Đọc hiểu văn bản “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam).

hai-dua-tre-thach-lam-678

Đọc hiểu văn bản “Hai đứa trẻ” (Thạch Lam)

I. Tìm hiểu chung:

1 .Tác giả:

– Thạch Lam tên  khai  sinh là  Nguyễn  Tường  Vinh ( sau  đổi  thành  Nguyễn  Tường  Lân), 1910 – 1942. Ông là  em  ruột  của  Nhất  Linh  và  Hoàng  Đạo.  Cả  ba  người  là  thành  viên  của  nhóm Tự lực văn đoàn.

– Thuở  nhỏ,  sống  ở  quê  ngoại  –  phố  huyện  Cẩm  Giàng,  Hải  Dương ( sau  này  trở  thành  không  gian  nghệ  thuật  trong các tác phẩm của nhà văn).

–  Là  con  người  điềm  đạm,  nồng  hậu  và rất đỗi tinh tế.

– Có biệt tài về truyện ngắn.

– Truyện  không  có  chuyện,  chủ  yếu  khai thác nội tâm nhân vật.

– Mỗi  truyện  như  một  bài  thơ  trữ  tình,  giọng  điệu  điềm  đạm,  chứa  đựng  tình  cảm  chân  thành  và  sự  nhạy  cảm  tinh  tế của nhà văn.

– Văn  Thạch  Lam  trong  sáng,  giản  dị  mà thâm trầm, sâu sắc.

2 . Truyện “Hai đứa trẻ”:

– Trích  trong  tập  “Nắng  trong  vườn”  (1938).

– Tiêu  biểu  cho  truyện  ngắn  của  Thạch  Lam,  kết  hợp  giữa  hai  yếu  tố  hiện thực và lãng mạn.

– Bối  cảnh  truyện:  quê  ngoại  của  tác  giả  –  phố  huyện,  ga  xép  Cẩm  Giàng,  tỉnh Hải Dương.

II. Đọc hiểu văn bản.

1.  Bức  tranh  phố  huyện  lúc  chiều tàn:

a.  Bức  tranh  thiên  nhiên  nơi  phố huyện lúc chiều tàn:

– Âm thanh:

+  Tiếng  trống  thu  không  gọi  chiều về.

+  Tiếng  ếch  nhái  kêu  ran  ngoài  đồng ruộng.

+ Tiếng muỗi vo ve.

(“Tiếng  trống  thu  không  …  trên  nền trời”)

– Hình ảnh, màu sắc:

+  “ Phương  tây  đỏ  rực  như  lửa  cháy ”,

+  “ Những  đám  mây  ánh  hồng  như hòn than sắp tàn ”.

– Đường  nét:  dãy  tre  làng  cắt  hình rõ rệt trên nền trời.

Bức  hoạ  đồng  quê  quen  thuộc,  bình  dị,  thơ  mộng,  gợi  cảm,  mang cốt cách Việt Nam.

–  Câu  văn:  dịu  êm,  nhịp  điệu  chậm,  giàu  hình  ảnh  và  nhạc  điệu, uyển chuyển, tinh tế    Người  đọc  nhìn,  nghe,  xúc  cảm  trước  một  bức  tranh  quê  rất  Việt Nam.

b.  Cảnh  chợ  tan  và  những  kiếp  người nơi phố huyện:

– Cảnh chợ tàn:

+  Chợ  đã  vãn  từ  lâu,  người  về  hết và tiếng ồn ào cũng mất.

+  Chỉ  còn  rác  rưởi,  vỏ  bưởi,  vỏ  thị, lá nhãn và lá mía.

– Hình ảnh con người:

+  Mấy  đứa  trẻ  con  nhà  nghèo  tìm  tòi,  nhặt  nhanh  những  thứ  còn sót lại ở chợ.

+  Mẹ  con  chị  Tí:  với  cái  hàng  nước đơn sơ, vắng khách.

+  Bà  cụ  Thi:  hơi  điên  đến  mua  rượu  lúc  đêm  tối  rồi  đi  lần  vào  bóng tối.

+  Bác  Siêu  với  gánh  hàng  phở  –  một thứ quà xa xỉ.

+  Gia  đình  bác  xẩm  mù  sống  bằng  lời  ca  tiếng  đàn  và  lòng  hảo  tâm của khách qua đường.    Cảnh  chợ  tàn  và  những  kiếp  người  tàn  tạ:  sự  tàn  lụi,  sự  nghèo  đói,  tiêu  điều  của  phố  huyện  nghèo.

d. Tâm trạng của Liên:

– Cảm  nhận  rất  rõ:  “mùi  riêng  của đất, của quê hương này”.  –  Cảnh  ngày  tàn  và  những  kiếp  người  tàn  tạ:  gợi  cho  Liên  nỗi  buồn thậm thía.

– Động  lòng  thương  những  đứa  trẻ  nhà  nghèo  nhưng  chính  chị cũng  không  có  tiền  mà  cho  chúng.

– Xót  thương  mẹ  con  chị  Tí:  ngày  mò  cua  bắt  tép,  tối  dọn  cái  hàng  nước  chè  tươi  chả  kiếm  được bao nhiêu.

→ Liên  là  một  cô  bé  có  tâm  hồn  nhạy  cảm,  tinh  tế,  có  lòng  trắc  ẩn, yêu thương con người.

– Liên  là  nhân  vật  Thạch  Lam  sáng  tạo  để  kín  đáo  bày  tỏ  tình  cảm của mình:

+  Yêu  mến,  gắn  bó  với  thiên  nhiên đất nước.

+  Xót  thương  đối  với  những  kiếp  người nghèo khổ.

2.  Bức  tranh  phố  huyện  lúc  đêm khuya:

a.  Hình  ảnh  của  “bóng  tối”  và  “ánh sáng”:

– Phố  huyện  về  đêm  ngập  chìm  trong bóng tối:

+  “ Đường  phố  và  các  ngõ  con  dần dần chứa đầy bóng tối ”.

+  “ Tối  hết  con  đường  thẳm  thẳm  ra  sông,  con  đường  qua  chợ  về  nhà,  các  ngõ  vào  làng  càng  sẫm  đen hơn  nữ a”.

→ Bóng  tối  xâm  nhập,  bám  sát  mọi  sinh  hoạt  của  những  con  người nơi phố huyện.

– Ánh  sáng  của  sự  sống  hiếm  hoi, bé nhỏ. Đó  là  thứ  ánh  sáng  yếu  ớt,  le  lói  như  những  kiếp  người  nghèo  khổ nơi phố huyện.

