trong lòng người; cả câu thơ chỉ có duy nhất tiếng nhà mang thanh huyền như một thoáng trầm lắng suy tư, để rồi sau đó, tất cả những thanh không chơi vơi trong nỗi nhớ. Giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi rừng mênh mông, hình ảnh ngôi nhà gợi cảm giác ấm áp, bình yên làm trào dâng nỗi nhớ nhung, xao xuyến lòng người xa quê.

Núi rừng miền Tây được miêu tả trong những nét vẽ đầy ấn tượng:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét,
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”.

Thác gầm thét và cọp trêu người là hai hình ảnh nhân hóa làm tăng thêm sự dữ dội hoang sơ đầy bí hiểm của núi rừng miền Tây. Bút pháp đối lập của cảm hứng lãng mạn đã được Quang Dũng sử dụng trong phép đối thanh rất tinh tế ở hai câu thơ này. Nếu câu trên có các tiếng thác, thét mang thanh trắc ở âm vực cao thì câu dưới là các tiếng Hịch, cọp cũng mang thanh trắc nhưng thuộc âm vực thấp. Và có thể thấy những dấu sắc trong câu trên như gợi âm thanh tiếng thác nước man dại ở vòm cao thăm thẳm, những dấu nặng liên tiếp trong câu dưới như lại mô phỏng tiếng bước chân nặng nề của thú dữ, gợi cái thâm u, bí ẩn đầy đe dọa ở vòm tối thấp của núi rừng.

Chiều chiều và đêm đêm là những trạng ngữ chỉ dòng thời gian lặp lại miên viễn, vĩnh hằng. Những sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp đã ngự trị nơi núi rừng, miền Tây không phải một chiều, một đêm mà là chiều chiều, đêm đêm – sự ngự trị muôn đời! Nhưng chiều chiều và đêm đêm cũng là những thời gian xuất hiện trong chặng đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến, vì thế, hai câu thơ miêu tả những ấn tượng về miền Tây chỉ càng khiến chân dung người chiến sĩ Tây Tiến thêm hào hùng mạnh mẽ: họ đã hành quân qua những vùng đất hoang sơ, dữ dội vắng bóng con người, họ đã in dấu chân mình trên những vùng đất tưởng chỉ là vương quốc riêng của mây trời heo hút, của thiên nhiên bí ẩn thâm u, họ đã vượt qua những gian truân vất vả bằng khí phách kiên cường và lòng dũng cảm.

Sự vất vả gian truân cũng như vẻ đẹp trong tâm hồn người lính Tây Tiến ít nhiều thể hiện trong những câu thơ miêu tả cảnh thiên nhiên miền Tây và hành trình qua miền Tây; ngoài ra còn có những câu thơ trực tiếp miêu tả hình ảnh người lính cũng như những kỉ niệm của họ trong chặng đường hành quân.

Trước hết là một kí ức sâu đậm của Quang Dũng về hình ảnh một người chiến sĩ Tây Tiến trên đường hành quân:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa,
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!”

Từ láy dãi dầu đã thể hiện tất cả những vất vả, nhọc nhằn của các anh khi hành quân qua miền Tây, khi vượt qua những núi cao, vực sâu, thác ghềnh dữ dội, qua những nắng mưa, sương gió… Hai câu thơ tựa như một bức kí họa đầy ấn tượng về người lính Tây Tiến. Có thể hiểu đây là hình ảnh người lính phong trần buông mình vào giấc ngủ hiếm hoi trong phút dừng chân, một giấc ngủ mệt nhọc nhưng vô tư, trẻ trung; cũng có thể hiểu đây là một câu thơ miêu tả một thực tế đau xót trên chiến trường khi người lính kiệt sức, gục ngã không thể bước tiếp cùng đồng đội. Tuy nhiên, có thể thấy người lính gục xuống khi đang đi giữa hàng quân, nhưng súng mũ vẫn bên mình – như vậy là dù không vượt qua được khó khăn nhưng anh cũng không thoát lui, chùn bước, không đầu hàng khó khăn, không rời bỏ đội ngũ. Và nhất là với cách diễn đạt chủ động trong cụm từ không bước nữa và bỏ quên đời, Quang Dũng đã làm hiện lên sự kiêu bạc, ngang tàn của những người chiến binh dãi dầu mưa nắng. Hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh đã được Quang Dũng biểu hiện bằng cách nói thật lãng mạn, qua đó, nhà thơ đã làm hiện lên không phải khó khăn, đó chính là vẻ đẹp hào hùng của những người chiến sĩ kiên cường sẵn sàng đương đầu với tất cả những thử thách gian truân.

Con đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến không chỉ có gian truân vất vả mà còn có cả những kỉ niệm ngọt ngào, thắm thiết ân tình. Miền Tây không chỉ có núi cao, rừng sâu…, miền Tây còn có những bản làng nên thơ với khói lam chiều ấm áp quyện bên sườn núi, có hương thơm quyến rũ của xôi nếp hương, nhất là có những sơn nữ tình tứ và xinh đẹp:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.