– Ánh  sáng  và  bóng  tối  tương  phản nhau. Biểu  trưng  cho  những  kiếp  người  nhỏ  bé  sống  leo  lét,  tàn  lụi  trong  đêm  tối  mênh  mông  của  xã  hội cũ.

b.  Đời  sống  của  những  kiếp  người  nghèo  khổ  trong  bóng tối:

–  Vẫn  những  động  tác  quen  thuộc:

+ Chị Tí dọn hàng nước

+ Bác Siêu hàng phở thổi lửa.

+  Gia  đình  Xẩm  “ ngồi  trên  manh  chiếu  rách,  cái  thau  sắt  để  trước  mặt ”,  “ Góp  chuyện  bằng  mấy  tiếng  đàn  bầu  bật  trong  im  lặng

+  Liên,  An  trông  coi  cửa  hàng  tạp hoá nhỏ xíu.

→ Sống  quẩn  quanh,  đơn  điệu  không lối thoát.

– Vẫn  suy  nghĩ  và  mong  đợi  như  mọi  ngày:  Mong  những  người phu  gạo,  phu  xe,  mấy  chú  lính  lệ  vào  hàng  uống  bát  che  tươi  và  hút điếu thuốc lào.

– Vẫn  mơ  ước:  “ chừng  ấy  người  trong  bóng  tối  dang  mong  đợi  một  cái  gì  tươi  sáng  cho  cuộc  sống  nghèo  khổ  hàng  ngày  của  họ

→ Ước  mơ  mơ  hồ:  tình  cảnh  tội  nghiệp  của  những  người  sống  mà  không  biết  số  phận  mình  sẽ  ra sao.

– Giọng  văn:  chậm  buồn,  tha  thiết  thể  hiện  niềm  cảm  thương  của  Thạch  Lam  với  những  người  nghèo khổ.

3.  Hình  ảnh  chuyến  tàu  và  tâm  trạng  chờ  mong  chuyến  tàu  đêm của Liên và An:

– Lí do:

+ Để bán hàng (theo lời mẹ dặn).

+  Để  được  nhìn  chuyến  tàu  đêm  đi  qua  –  hoạt  động  cuối  cùng  của  đêm khuya.

–   Hình ảnh đoàn tàu:

+ Âm thanh : sôi động

+  Ánh sáng : rực rỡ

→ Con  tàu  như  đã  đem  một  chút thế giới khác đi qua.

* Âm thanh:

Đoàn tàu Phố huyện
Còi xe lửa  kéo dài Tiếng trống thu không từng tiếng một.
Tiếng dồn  dập Tiếng ếch  nhái thưa thớt.
Tiếng rít  mạnh vào ghi Tiếng muỗi  bay vo ve đơn điệu.
Còi rít lên. Tàu rầm  rộ đi tới Tiếng đàn  bầu bật trong yên  lặng

* Ánh sáng

Đoàn tàu Phố huyện
Ngọn lửa  xanh biếc. Khe sáng nhỏ.
Khói bừng sáng  trắng. Quầng sáng.
Đèn sáng  trưng. Đồng và  kền lấp  lánh. Chấm nhỏ và  vàng lơ lửng.
Các cửa  kính sáng. Thưa thớt  từng hột sáng.

*  Ý  nghĩa  biểu  tượng  của  ảnh con tàu:

– Biểu  tượng  của  một  thế  đáng  sống:  sự  giàu  sang  và  rỡ  ánh  sáng,  nó  đối  lập  với  sống  mỏi  mòn,  nghèo  khổ,  tăm của người dân phố huyện.

– Hình  ảnh  của  Hà  Nội,  của  phúc,  của  những  kí  ức  tuổi  êm đềm.

– Là  khát  vọng  vươn  ra  ánh   vượt  qua  cuộc  sống  tù  túng,  quanh,  không  cam  chịu  sống  tầm  thường,  nhạt  đang vây quanh.

*  Thông  điệp  nhà  văn   gửi gắm:

–  Đừng  để  cuộc  sống  chìm   cái  “ao  đời  phẳng  lặng”  (Xuân Diệu).  Con  người  phải  sống  cho  ra  sống,  phải  không  ngừng  khao  khát  và  xây  dựng  cuộc  sống  có  ý  nghĩa.

–  Những  ai  phải  sống  trong  một  cuộc  sống  tối  tăm,  mòn  mỏi,  tù  túng,  hãy  cố  vươn  ra  ánh  sáng,  hướng  tới  một  cuộc  sống  tươi  sáng → Giá  trị  nhân  đạo  sâu  sắc  của  tác phẩm.

III. Tổng kết:

1. Nội dung:

Truyện  ngắn  Hai  đứa  trẻ  thể  hiện  niềm  cảm  thương  chân  thành  của  Thạch  Lam  đối  với  những  kiếp  sống  nghèo  khổ,  chìm  khuất  trong  mỏi  mòn,  tăm  tối,  quẩn  quanh  nơi  phố  huyện  trước  Cách  mạng  và  sự  trân  trọng  với  những  mong  ước  bé  nhỏ, bình dị mà tha thiết của họ.

2.  Nghệ thuật:

– Cốt  truyện  đơn  giản,  nổi  bật  những  dòng  tâm  trạng  chảy  trôi,  những  cảm  xúc,  cảm  giác  mong  manh  mơ  hồ  trong  tâm  hồn  nhân  vật.

– Bút pháp tương phản đối lập.

Miêu  tả  sinh  động  những  biến  đổi  tinh  tế  của  cảnh  vật  và  tâm  trạng con người.

– Ngôn  ngữ,  hình  ảnh  giàu  ý  nghĩa tượng trưng.

– Giọng  điệu  thủ  thỉ  thấm  đượm  chất thơ, chất trữ tình sâu lắng.


Tham khảo:

dan-bai-hai-dua-tre-thach-lam

Dàn bài phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam.

–  Thạch Lam (1910 – 1942), là một nhà văn xuất sắc, thành viên của nhóm Tự lực văn đoàn. Ông tên thật là Nguyễn Tường Vinh (Nguyễn Tường Lân) sinh tại Hà Nội, thuở nhỏ sống ở quê ngoại: phố huyện Cẩm Giàng – Hải Dương. Đó là một phố huyện nghèo có chợ, ga xếp đêm đêm có một chuyến tàu chạy qua đã nhiều đêm trong tâm trí Thạch Lam trở thành không gian nghệ thuật trở đi trở lại trong nhiều sáng tác của ông. Chính đặc điểm con người đã làm nên giá trị nhân đạo và ngòi bút nhạy cảm trước những biến thái tinh vi của tâm hồn con người trong văn Thạch Lam.

– Ông là người người đôn hậu, tinh tế. Quan điểm sáng tác lành mạnh, tiến bộ. Có biệt tài về truyện ngắn, có phong cách nghệ thuật độc đáo.  Truyện không có chuyện, chủ yếu khai thác thế giới nội tâm với những xúc cảm mong manh, mơ hồ. Mỗi truyện như­ một bài thơ trữ tình đư­ợm buồn, giọng điệu điềm đạm nhưng chứa đựng biết bao tình cảm mến yêu chân thành và sự nhạy cảm của tác giả trước những biến thái của cảnh vật và lòng người.  Văn phong trong sáng, giản dị, thâm trầm, sâu sắc.

Tác phẩm chính:

+ Các tập truyện ngắn: “Gió đầu mùa” (1937), “Nắng trong vườn” (1938), “Sợi tóc” (1942).
+ Tiểu thuyết : “Ngày mới” (1939)
+ Tập tiểu luận: “Theo dòng” (1941
+ Tùy bút: “Hà Nội băm sáu phố phường” 1943)

2. Tác phẩm:

Xuất xứ: In trong tập “ Nắng trong vườn” (1938)

Vị trí: Là truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật truyện ngắn của Thạch Lam, có sự hòa quyện hai yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình.

Chủ đề: Bức tranh phố huyện nghèo trước cách mạng táng Tám từ lúc chiều muộn đến đêm khuya qua cái nhìn và tâm trạng của nhân vật Liên

Bố cục: Gồm 3 phần.

+ Phần 1: ( Từ đầu đến “ tiếng cười khanh khách nhỏ dần về phía làng ):Tâm trạng của Liên trước bức tranh phố huyện lúc chiều muộn.
+ Phần 2: ( Tiếp theo đến “ chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ.):Tâm trạng của Liên trước bức tranh phố huyện khi đêm vể.
+ Phần 3( còn lại): Tâm trạng của Liên trong cảnh đợi tàu lúc đêm khuya.

II. Đọc hiểu văn bản.

Nói đến xu hướng văn học lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945, chúng ta không thể không nói đến nhà văn Thạch Lam. Thạch Lam chỉ sáng tác trong khoảng 6 năm và mất khi mới 32 tuổi; nhưng ông đã có những đóng góp tích cực đối với nền văn xuôi Việt Nam trên con đường hiện đại hóa. Ông là cây bút truyện ngắn tài hoa xuất sắc, đã đem đến cho văn học một phong cách nghệ thuật truyện ngắn độc đáo với tư tưởng nhân đạo, sâu sắc mới mẻ. Điều đó được thể hiện qua truyện ngắn “Hai đứa trẻ”.

1. Tâm trạng của Liên trước bức tranh phố huyện lúc chiều muộn.

a. Trước cảnh chiều tàn:

Bức tranh thiên nhiên phố huyện lúc chiều tàn được nhà văn khắc hoạ qua cảnh vật hiu hắt. Câu văn mở đầu dịu dàng như một lời thơ đã gợi ra không khí buồn vắng, hắt hiu của phố huyện nhỏ ở một nơi khuất nẻo.

* Cảnh vật:

– Âm thanh: Tiếng trống thu không… từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều câu văn chậm rãi → điểm nhịp thời gian. Tiếng ếch nhái kêu ran, tiếng muỗi vo ve – những âm thanh đặc trưng của làng quê lấy động tả tĩnh không khí vắng vẻ, đìu hiu, hoang vắng. ⇒ Miêu tả từ xa đến gần, nhỏ đần, tất cả như cộng hưởng tạo nên một bản nhạc đồng quê êm đềm

– Màu sắc: Phương tây đỏ rực như lửa cháy. Đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn.  ⇒ Tính từ, so sánh màu sắc rực rỡ bùng cháy trước khi tàn lụi cảnh hoàng hôn sống động, báo hiệu một ngày đã qua.

– Đường nét: Dãy tre làng đen lại cắt hình rõ rệt trên nền trời (ánh hồng). Nghệ thuật tương phản giàu chất hội họa , hoàng hôn dần buông xuống.

⇒ Bằng cảm hứng lãng mạn tinh tế, câu văn như câu thơ (chiều, chiều rồi…), thanh bằng, nhịp chậm, điệp từ “chiều”, từ láy, nghệ thuật so sánh tinh tế kết hợp hài hoà các chi tiết miêu tả âm thanh, màu sắc, đường nét, tác giả đã gợi lên bước đi của thời gian từ, đồng thời gợi lên một bức tranh thiên nhiên thôn dã trong cái giờ khắc của ngày tàn: đẹp, êm đềm, thơ mộng, đượm buồn mang cốt cách Việt Nam Thể hiện sự nâng niu trân trọng của Thạch Lam với những gì là hồn xưa của dân tộc.

* Tâm trạng của Liên:

Tư thế ngồi yên lặng , trầm tư suy nghĩ. Đôi mắt ngập đầy bóng tối , nổi buồn trào dâng. Tâm hồn ngây thơ mà buồn thấm thía. Không hiểu sao nhưng thấy lòng buồn man mác trước giờ khắc ngày tàn. ⇒ Từ tư thế, dáng vẻ đến tâm hồn cho thấy tâm trạng của Liên: buồn trước bước đi của thời gian, trước cảnh thiên nhiên vắng lặng đìu hiu . Tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, yêu thiên nhiên.

b. Trước cảnh chợ tàn:

– Cảnh một ngày chợ phiên: Âm thanh phiên chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu, người về hết, tiếng ồn ào cũng mất chỉ còn sự trống vắng, quạnh hiu. Hình ảnh tàn tạ, trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn, lá mía những phế thải của một phiên chợ quê nghèo. Một mùi âm ẩm, hơi nóng ban ngày, mùi cát bụi. Cảm nhận bằng khứu giác mùi vị của đất quê hương. Phải chăng đó là mùi vị của nghèo khổ, lầm than, cơ cực?

→ Bằng ngòi bút tả thực, cảm nhận bằng nhiều giác quan: thị giác, thính giác, khứu giác, và bằng cả tâm hồn tinh tế nhạy cảm, những chi tiết giàu sức gợi, cảnh chợ tàn gợi bức tranh sinh hoạt của phố huyện nghèo nàn, xơ xác, tiêu điều.