Hai câu thơ là những cụm từ đã được xóa đi những yếu tố kết nối, trở thành một tập hợp từ những ấn tượng của thị giác, khứu giác, xúc giác, thính giác…say người. Mở đầu bằng cụm từ cảm thán Nhớ ôi…, câu thơ bộc lộ cảm xúc nhớ nhung dâng trào mãnh liệt về miền Tây, về bản làng Mai Châu, về những mẹ, những chị những em… trong mùa lúa chín. Sau những chặng đường hành quân giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi cao, vực sâu, giữa những tiếng chân thú dữ rình rập đầy đe dọa, phút rừng chân bên một bản làng miền Tây với bát cơm mới thơm ngào ngạt cùng làn khói bếp ấm áp, mỏng manh vương vấn đã đem đến cho các anh cảm giác thanh bình thật hiếm hoi, quý giá trong chiến tranh. Giống như âm thanh Tiếng gà trưa trên đường hành quân của anh chiến sĩ trong bài thơ Xuân Quỳnh, hương thơm bát xôi nếp đầu mùa ở Mai Châu sẽ mãi là một kỉ niệm khó quên về tình quân dân ấm áp trong cuộc đời người lính chiến.

Câu thơ “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” gợi ra nhiều cách hiểu. Có thể hiểu các chiến sĩ Tây Tiến dừng chân ở Mai Châu giữa mùa lúa chín, đón nhận bát xôi ngào ngạt hương nếp đầu mùa từ bàn tay dịu dàng của các em – những cô gái Mai Châu. Cũng có thể hiểu câu thơ theo một nét nghĩa thật lãng mạn từ hai chữ mùa em. Người ta thường nói mùa hoa, mùa quả… đó là thời điểm căng tràn sung mãn, đầy sắp sắc hương của hoa trái…

Quang Dũng tạo ra một nét nghĩa táo bạo và thật đa tình trong tập hợp từ mới mẻ mùa em khiến cho Mai Châu không chỉ là một địa danh gắn với kỉ niệm thơm thảo của xôi nếp đầu mùa của tình quân dân sâu nặng, Mai Châu còn gợi nhớ tới hình ảnh những cô gái miền Tây duyên dáng. Có người lính nào quên được giây phút dừng chân ở Mai Châu, khi nồng ấm xung quanh của anh là dân làng, là các sơn nữ sóng sánh con mắt, rạng rỡ nụ cười, nồng nàn hương sắc… Những thanh bằng trong câu thơ đã gợi tả tinh tế cảm giác bồng bềnh, xao xuyến tới ngây ngất, đê mê trong tâm hồn những chàng trai Hà Thành hào hoa, lãng mạn.

Khép lại những cuộc hành quân đầy gian khổ và sự khắc nghiệt của núi rừng Tây Tiến, Quang Dũng đưa người đọc trở về với cuộc sống bình dị của đồng bào Tây Bắc, ấm áp nghĩa tình quân dân:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
Kìa em xiêm áo tự bao giờ.
Khèn lên man điệu nàng e ấp,
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ.

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy,
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ?
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?” 

Đây là đoạn thơ tái hiện những ấn tượng sâu sắc về một đêm lửa trại và sau đó là nỗi nhớ của nhà thơ về cảnh và người miền Tây. Thông qua những kỉ niệm và nỗi nhớ ấy, Quang Dũng đã khắc họa sinh động vẻ đẹp lãng mạn, hào hoa của chiến sĩ Tây Tiến. Bốn câu đầu miêu tả những ấn tượng sâu sắc, những cảm nhận tinh tế của chiến sĩ Tây Tiến về một đêm lửa trại nơi trú quân giữa bản làng nào đó ở miền Tây. Câu thơ đầu tiên tựa như một tiếng reo vui:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”.

Đây là lần thứ hai, lửa và đuốc được liên tưởng đến hoa – nếu trong đêm sương Mường Lát, chiến sĩ Tây Tiến nhìn đuốc soi đường lung linh huyền ảo mà thấy như hoa về trong đêm hơi thì lần này, trong một đêm lửa trại giữa bản làng miền Tây, nghệ thuật ẩn dụ và cảm hứng lãng mạn đã  khiến ánh lửa bập bùng nơi đóng quân trở thành đuốc hoa rực rỡ gợi những liên tưởng thi vị, tình tứ, đem đến niềm vui náo nức, rạo rực cho lòng người, niềm vui khiến đêm liên hoan giữa bộ đội và dân làng trở thành đêm hội tưng bừng. Cụm từ bừng lên là một nốt nhấn tươi sáng cho cả câu thơ, nó không chỉ đem đến ấn tượng về ánh sáng – ánh sáng chói lòa, đột ngột của lửa, của đuốc, xua đi cái tăm tối, lạnh lẽo của núi rừng mà còn thể hiện niềm vui sướng rạo rực trong lòng người. Người đọc có thể hình dung ra những ánh mắt ngỡ ngàng, những gương mặt bừng sáng của các chiến sĩ, bừng sáng vì sự phản chiếu của ánh lửa bập bùng đêm hội, bừng sáng còn vì cả ngọn lửa ấm nóng trong tâm hồn, ngọn lửa của niềm vui trẻ trung, lạc quan, ngọn lửa tình yêu với con người và cuộc đời, tình yêu với vùng đất miền Tây.