– Những đứa trẻ  tâm hồn ngây thơ trong sáng đáng lẽ phải được nuôi dưỡng, được đến trường. Nhưng ở đây chúng phải tự kiếm sống, phải sớm từ giã tuổi thơ thật tội nghiệp, đáng thương. Ta thấy ẩn sau những hình ảnh  đó là tấm lòng xót xa, đầy thương cảm của Thạch Lam.

* Tâm trạng của Liên:

– Cảm nhận mùi vị quen thuộc. Tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương. ⇒ Tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, gắn bó với quê hương.

c/ Trước những kiếp người tàn:

– Liên và An: Trước ở Hà Nội, từ khi bố mất việc, hai chị em về quê. Mẹ giao trông coi một gian hàng tạp hoá nhỏ xíu. Chiều nào cũng dọn hàng, đếm hàng, tính tiền, ngồi trên cái chõng sắp gãy nhìn cảnh và người phố huyện. Ngày chợ phiên mà chỉ bán được 2,5 bánh xà phòng, một cút rượu ti nhỏ. ⇒ Gia cảnh khó khăn, sa sút, mức sống eo hẹp.

– Những đứa trẻ con nhà nghèo: cúi lom khom trên mặt đất, đi lại tìm tòi, nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, cái gì có thể dùng được của những người bán hàng để lại đáng thương, tội nghiệp.

– Mẹ con chị Tý: Ngày mò cua bắt tép. Tối lại dọn hàng nước, chả kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng, từ chập tối cho đến đêm. Cuộc sống cầm cự,cầm chừng trong vô vọng.

– Cụ Thi: hơi điên, xuất hiện với tiếng cười khanh khách, uống một hơi cạn sạch cút rượu ti rồi lảo đảo đi vào bóng tối tàn tạ cả thể xác và tinh thần.

⇒ Bằng ngòi bút tả thực, qua các chi tiết: cử chỉ, hành động chậm chạp; đối thoại ít, rời rạc, giọng thấp như tiếng thở dài, bao quanh họ là những đồ vật tàn,..tác giả đã khắc hoạ hình ảnh những con người nhỏ bé, từ trẻ đến già đều nghèo khổ, chật vật, tàn tạ. Qua đó, tác giả thể hiện niềm xót thương đối với cuộc sống của những người dân phố huyện trước Cách mạng tháng Tám: đó là tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả.

* Tâm trạng của Liên:

Với những đứa trẻ con nhà nghèo: động lòng thương nhưng chính chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó. Với mẹ con chị Tí: Ân cần hỏi han. Với cụ Thi: lẳng lặng rót một cút rượu ti đầy, lòng hơi run sợ, mong cụ chóng đi. ⇒ Liên có tâm hồn nhạy cảm, nhân hậu, giàu lòng trắc ẩn, yêu thương con người – nét đẹp tâm hồn mà nhà văn nâng niu, trân trọng.

Hình ảnh những con người hiện ra qua con mắt của Liên như một vòng đời của phố huyện. Nếu cuộc sống không có gì thay đối thì tương lai của Liên và An sẽ ra sao? Hay chỉ là sự tàn tạ cả về thể xác và tinh thần? Vẽ ra tương quan giữa hai đứa trẻ trên một thế giới già nua như hai mầm cây non trên một mảnh đất khô cằn bạc phếch, liệu chúng có thể trưởng thành, khoẻ mạnh hay chúng sẽ sớm tàn tạ, héo úa! Đây chính là tấm lòng trắc ẩn mênh mông, một sắc thái riêng trong tư tưởng nhân đạo của Thạch Lam.

Nghệ thuật kết hợp yếu tố hiện thực với yếu tố lãng mạn trữ tình; câu văn xuôi như câu thơ, khéo kết hợp các chi tiết, nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật tinh tế. Thạch Lam đã phần nào phản ánh bức tranh hiện thực đời sống của người dân. Tác giả thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thía niềm xót thương với những kiếp người nhỏ bé, sống nghèo khổ, tàn tạ ở một phố huyện nhỏ trước Cách mạng tháng Tám, trân trọng những nét đẹp tâm hồn của họ. Đó là giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của đoạn trích.

2. Tâm trạng của Liên trước bức tranh phố huyện lúc đêm khuya:.

a/ Khung cảnh và con người:

* Cảnh vật:

Bầu trời có hàng ngàn ngôi sao ganh nhau… Hoa bàng khẽ rụng… Thoảng qua gió mát → Đẹp , êm đềm, tĩnh lặng – một đêm hạ êm như nhung.

Mặt đất ngập chìm trong bóng tối. Đường phố và các ngõ chứa đầy bóng tối.(…)

⇒ Hình ảnh tương phản đối lập. Bóng tối bao trùm tất cả, tràn ngập trong tác phẩm, tạo nên một bức tranh u tối, một không gian tù đọng, gợi cảm giác ngột ngạt.

* Nhịp sống của những người dân:

+ Đêm về bác phở Siêu xuất hiện.

+ Trong bóng tối gia đình bác Sẩm kiếm ăn.

⇒ Lặp đi lặp lại đơn diệu, buồn tẻ với những động tác quen thuộc, những suy nghĩ mong đợi như mọi ngày. Họ mong đợi “một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hằng ngày”

b. Tâm trạng của Liên:

–  Liên và An lặng lẽ ngắm các vì sao, lặng lẽ quan sát những gì diễn ra ở phố huyện và xót xa cảm thông, chia sẻ với những kiếp người nhỏ nhoi sống lay lắt trong bóng tối của cơ cực đói nghèo, tù đọng trong bóng tối của họ.

– Nhớ lại những tháng ngày tươi đẹp ở Hà Nội.

⇒ Nỗi buồn cùng bóng tối đã tràn ngập trong đôi mắt Liên, nhưng trong tâm hồn cô bé vẫn dành chỗ cho một mong ước, một sự đợi chờ trong đêm.

Bóng tối được miêu tả nhiều trạng thái khác nhau, có mặt suốt từ đầu đến cuối tác phẩm. Gợi cho người đọc thấy một kiếp sống bế tắc, quẩn quanh của người dân phố huyện nói riêng và nhân dân trước cách mạng tháng Tám nói chung. Đó là biểu tượng của những tâm trạng vô vọng, nỗi u hoài trong tâm thức của một kiếp người.

Biểu tượng ngọn đèn dầu nơi phố huyện tưởng chừng như đối lập với bóng tối nhưng không phải, nó càng làm cho bóng tối sâu thẳm hơn. Trong tác phẩm, ngọn đèn dầu được nhắc hơn 10 lần. Tất cả không đủ chiếu sáng, không đủ sức phá tan màn đêm, mà ngược lại nó càng làm cho đêm tối trở nên mênh mông hơn, càng ngợi sự tàn tạ, hắt hiu, buồn đến nao lòng.

Ngọn đèn dầu là biểu tượng về kiếp sống nhỏ nhoi, vô danh vô nghĩa, lay lắt. Một kiếp sống leo lét mỏi mòn trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ, không hạnh phúc, không tương lai, cuộc sống như cát bụi. Cuộc sống ấy cứ ngày càng một đè nặng lên đôi vai mỗi con người nơi phố huyện. Cả một bức tranh đen tối. Những hột sáng của ngọn đèn dầu hắt ra giống như những lỗ thủng trên một bức tranh toàn màu đen.

3. Phố huyện lúc chuyến tàu đêm đi qua:

* Hình ảnh chuyến tàu:

– Hình ảnh con tàu lặp 10 lần trong tác phẩm. Chuyến tàu đêm qua phố huyện là niềm vui duy nhất trong ngày của chị em Liên. Nó mang đến một thế giới khác, ánh sáng xa lạ, âm thanh nao nức, tiếng ồn ào của khách…khác và đối lập với nhịp điệu buồn tẻ nơi phố huyện.

– Chuyến tàu ở Hà Nội về, chở đầy ký ức tuổi thơ của hai chị em Liên, mang theo một thứ ánh sáng duy nhất, như con thoi xuyên thủng màn đêm, dù chỉ trong chốc lát cũng đủ xua tan cái ánh sáng mờ ảo nơi phố huyện.

– Việc chờ tàu trở thành một nhu cầu như cơm ăn nước uống hàng ngày của chị em Liên. Liên chờ tàu không phải vì mục đích tầm thường là đợi khách mua hàng mà vì mục đích khác. Liên mong được nhìn thấy những gì khác với cuộc đời mà hai chị em Liên đang sống. Con tàu mang đến một kỷ niệm, đánh thức hồi ức về kỷ niệm mà chị em cô đã từng được sống. Chuyến tàu giúp Liên nhìn thầy rõ hơn sự ngưng đọng tù túng của cuộc sống phủ đầy bóng tối hèn mọn, nghèo nàn của cuộc đời mình

⇒ Liên là người giàu lòng thương yêu, hiếu thảo và đảm đang. Cô là người duy nhất trong phố huyện biết ước mơ có ý thức về cuộc sống. Cô mỏi mòn trong chờ đợi.

* Ý nghĩa biểu tượng của chuyến tàu đêm:

– Hình ảnh con tàu lặp 10 lần trong tác phẩm. Đó là biểu tượng của một thế giới thật đáng sống với sự giàu sang và sự rực rỡ ánh sáng. Nó đối lập với cuộc sống mòn mỏi, nghèo nàn, tối tăm và quẩn quanh với người dân phố huyện.

– Qua tâm trạng của Liên tác giả muốn lay tỉnh những người đang buồn chán, sống quẩn quanh, lam lũ và hướng họ đến một tương lai tốt đẹp hơn. Đó là giá trị nhân bản của truyện ngắn này.
Đó là biểu tượng cho một cuộc sống sôi động, nhộn nhịp, vui vẻ, hiện đại. Dù chỉ trong giây lát nó cũng đưa cả phố huyện thoát ra khỏi cuộc sống tù đọng, u ẩn, bế tắc.


* Câu hỏi ôn tập:

Câu hỏi 1: Trình bày hiểu biết về tác giả Thạch Lam.

– Thạch Lam ( 1910 – 1942 ), là thành viên của Tự lực văn đoàn. Ông sinh tại Hà Nội, nhưng nhiều năm tháng tuổi thơ sống ở huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Bản thân Thạch Lam có những sự trải nghiệm chân thực tại không gian lỡ cỡ nơi phố huyện, và có lẽ đây cũng chính là một trong những động lực để ông viết về những con người nơi đây, về cuộc sống tẻ nhạt cùng những cung bậc cảm xúc đáng trân trọng trong tâm hồn của họ. Dường như đối với Thạch Lam, cái nghèo về vật chất không đáng sợ bằng cái nghèo về tinh thần.

– Sáng tác bao gồm truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút, nhưng đặc sắc nhất vẫn là truyện ngắn

– Phong cách nghệ thuật: Truyện thường không có cốt truyện, nhưng lại giàu tâm tình, tâm trạng, lời văn bình dị mà gợi cảm. Thạch Lam từng nói: “Xét cho cùng, ở đời này ai cũng khổ. Người khổ cách này, người khổ cách khác. Bí quyết là biết tìm cái vui trong cái khổ..” Có lẽ vì quan điểm vậy mà Thạch Lam viết về cái khổ, nhưng luôn nhặt nhạnh những niềm vui trong cái khổ của đời người, để rồi trân trọng người, để rồi thiết tha đời..

→ Truyện Thạch Lam thường mở ra một thế giới thầm kín bên trong con người với biết bao cảm tưởng, cảm giác mơ hồ, mong manh, tinh tế, … và cũng làm đọng lại trong lòng người đọc thật nhiều dư vị.

Câu hỏi 2: Ý nghĩa nhan đề truyện ngắn “Hai đứa trẻ”.

– Tên nhân đề giới thiệu được hai nhân vật trung tâm trong tác phẩm, đó là Liên và An. Cũng với mục đích này, tác giả hoàn toàn có thể đặt nhan đề là “Hai chị em”, “Liên và An”, vv…; hay có những cái tên khác như “Phố huyện nghèo”, “Ánh sáng và bóng tối nơi phố huyện”, vv…; tuy nhiên lựa chọn sau chót của Thạch Lam vẫn là “Hai đứa trẻ”.

+ Với những nhan đề như “Hai chị em” hay “Liên và An”, dù giới thiệu được hai nhân vật trung tâm của tác phẩm, tuy nhiên không đem lại ý nghĩa biểu tượng cao. Cái tên “Hai chị em” sẽ nhấn mạnh vào mối quan hệ giữa hai đứa trẻ, còn “Liên và An” lại khiến nhân vật trở nên quá cụ thể, rõ ràng, khó lòng gợi dậy cảm xúc đồng điệu nơi người đọc cùng không gian êm dịu đẫm chất thơ mà truyện sở hữu.