Hình ảnh trung tâm của hội đuốc hoa là các thiếu nữ miền sơn cước.

“Kìa em xiêm áo tự bao giờ”

Từ kìa và cụm từ nghi vấn tự bao giờ bộc lộ cảm giác vừa ngỡ ngàng thú vị, vừa ngưỡng mộ trìu mến của các chiến sĩ trước sự xuất hiện của các cô gái miền Tây. Đó là cảm giác rất chân thực trong một dịp vui hiếm hoi sau bao ngày hành quân giữa rừng già với núi cao, dốc thẳm, sương dày, với mưa rừng và thú dữ…Với niềm vui tỏa ra từ câu thơ, Quang Dũng còn đưa đến một cảm nhận thú vị bởi sự liên tưởng tới câu thơ đầu: doanh trại bừng lên, gương mặt trẻ trung của các chiến sĩ bừng lên hình như không chỉ vì ánh sáng chói lòa của lửa, của đuốc mà còn vì sự xuất hiện đột ngột của các sơn nữ miền Tây.

Các cô gái hiện lên với hai ấn tượng đẹp đẽ bởi bút pháp mĩ lệ hóa trong xiêm áo lộng lẫy và nét e ấp đầy nữ tính. Những ấn tượng ấy khiến các cô đẹp hơn trước đoàn quân xanh màu lá, duyên dáng hơn trước những người lính dữ oai hùm. Nét tương phản của cảm hứng lãng mạn đã tạo nên chất thi vị làm dịu đi rất nhiều sự khắc nghiệt của chiến tranh. Người lính Tây Tiến không chỉ ngỡ ngàng, thú vị trước vẻ đẹp của các thiếu nữ miền Tây e ấp và duyên dáng mà còn mơ màng trong man điệu núi rừng. “Man điệu” có thể hiểu là vũ điệu uyển chuyển của các sơn nữ, cũng có thể hiểu là giai điệu say đắm, ngọt ngào, vừa hoang sơ, bí ẩn, vừa mới mẻ, lạ lùng làm mê hoặc lòng người.

Với tâm hồn hào hoa, nghệ sĩ đặc biệt nhạy cảm với cái đẹp, người lính Tây Tiến say đắm chiêm ngưỡng và cảm nhận những hình ảnh rực rỡ, những âm thanh ngọt ngào của đêm lửa trại để được thả hồn phiêu diêu bay bổng trong thế giới mộng mơ, để xây hồn thơ giữa những điệu nhảy, điệu múa, những vẻ đẹp say người của phương xa, đất lạ. Câu thơ đã có tới 6 thanh bằng đã giúp nhà thơ diễn tả tinh tế cảm giác mơ màng chơi vơi trong tâm hồn chiến sĩ.

Tới đoạn thơ sau, những hoài niệm rực rỡ và sống động về một đêm lửa trại đã được thay bằng những bâng khuâng xa vắng trong nỗi nhớ mênh mông da diết về cảnh sắc, con người miền Tây. Câu thơ đầu như một lời nhắn nhủ tha thiết về miền Tây:

“Người đi châu Mộc chiều sương ấy”

Nỗi nhớ miền Tây được gửi vào lời nhắn vào người đi, nhưng đâu phải nhắn với ai đó mơ hồ mà thực ra nhà thơ đang để lòng mình da diết hướng về châu Mộc, hướng về vùng núi rừng miền Tây trong một chiều sương nhạt nhòa, màn sương huyền ảo của núi rừng, màn sương mờ của hoài niệm, của nỗi nhớ nhung. Trong tiếng Việt, ấy là một đại từ chỉ định luôn đem lại sắc thái xa xôi mơ hồ cùng nỗi nhớ nhung, tiếc nuối, bâng khuâng cho những danh từ đứng trước nó như: thuở ấy, ngày ấy, người ấy…Vào cuối năm 1948, khi đang ngồi ở Phù Lưu Chanh, một làng quê của đồng bằng Bắc Bộ, Quang Dũng cũng nhắc về chiều sương ấy với bao nỗi nhớ thương lưu luyến khi Châu Mộc trở nên nhạt nhòa trong sương khói và buổi chiều miền Tây với cảnh, với người, với những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình đã bị đẩy vào một quá khứ thật xa xăm.

Sau lời nhủ thầm xao xuyến, nhà thơ cất lên những tiếng hỏi mà phép điệp trong cấu trúc có thấy hồn lau… có nhớ dáng người…đã thể hiện nỗi nhớ nhung đầy trăn trở hướng về cảnh và người miền Tây. Câu hỏi thứ nhất hướng về hàng lau xám buồn bên bờ sông hoang dại:

“Có thấy hồn lau nẻo bến bờ”

Nét đặc sắc trong câu thơ chính là hình ảnh ẩn dụ về hồn lau thay vì bờ lau, hàng lau hay rừng lau…Hoa lau có màu xám trắng, bông lau được tạo bởi muôn ngàn hạt nhỏ li ti nên chỉ cần một chút gió rất nhẹ, những bông lau mềm mại, nhẹ nhàng cũng xao động, cả bờ lau đung đưa mềm mại. Sắc trắng tinh khôi, huyền hoặc của hoa lau trong chiều sương nhạt nhòa mờ ảo, cái phơ phất của ngàn lau trong xạc xào gió núi… đã khiến rừng lau như có hồn, như biết sẻ chia nỗi niềm với con người, sự giao cảm khiến nỗi nhớ càng mênh mông da diết. Khi đã xa miền tây, câu hỏi “Có thấy hồn lau nẻo bến bờ” càng làm xao xuyến lòng người. Hoa lau thường mọc ven bờ sông, triền núi, cụm từ nẻo bến bờ gợi một không gian hoang vu, hiu quạnh, man mác u buồn, nơi vắng người lại qua. Trong những năm tháng quá khứ, người chiến sĩ Tây Tiến hành quân giữa núi rừng miền Tây, bên dòng sông Mã, giữa phơ phất ngàn lau, lau như linh hồn của cỏ cây, rừng núi chia sẻ buồn vui với chiến sĩ trên đường hành quân; nay người đã đi xa, ngàn lau vẫn ở lại giữa mênh mông gió núi, hình dung về những hàng lau cô đơn nẻo bến bờ khiến nỗi nhớ càng xao xác trong lòng người chiến sĩ đã gắn bó và đã chia xa miền Tây.

Câu hỏi thứ hai dành cho con người miền Tây:

“Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?”

Trong màn sương mờ nhạt nhòa của hoài niệm, khi nhà thơ để lòng mình trở về với Châu Mộc chiều sương ấy, con người miền Tây chỉ hiện lên như một bóng dáng mờ xa, huyền ảo. Dáng người ấy vừa cứng cỏi, kiên cường trên con thuyền độc mộc đè thác lũ băng băng lướt tới, vừa mềm mại duyên dáng trong hình ảnh ẩn dụ hoa đong đưa. Nếu từ láy đung đưa  gợi hình hơn biểu cảm và chủ yếu gợi tả những cánh hoa rập rờn đôi bờ sông thì hình ảnh hoa đong đưa  không dừng lại ở nét nghĩa cụ thể ấy mà còn đưa đến những liên tưởng thi vị về dáng vẻ dịu mềm, tình tứ của sơn nữ miền Tây, đó là một sáng tạo mới mẻ về ngôn từ thể hiện chất lãng mạn rất đặc sắc của hồn thơ Quang Dũng.

Rời xa những đêm hội vui, người lính lại trở về với nhiệm vụ chiến đấu. Quang Dũng hướng ngòi bút khắc họa đậm nét hình ảnh của những người lính vừa chan thực, bình dị, vừa hết sức hào hùng:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.

Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”. 

Thông qua nỗi nhớ về cuộc sống chiến đấu gian khổ và hi sinh anh dũng của những chiến binh Tây Tiến, đoạn thơ đã trở thành một bức tượng đài về hình ảnh người chiến sĩ Tây Tiến với vẻ đẹp hào hùng của lí tưởng cao cả, của ý chí kiên cường, của sự hy sinh dũng cảm cùng vẻ đẹp hào hoa lãng mạn của những tâm hồn đằm thắm mộng mơ.

Ở bốn câu đầu, nhà thơ đã tái hiện chân thực cuộc sống chiến đấu gian khổ, hào hùng của chiến sĩ Tây Tiến trong những năm tháng kháng chiến. Trong ký ức của Quang Dũng, Tây tiến là một “đoàn binh không mọc tóc”. Nét vẽ ngoại hình này xuất phát từ một hiện thực trong cuộc sống của lính Tây Tiến: họ phải cạo trọc đầu để giảm bớt những bất tiện trong cuộc sống ở rừng, hoặc tạo thuận lợi hơn cho trận chiến, cũng có thể đó là hậu quả của những trận sốt rét liên miên nơi rừng thiêng nước độc. Dù hiểu theo cách nào, đó cũng là hình ảnh gợi lên sự gian khổ, thiếu thốn khắc nghiệt của chiến tranh. Nhưng với cách diễn đạt độc đáo của Quang Dũng, cũng như trong câu thơ Anh bạn dãi dầu không bước nữa, câu thơ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc đã chuyển hoàn toàn tình thế bị động sang trạng thái chủ động, người lính Tây Tiến vì thế hiện lên không tiều tụy, nheo nhếch mà kiêu dũng, ngang tàng. Hơn thế nữa, còn có thể coi hình ảnh đoàn binh không mọc tóc là một nét vẽ phi thường làm đậm thêm cảm hứng lãng mạn cho hình tượng thơ.