+ Những nhan đề như “Phố huyện nghèo” hay “Ánh sáng và bóng tối nơi phố huyện”, thì đều quá tập trung vào không gian phố huyện mà bỏ quên đi những con người nơi đây. Cái tên “Ánh sáng và bóng tối nơi phố huyện” nghe có vẻ trừu tượng và giàu ý nghĩa biểu tượng, thể hiện đúng sự xuất hiện liên tục của ánh sáng và bóng tối trong tác phẩm, tuy nhiên lại gợi cảm giác về một sự “giành giật”, đấu tranh giữa những mảng sáng tối ở đời, trong khi ngòi bút Thạch Lam lại khẳng định một điều: ánh sáng và bóng tối là không thể tách rời, điều quan trọng là trên cái nền ngập đầy bóng tối, chúng ta đừng bỏ quên những hạt sáng nhỏ nhoi.

– Nhan đề “Hai đứa trẻ” vừa giới thiệu được hai nhân vật trung tâm của tác phẩm, vừa thể hiện được không gian truyện đầy êm dịu qua cái nhìn trẻ thơ. “Hai” là một số đếm cụ thể, trong khi danh từ “đứa trẻ” lại gợi nhắc đến không chỉ hình hài mà còn cả tâm hồn non nớt của trẻ con. Nhan đề nhấn mạnh vào thế giới trong ngần mà những đứa trẻ sở hữu, gợi nhắc mỗi chúng ta về những gì tinh khôi nhất mà mỗi người chúng ta đều từng có, bởi lẽ ai chẳng một lần mang tâm hồn trẻ thơ? Có lẽ cũng chính vì thế mà “Hai đứa trẻ” đem lại cảm giác đồng điệu nơi người đọc, khi ôm ấp một cuộc hành trình trở về những gì trong trẻo nhất của mỗi người.

– Nhan đề “Hai đứa trẻ” đem lại giá trị nhất định cho tác phẩm:

+ Giá trị nội dung: Góp phần thể hiện nội dung chủ đạo của tác phẩm, đó là tấm lòng thương cảm sâu xa của Thạch Lam đối với những kiếp sống tối tăm, mòn mỏi và thái độ nâng niu, trân trọng của ông đối với những tâm hồn trẻ thơ nơi phố huyện.

+ Giá trị nghệ thuật: Nhan đề góp phần khẳng định ngòi bút giàu tâm tình, bình dị mà gợi cảm của Thạch Lam, đồng thời cũng thể hiện sự trân trọng của ông đối với tâm hồn non nớt trẻ thơ nơi phố huyện nghèo.

Câu 3: Bức tranh phố huyện được nhìn qua con mắt của ai? Điều này có ý nghĩa gì?

– Bức tranh phố huyện được nhìn qua con mắt của Liên. Tất cả những thay đổi trong giờ khắc của ngày tàn: khung cảnh phố huyện khi các nhà đã lên đèn cả, “những hòn đá nhỏ một bên sáng một bên tối”, hay hình ảnh mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi và nhặt nhạnh bất cứ thứ gì dùng được của các người bán hàng để lại,… đều được nhìn và cảm nhận dưới góc nhìn của Liên.

– Giả sử không đặt vào góc nhìn của Liên, tất cả những hình ảnh trên sẽ chỉ đơn thuần được khắc họa dưới con mắt khách quan, đầy khô khan và có phần tẻ nhạt, nhàm chán. Đây là những hình ảnh lặp đi lặp lại mỗi ngày, không có gì khác biệt, không có gì thay đổi. Hôm nay giống hôm qua, ngày mai cũng sẽ không khác những gì hôm nay đang tiếp diễn. Nếu không phải là Liên nhìn và cảm, người đọc sẽ chỉ cảm nhận được những hình ảnh rời rạc và buồn tẻ nơi phố huyện nghèo mà thôi.

– Có thể nói, cái nhìn của Liên đã khiến cho bức tranh phố huyện nghèo nàn được tô điểm bởi những màu sắc khác nhau do chính lăng kính đặc biệt của tâm hồn Liên mang lại. Điều này cũng đem lại ý nghĩa cho câu chuyện:

+ Điểm nhìn của Liên là điểm nhìn trong trẻo của một đứa trẻ, là cái nhìn chưa qua những “gạn đục” cuộc đời, là cái nhìn không hoài nghi tính toán, dẫu có vương vất buồn bã đến thế nào.

+ Điểm nhìn sẽ tác động đến suy nghĩ và tình cảm. Qua cái nhìn của một đứa trẻ như Liên, Thạch Lam đã khiến chúng ta cùng suy nghĩ và cùng xúc cảm như một đứa trẻ. Điểm nhìn này đã đem lại cho chúng ta những rung động tinh khôi nhất về con người, về cuộc sống. Và có lẽ cũng chính vì thế, khi được nhìn qua con mắt của Liên, bức tranh phố huyện nghèo nàn tẻ nhạt nhưng vẫn đáng trân trọng và là một phần không thể phủ nhận của cuộc đời.

+ Điểm nhìn không chỉ khiến bức tranh phố huyện đáng trân trọng hơn, mà còn khiến chính tâm hồn Liên được khắc họa rõ hơn với những cung bậc cảm xúc đầy thiết tha với đời.

– Điểm nhìn góp phần thể hiện nội dung và khẳng định nghệ thuật của tác phẩm:

+ Với điểm nhìn của Liên, nội dung chủ đạo câu chuyện được thể hiện một cách trọn vẹn hơn, đó là tấm lòng thương cảm sâu xa của Thạch Lam đối với những kiếp sống tối tăm, mòn mỏi và thái độ nâng niu, trân trọng của ông đối với những tâm hồn trẻ thơ nơi phố huyện.

+ Điểm nhìn cũng cho thấy nét tinh tế trong nghệ thuật tả cảnh, tả tâm trạng và cách tạo không khí truyện trong tác phẩm; khẳng định ngòi bút dung dị đầy chất thơ của Thạch Lam.

Câu 4: Trình bày khái quát về tình huống truyện và kiểu nhân vật truyện trong tác phẩm “Hai đứa trẻ”.