Chân dung người lính Tây Tiến còn được vẽ tiếp trong nét ngoại hình đặc sắc:

“Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Có thể hiểu đây là màu xanh áo lính hay màu xanh của lá ngụy trang khiến cả đoàn quân xanh màu lá. Nhưng theo mạch thơ, có lẽ nên hiểu đây là câu thơ miêu tả những gương mặt xanh xao, gày ốm vì sốt rét, vì cuộc sống kham khổ ở rừng. Có thể nhận ra cách diễn đạt tinh tế của Quang Dũng khi nhà thơ miêu tả một đoàn quân xanh màu lá chứ không phải xanh xao, người lính Tây Tiến như hòa với thiên nhiên cây lá – ốm mà không yếu, gày ốm mà vẫn trẻ trung, tràn đầy sức sống. Có thể thấy không mọc tóc và xanh màu lá là cách diễn tả đẹp và thanh của cảm hứng lãng mạn về một hiện thực thô ráp, nặng nề của chiến tranh. Và ngay trong vế sau của câu thơ đã là một tương phản độc đáo giữa xanh màu lá và dữ oai hùm – trên những gương mặt xanh xao gày ốm của người lính vẫn toát lên nét dữ dội kiêu hùng, vẻ uy nghi lẫm liệt tựa như những vị chúa tể rừng xanh!

Cùng với hình ảnh về một đoàn binh không mọc tóc, những gương mặt dữ oai hùm cũng là nét vẽ đặc sắc, ấn tượng của cảm hứng lãng lạn trong bức chân dung phi thường về người chiến binh Tây Tiến. Hình ảnh ẩn dụ dữ oai hùm còn gợi liên tưởng tới cọp trêu người ở đoạn trên – một liên tưởng thú vị, trìu mến, tự hào: dường như ở miền đất có bóng hổ rình rập đe dọa với cọp trêu người thì người lính cũng phải có oai hùm dữ dội, uy nghi để chế ngự và chiến thắng! Miêu tả người chiến sĩ Tây Tiến trong gian khổ, bệnh tật nhưng Quang Dũng không chú trọng vào gian khổ cùng hậu quả của nó mà nghiêng về ca ngợi vẻ đẹp phi thường, lãng mạn, hào hùng, đem đến ấn tượng mạnh mẽ về tinh thần dũng cảm, ý chí kiên cường vượt lên khó khăn, chiến thắng khó khăn.

Bức tượng đài chiến sĩ Tây Tiến không chỉ có nét ngang tàng oai phong trong dáng vẻ dữ dội, uy nghi mà còn được thể hiện ở chiều sâu đẹp đẽ trong tâm hồn:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”.

“Mắt trừng” là ánh mắt mở to, hướng thẳng về phía trước, ánh mắt ngời lên ý chí chiến đấu và khát vọng chiến thắng, khát vọng gửi trong mộng chiến trường cao đẹp của những người trai thời loạn. Đây thực chất là một hình ảnh ước lệ của cảm hứng lãng mạn nhằm tôn thêm sự oai phong lẫm liệt trong dáng vẻ, nét kiêu hùng, ngạo nghễ của một đoàn binh không mọc tóc với những gương mặt dữ oai hùm. Câu thơ đã khắc họa nét đẹp lãng mạn trong tâm hồn những người lính có lí tưởng và khát vọng lớn lao, ra đi vì nghĩa lớn như tráng sĩ xưa:

“Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu”.

Những chàng trai Hà Nội ra đi vì sức vẫy gọi mãnh liệt của lí tưởng song trái tim họ vẫn luôn dành một góc lưu luyến nhớ nhung về Hà Nội dáng kiều thơm. Theo cấu trúc câu có thể hiểu người lính miền viễn xứ khi xa quê vẫn mơ màng nhớ về Hà Nội, nhớ về Thủ đô hoa lệ đẹp như một dáng kiều thơm; càng có thể hiểu theo một cách rất lãng mạn, đó là nỗi nhớ về những thiếu nữ Hà Thành với bóng dáng kiều diễm, đáng yêu. Qua hình ảnh ẩn dụ về dáng kiều thơm, câu thơ đã gợi cả vóc dáng, cả sắc hương những cô gái Hà Nội hào hoa, thanh lịch trong mỗi nhớ nhung của những người lính xa nhà. Vũ Quần Phương có nhận xét: “Hai câu thơ như chứa đựng cả thế giới”.

Sự tương đồng trong hai nét nghĩa của mộng và mơ, sự tương phản của hai thế giới nghĩa chung và tình riêng đã cùng nhau làm nên vẻ đẹp toàn vẹn cho tâm hồn người lính: họ không chỉ có lí tưởng cao cả, ý chí kiên cường, sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn mà còn là những chàng trai lãng mạn, mộng mơ có trái tim chan chứa tình yêu thương. Cũng như hình ảnh Người ra đi đầu không ngoảnh lại – Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy trong một sáng mùa thu trước cách mạng, và sau đó là người lính trong “Những đêm dài hành quân nung nấu / Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu” ( Nguyễn Đình Thi ), hình ảnh những chàng trai Hà Nội trong đoàn quân Tây Tiến cũng thật kiêu hùng, lãng mạn khi tình yêu thương là động cơ đẹp đẽ để họ ra đi chiến đấu còn lí tưởng cách mạng lại khiến tình yêu thương thêm cao cả, lớn lao; đó là những nét khắc họa chân thực và cảm động về cả một thế hệ người Việt Nam dằn lòng gạt tình riêng, ra đi vì nghĩa lớn.

Đoạn thơ sau trực tiếp miêu tả sự hi sinh anh dũng của chiến sĩ Tây Tiến. Câu thơ đầu đem đến một cảm giác buồn bã, ảm đạm về cái chết:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”

Nhịp ngắt 4/3 khiến trọng tâm câu thơ rơi vào chữ mồ, một âm tiết mang thanh bằng ở âm vực thấp, một từ gợi ý nghĩa hiện hữu của cái chết, câu thơ vì thế đem đến cảm giác trầm buồn và ảm đạm. Trong một câu thơ và một đoạn thơ dùng rất nhiều từ Hán Việt thì mồ là một từ thuần Việt có giá trị biểu đạt và biểu cảm thật xúc động. Không sử dụng từ mộ trang trọng, mồ là một danh từ miêu tả chính xác thực tế chiến trường lúc đó khi các anh hi sinh trên đường hành quân, việc chôn cất sơ sài, vội vã, đồng đội xót lòng để các anh lại trong những nấm đất hoang lạnh, hiu hắt, đơn sơ trên đường. Bản thân cái chết đã gợi lên sự buồn bã, càng lạnh lẽo hơn khi các anh không được nằm bên nhau, những nấm mồ cứ rải rác trêm từng chặng đường hành quân gian khổ, những nấm mồ thiếu hơi ấm của gia đình, quê hương, đất nước, sự hi sinh của các anh càng làm đau lòng người sống.

Tây Tiến là một trong số không nhiều các tác phẩm văn chương thời kháng chiến chống Pháp trực tiếp miêu tả sự mất mát hi sinh của người lính, thậm chí bằng những câu thơ gợi nỗi bi thương đau xót nhất. Có thể nhận ra nét nghĩa tương đồng trong cả 4 từ của câu thơ khi tất cả đều ít nhiều gợi tới sự xa xôi: rải rác gợi khoảng cách của những nấm mồ nằm xa nhau dọc đường hành quân, biên cương là miền đất xa nhất của đất nước, cũng có thể coi là viễn xứ, xứ xa, mồ là hình ảnh của cái chết, gợi sự chia lìa xa cách của tử liệt sinh li, của sự sống và cái chết, của cõi dương và cõi âm…Những nét nghĩa ấy cùng hướng đến miêu tả một thực tế: rất nhiều cái chết, rất nhiều nấm mồ của những người con xa quê nằm lại miền viễn xứ – phép điệp nghĩa tinh tế chính là nguyên nhân đưa đến cảm giác ảm đạm, lạnh lẽo cho cả câu thơ.

Tuy nhiên, Tây Tiến bi mà không lụy, ảm đạm mà không yếu mềm, cảm hứng bi tráng đã trở thành âm hưởng chủ đạo của đoạn thơ, của bài thơ, đem đến sự mạnh mẽ hào hùng cho đau thương, mất mát. Một trong những yếu tố đầu tiên đem đến sắc thái mạnh mẽ, hào hùng cho đoạn thơ chính là việc Quang Dũng sử dụng hàng loạt các từ Hán Việt “ Biên cương, viễn xứ, chiến trường, độc hành…” khiến sự hi sinh của chiến sĩ Tây Tiến được đặt vào không khí thiêng liêng trang trọng, tạo tâm thế ngưỡng mộ đầy tôn kính cho người đọc. Và cảm giác ảm đạm ngậm ngùi trong câu 1 đã nhanh chóng được xóa đi bởi  tứ thơ mạnh mẽ, rắn rỏi như một lời tuyên thệ trong câu 2:

“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Hình tượng thơ đậm chất bi tráng, phảng phất hình ảnh những tráng sĩ xưa Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao, đó là khí phách của những con người dũng cảm, kiên cường, sẵn sàng gạt tình riêng, ôm chí lớn ra đi không vương thê nhi. Cũng với cách diễn đạt chủ động trong sắc thái phủ định như câu thơ Anh bạn dãi dầu không bước nữa, câu thơ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh đã tô đậm lý tưởng cao cả và khí phách kiên cường của những người chiến sĩ anh hùng quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh. Đời xanh là một hình ảnh ẩn dụ cho tuổi thanh xuân, thời gian đẹp nhất trong cuộc đời, quãng thời gian một đi không trở lại; nhịp đi liền mạnh trong câu thơ “ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…” cho thấy ý chí quyết tâm cao độ của những người thanh niên ưu tú sẵn sàng hiến dâng cuộc đời và tuổi thanh xuân , cũng có nghĩa là sẵn sàng hiến dâng phần đời đẹp nhất cho đất nước. Đó cũng là tâm nguyện, ý chí cao đẹp của những người thanh niên Việt Nam thời chống Mĩ đã được Thanh Thảo thể hiện trong những câu thơ chân thành, thấm thía xúc động:

“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ Quốc”.