+ Tình huống truyện: Có thể hiểu là hoàn cảnh, bối cảnh tạo nên câu chuyện. Xét đến cùng, nó là một sự kiện đặc biệt có tính chất bước ngoặt trong truyện, tác động đến diễn tiến câu chuyện cũng như từng nhân vật. Có tình huống truyện, nhân vật mới có cơ hội để bộc lộ tính cách của mình.

Có thể phân loại tình huống truyện thành 3 dạng cơ bản: tình huống hành động, tình huống nhận thức, và tình huống tình cảm.

+ Kiểu nhân vật: Có thể phân loại một số kiểu nhân vật cơ bản trong truyện ngắn, ứng với các dạng tình huống, đó là kiểu nhân vật hành động ( nhân vật chủ yếu được khắc họa qua hành động ); kiểu nhân vật tư tưởng ( nhân vật chủ yếu được khắc họa qua quan điểm, suy nghĩ, nhận thức ); và kiểu nhân vật tình cảm ( nhân vật chủ yếu được khắc họa qua tâm trạng, qua những cung bậc cảm xúc ).

– Đối với truyện ngắn “Hai đứa trẻ”:

+ Nếu men theo cách phân loại tình huống truyện như 3 dạng cơ bản trên kia, có thể dễ dàng nhận thấy tình huống truyện trong “Hai đứa trẻ” thuộc dạng thứ 3: tình huống tình cảm, tức là tình huống đẩy nhân vật vào những biến động trong đời sống cảm xúc, hoặc, chính những rung động của nhân vật tạo nên tình huống.

+ Tương tự, nhân vật trong “Hai đứa trẻ” cũng thuộc kiểu nhân vật tình cảm. Hai đứa trẻ đến với người đọc và ghi dấu ấn trong lòng người đọc không phải với những hành động quả quyết, không phải với những nhận thức sâu sắc về cuộc sống, mà đơn giản, với rung động tinh khôi trước những gì diễn ra xung quanh mình.

– Tình huống truyện quả thật đã tạo nên được kiểu nhân vật tương xứng. Là một câu chuyện không có cốt truyện, tình huống truyện của Thạch Lam trong tác phẩm này không phải một sự kiện đặc biệt cụ thể, mà là một sự duy trì tuần hoàn về không gian thời gian. Chính không gian và thời gian trở đi trở lại trong câu chuyện đã là một “tình huống”, một cơ sở, một nền tảng gợi dậy những rung động khe khẽ của hai đứa trẻ trước cuộc đời. Giả sử không gian không êm ả như thế, giả sử thời gian chẳng buồn bã là vậy, hai đứa trẻ chắc cũng không có cơ hội lắng lòng mình lại để lắng nghe tiếng đời một cách hồn nhiên.

– Tình huống truyện đã góp phần thể hiện nội dung chủ đạo của tác phẩm và ngòi bút tinh tế của Thạch Lam.

Câu 5: Ý nghĩa hình ảnh đoàn tàu trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ”.

– Trước hết, đó là hình ảnh xuất hiện ở gần cuối tác phẩm, hay cũng là gần cuối ngày tàn nơi phố huyện. Đó là những gì mà Liên và An ngày nào cũng mong mỏi như một thói quen, là thứ ánh sáng rực rỡ mà đêm đêm hai đứa trẻ háo hức đợi chờ.

– Đây là một hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng:

+ Đoàn tàu là một trong những hình ảnh đem lại ánh sáng rực rỡ nhất cho câu chuyện, tuy nhiên cũng lại là thứ ánh sáng không thuộc về nơi phố huyện nghèo. Nó nhanh chóng, vội vã, đến rồi đi chỉ trong khoảnh khắc. Cũng giống như những thứ ánh sáng qua xa vời, nó chỉ là một “vị khách” lấp lánh ngày nào cũng ghé qua nhưng không bao giờ ở lại với phố nghèo. Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà Thạch Lam để hình ảnh đoàn tàu xuất hiện trong đêm tối. Chuyến tàu đêm đã thắp lên được một thứ ánh sáng nhất định, đã đẩy lùi được bóng tối phủ đầy dẫu chỉ trong giây lát.

+ Đoàn tàu biểu trưng cho quá khứ lung linh tại Hà Nội, cho một tuổi thơ đã từng no đủ êm ấm và vui tươi, cho những gì đối lập với phố huyện nghèo tẻ nhạt, cho niềm vui trọn vẹn nhất ngày của Liên và An, cũng bộc lộ khao khát chưa nói nên lời của hai đứa trẻ về một miền tràn ngập ánh sáng.

+ Liên và An luôn chờ đợi được nhìn thấy đoàn tàu mỗi đêm, nhưng chưa một lần, dù chỉ trong ý nghĩ, Liên và An muốn bước lên trên đoàn tàu ấy để trở về với Hà Nội, với thứ ánh sáng “rầm rộ” đầy “huyên náo”. Đoàn tàu có thể là ước mơ, nhưng nếu là ước mơ thì nó quả thực xa vời. Gần gũi và chân thực hơn, đoàn tàu thể hiện nỗ lực hướng về ánh sáng và trân trọng ánh sáng của hai mảnh tâm hồn.

+ Đoàn tàu với những phác họa về nó cũng là hình ảnh cho một cuộc sống đang lụi tàn. Đây vốn dĩ là hình ảnh đem lại niềm hi vọng cho người dân phố huyện nghèo về một tương lai tốt đẹp hơn, nên thật ra trong thâm tâm ai cũng mong đợi nó mỗi khi đêm về. Thế nhưng, cái biểu tượng của cuộc sống no đủ và tốt đẹp đó cũng đang dần trở nên đìu hiu đến đáng thương: “Mấy năm nay buôn bán kém nên người lên người xuống ít, có khi hai chị em đợi chờ chẳng thấy ai. Trước kia, ở sân ga, có mấy hàng cơm mở đón khách, đèn sáng cho đến nửa đêm. Nhưng bây giờ họ đóng cửa cả rồi…” Vậy là trớ trêu thay, hình ảnh đại diện cho những gì tiên tiến văn minh nhất, lại trở thành một minh chứng cho cuộc sống đang lụi tàn cả về vật chất lẫn tinh thần.

– Hình ảnh đoàn tàu góp phần quan trọng trong việc thể hiện nội dung chủ đạo của tác phẩm, đồng thời khẳng định ngòi bút tinh tế sâu sắc của nhà văn.

Câu 6: Bức tranh phố huyện nghèo trong “Hai đứa trẻ”.

– Đó là một bức tranh của cuộc sống đang tàn lụi, với chiều tàn, ngày tàn, và người tàn.