(Thanh Thảo)

Như vậy sau câu thơ đầu nói về cái chết, về những nấm mồ, câu thơ tiếp theo lại khẳng định ý chí, lý tưởng và khí phách của chiến sĩ Tây Tiến. Phải chăng đây chính là hàm ý sâu xa của nhà thơ: Các anh đã nằm lại trong những nấm mồ miền viễn xứ nhưng khí phách, tinh thần vẫn sống mãi tuổi 20, và với tổ quốc, với nhân dân, các anh là bất tử, vẻ đẹp hào hùng toát ra từ ý chí, tâm nguyện của các anh vẫn có sức cổ vũ mãnh liệt tới muôn đời.

Không chỉ hình ảnh của cái chết, câu thơ miêu tả việc chôn cất, tiễn biệt tử sĩ cũng gây ấn tượng rất mạnh mẽ với người đọc:

“Áo bào thay chiếu anh về đất”

Bút pháp mĩ lệ hóa của cảm hứng lãng mạn đã biến tấm áo quân phục sờn rách của người lính chiến thành tấm áo bào đẹp đẽ, thiêng liêng. Quang Dũng có kể lại: “  Khi tử sĩ nằm xuống không đủ manh chiếu để liệm,nói áo bào thay chiếu là mượn cách nói của thơ trước đây để an ủi những người đồng chí vừa ngã xuống”. Vượt lên trên hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh, trong cảm nhận của Quang Dũng, những đồng đội thân yêu của ông khi ngã xuống vẫn được khâm liệm trong những tấm áo bào trang trọng vốn chỉ dành cho những tráng sĩ anh hùng xả thân vì đất nước. Hình tượng thơ không chỉ làm dịu vợi nỗi đau trước hiện thực tàn nhẫn của chiến tranh mà còn hàm chứa niềm biết ơn, cảm phục sâu xa với công lao những chiến sĩ anh hùng. Cũng từ câu nói của Quang Dũng, hình ảnh áo bào thay chiếu còn gợi liên tưởng đến lý tưởng cao quý của một thời coi việc chết ngoài chiến địa lấy da ngựa bọc thây làm niềm tự hào của đấng trượng phu, coi chí làm trai dặm nghìn da ngựa là tâm nguyện thiêng liêng cao quý của những người trai thời loạn; người lính Tây Tiến hôm nay cũng xem việc hi sinh nơi chiến trường, được khâm niệm bằng tấm áo của chính mình là niềm vinh quang của những người con sẵn sàng quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh.

Sự bi thảm của cái chết đã được xóa đi không chỉ vì lý tưởng cao cả và khí phách hào hùng mà còn bởi  cách nói giảm khi coi chết chỉ là về đất. Không chỉ làm dịu nhẹ nỗi đau, hình ảnh về đất còn gợi những tầng nghĩa sâu sắc: đất là hình ảnh gợi sự bền vững muôn đời của non sông đất nước; về gợi bao ấm áp bình yên từ sự đón nhận và nâng niu ấp ủ…Các anh đã từ biệt gia đình, quê hương, ra đi về miền viễn xứ với mộng chiến trường cao đẹp, các anh đã chiến đấu kiên cường, đã hi sinh anh dũng vì Tổ Quốc, nay Tổ Quốc trìu mến, yêu thương mở rộng vòng tay đón nhận những người con thân yêu trở về, thanh thản yên nghỉ trong lòng đất Mẹ, tựa như người chiến sĩ trong thơ Tố Hữu Vui vẻ chết như cày xong thửa ruộng – lòng khỏe nhẹ, anh dân quê vui sướng – ngả mình trên liếp cỏ ngủ ngon lành… Sự trở về này đã nhập các anh vào thế giới vĩnh hằng của cha ông, thế giới của…những người chưa bao giờ khuất – đêm đêm rì rầm trong tiếng đất – những buổi ngày xưa vọng nói về (Nguyễn Đình Thi).

Âm hưởng bi ráng gợi ra từ hình tượng người chiến sĩ Tây Tiến đã được Quang Dũng đẩy lên tới đỉnh điểm trong câu kết đoạn:

“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”

Sông Mã đã từng xuất hiện trong tiếng gọi tha thiết ở đầu mà thơ “Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!” như một biểu tượng của miền Tây, của Tây Tiến, của quá khứ, nay Sông Mã trở lại với âm thanh dữ dội hào hùng trong cảnh tiễn đưa sĩ tử. Từ âm thanh của tiếng sóng sông Mã, nghệ thuật nhân hóa trong cụm từ gầm lên đã thể hiện trọn vẹn tính chất dữ dội trong những cung bậc cảm xúc mạnh mẽ và sâu sắc nhất với những bi phẫn, đau xót, những tiếc thương, cảm phục…Sông Mã từng gắn bó với các anh trong suốt chặng đường hành quân gian khổ qua miền Tây, nay sông Mã lại là chứng nhân lịch sử thay lời cho cả thiên nhiên, đất trời, núi sông gầm vang khúc độc hành bi tráng đưa tiễn những người con yêu quí trở về yên nghỉ trong lòng đất mẹ. Cũng có thể thấy ý nghĩa của khúc độc hành vừa mạnh mẽ hào tráng vì là khúc ca dành cho những chiến sĩ anh hùng, vừa phảng phất âm hưởng cô đơn, ngậm ngùi, buồn bã bởi đây là cảm giác không tránh khỏi khi đứng trước cái chết, khi phải đưa tiễn những người thân yêu trong chuyến đi cuối cùng luôn luôn là đơn độc.

Đoạn kết là khúc vĩ thanh nhớ nhung miền Tây và Tây Tiến. Trở về với hiện tại, miền Tây và Tây Tiến đã lùi xa trong kí ức, trong nỗi nhớ nhung:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước,
Đường lên thăm thẳm một chia phôi.
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.

Tác giả nhắc đến hình ảnh người đi trong những nét nghĩa mơ hồ: có thể hiểu nhà thơ nhắc đến những chiến binh Tây Tiến, những chàng trai Hà Nội năm xưa từ biệt quê hương, ra đi Tây Tiến không hẹn ước ngày về; lên với miền Tây thăm thẳm xa mờ, xa mịt – cách hiểu này gợi niềm mến thương cảm phục với những người anh hùng, nỗi xót xa với những người chiến sĩ, mùa xuân ấy, ra đi từ đó không về… Cũng có thể hiểu nhà thơ nhắc tới thời điểm cuối năm 1948, khi ông đang ở Phù Lưu Chanh, bâng khuâng nhớ về việc mình đã chia xa trung đoàn Tây Tiến không hẹn ước ngày về, đã từ biệt miền Tây không biết bao giờ gặp lại, bởi Đường lên thăm thẳm một chia phôi – cách hiểu xao xác nỗi nhớ nhung với những gì thân yêu nhất trong lòng nhà thơ, một cựu chiến binh Tây Tiến.

Những năm tháng ngắn ngủi sống trong đoàn binh Tây Tiến đã để lại trong lòng nhà thơ những hoài niệm không thể phai mờ. Bài thơ kết lại bằng lời nhắn nhủ thiết tha:

“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy,
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.

Có thể hiểu nhà thơ đang thể hiện một tâm nguyện âm thầm mà thủy chung, son sắt của tất cả những Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy, trong lòng họ, thời gian gắn bó với trung đoàn, với miền Tây từ mùa xuân ấy là khoảng thời gian quí giá nhất trong cuộc dời, khoảng thời gian vời vợi nhớ thương. Dù có thể chia xa nhưng tâm hồn người lính Tây Tiến sẽ mãi đi về với miền Tây, với những Sầm Nứa, Pha Luông, Mường Hịch…những vùng đất xa xôi đựng đầy kỉ niệm với đồng đội, với trung đoàn Tây Tiến trong những năm tháng gian khổ hào hùng bởi “khi ta ở chỉ là nơi đất ở – khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn” (Chế Lan Viên). Cũng có thể hiểu nhà thơ đang xót xa nhắc đến những người đồng đội đã vĩnh viễn mằm lại trong những nấm mồ cô đơn miền viễn xứ. Họ đã lên Tây Tiến mùa xuân ấy, đã chiến đấu kiên cường, đã hi sinh dũng cảm; linh hồn và thân xác họ đã vĩnh viễn ở lại với miền Tây, để lại nỗi nhớ thương da diết, nỗi chua xót ngậm ngùi cho những người còn sống.

  • Kết bài:

Bài thơ Tây Tiến đã thể hiện những nét đặc sắc nhất trong phong cách nghệ thuật của Quang Dũng, đó là bút pháp tương phản đầy ấn tượng của cảm hứng lãng mạn, là chất họa và chất nhạc đậm nét với giá trị biểu cảm mạnh mẽ, là chất bi tráng đưa đến những xúc động sâu sắc trong lòng người. Qua đó, Quang Dũng đã khắc họa sâu đậm hình ảnh người chiến binh Tây Tiến trong cả cuộc sống chiến đấu gian khổ và hi sinh anh dũng, làm hiện lên vẻ đẹp toàn vẹn trong tâm hồn các anh, những người lính kiêu dũng, ngang tàng và lãng mạn, hào hoa. Hình ảnh các anh càng làm rõ thêm cảm hứng chủ đạo của bài thơ: nỗi nhớ tha thiết của người cựu chiến binh Tây Tiến hướng về miền Tây, trung đoàn Tây Tiến và những năm tháng oanh liệt, hào hùng không thể nào quên.

* CÂU HỎI VÀ ĐỀ LUYỆN TẬP.

Đề 1. “Xét về phương diện nghệ thuật, cảm hứng lãng mạn và âm hưởng bi tráng là hai nét đặc sắc cơ bản bao trùm bài thơ”. Em hãy phân tích bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng để làm sáng tỏ nhận định trên.

Đề 2. Về hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, có ý kiến cho rằng: người lính ở đây có dáng dấp tráng sĩ thủo trước. Ý kiến khác thì nhấn mạnh: hình tượng người lính mang đậm vẻ đẹp của người chiến sĩ thời kì chống Pháp.

Đề 3. Vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên và tình người được thể hiện như thế nào qua cách cảm nhận và thể hiện riêng của Quang Dũng ở đoạn thơ:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.