+ Chiều tàn: “cái buồn của buổi chiều quê” , êm ả như ru, không ngày nào không trở lại, nhưng cũng chẳng ngày nào không khiến người ta buồn man mác.

+ Ngày tàn”: cái giờ khắc của ngày tàn, khi phố huyện lác đác lên đèn

+ Sự vật: “chiếc chõng nan lún xuống và kêu cót két”: “cái chõng này sắp gãy rồi chị nhỉ?”; “chợ họp giữa phố vãn từ lâu”, …

+ “Người tàn”: “mấy đứa trẻ con nhà nghèo..”; chị Tí chép miệng “Ối chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì.”; bà cụ Thi “đi lần vào bóng tối, tiếng cười khanh khách nhỏ dần”; vv…

– Ý nghĩa của bức tranh phố huyện nghèo: Thạch Lam đã lựa chọn những chi tiết nhỏ như những mảnh ghép lộn xộn của cuộc sống, để rồi tỉ mẩn ngồi lắp ghép chúng thành một bức tranh của cuộc sống đang ngày càng lụi tàn. “Chiều tàn” – “ngày tàn” chỉ là cái lụi tàn của không gian thời gian, sự vật thưa thớt ọp ẹp có thể chỉ là sự cũ kĩ của đời sống vật chất, nhưng “người tàn” thì quả thực là một sự lún sâu về tinh thần. Miêu tả phố huyện nghèo, Thạch Lam không muốn nhấn sâu vào cái nghèo khổ về vật chất, mà muốn chỉ rõ sự nghèo nàn về thế giới nội tâm bên trong mỗi con người.

Bức tranh phố huyện đã trở thành một không gian, một “cái nền” phù hợp với câu chuyện, góp phần thể hiện nội dung chủ đạo của câu chuyện và khẳng định ngòi bút tinh tế của nhà văn.

Câu 7: Phân tích ý nghĩa chi tiết giấc ngủ của Liên ở cuối câu chuyện.

– Vị trí: Là chi tiết kết thúc truyện ngắn, khép lại câu chuyện về tâm hồn trong ngần của hai đứa trẻ nơi phố huyện nghèo, cũng khép lại mọi giấc mơ về ánh sáng và những ám ảnh về bóng tối ngập đầy. “Nhưng Liên không nghĩ được lâu, mắt chị nặng dần, rồi sau Liên ngập vào giấc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối.”

* Giá trị nội dung:

– Là một câu chuyện có sự xuất hiện liên tục của ánh sáng và bóng tối, như một sự giành giật giữa những hạt ánh sáng le lói với cả một miền tối phủ đầy, và đương nhiên lợi thế thuộc về bóng tối, không quá lạ khi đến cuối cùng, câu chuyện lại trở về với bóng tối, về với sự yên tĩnh đến tẻ nhạt của phố huyện nghèo. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa những nỗ lực trông về ánh sáng của hai đứa trẻ không còn nữa, mà ngược lại, ở một khía cạnh nào đó, chúng lại càng được tô đậm sắc nét hơn.

– Đây là một cái kết êm dịu, êm dịu như những gì cả câu chuyện đã mang lại qua ngòi bút đậm chất trữ tình của Thạch Lam. Dù chìm vào bóng tối như đêm trong phố, nhưng giấc ngủ của Liên nhẹ nhàng, không chút gò bó, như một lẽ đương nhiên rằng con người ta sẽ buộc phải chìm vào giấc ngủ sau một hành trình dài, và với Liên là một hành trình về tinh thần sâu sắc.

– Bóng tối lại một lần nữa phủ đầy câu chuyện, những hạt ánh sáng le lói bé nhỏ cũng chẳng còn, nhưng thứ ánh sáng dịu nhẹ và không gì có thể dập tắt trong tâm hồn Liên thì vẫn còn ở đó. Đấy là thứ ánh sáng mà bản thân người đọc đã tự cảm nhận được qua từng cung bậc nhẹ nhàng của câu chuyện, cũng là thứ ánh sáng trẻ thơ mà Thạch Lam tỉ mẩn tìm kiếm và trân trọng ở đời. Nói cách khác, câu chuyện kết bởi bóng tối, nhưng bóng tối không chiến thắng, chỉ là Thạch Lam tin rằng bản thân câu chuyện đã gieo được vào lòng người đọc một thứ ánh sáng dìu dặt mà thôi. Thứ ánh sáng ấy không được thể hiện qua hình ảnh, nhưng rực rỡ một cách dịu dàng trong trái tim của mỗi người.

– Liên “không nghĩ nhiều” và “ngập vào giấc ngủ yên tĩnh”, không có nghĩa tất cả những ước mơ trước đó của Liên không còn. Một đứa trẻ thường ấm ức rất nhiều khi không có được thứ nó muốn, nhưng cũng một đứa trẻ, sẽ biết quen dần và không đòi hỏi với một ước mơ luôn thường trực. Ước mơ của Liên là một “ước mơ thường trực” như thế. Nên nhớ, đây chỉ là một ngày trong chuỗi ngày của Liên nơi phố huyện. Ngày hôm sau khi chiều buông xuống, Liên sẽ lại tiếp tục cẩn trọng tìm kiếm từng hạt ánh sáng khi bóng tối đang phủ đầy. Liên ước mơ mà không rõ mình đang ước mơ, Liên nghĩ về ánh sáng và trân trọng ánh sáng như một thói quen lặp đi lặp lại từng ngày, đến mức không còn gì phải trăn trở quá nhiều về nó. Chị em Liên ngày nào cũng chờ đoàn tàu, nhưng chưa một lần có ý nghĩ bước chân lên đoàn tàu ấy để trở về miền ánh sáng rực rỡ năm nào. Đó đơn giản là những mong mỏi tha thiết trong tiềm thức của những đứa trẻ, nên chúng không bận tâm về nó.

+ Giá trị nghệ thuật:

+ Thể hiện ngòi bút nhẹ nhàng, đậm chất trữ tình và đẫm chất thơ của Thạch Lam.

+ Là một sự giăng mắc ám ảnh trong một câu chuyện không có cốt truyện

+ Thể hiện sự trân trọng của Thạch Lam đối với những tâm hồn trẻ thơ nơi phố huyện nghèo

Câu 8: Chi tiết ngọn đèn con nơi hàng nước chị Tí có ý nghĩa gì ?

– Đây là một chi tiết xuất hiện khá nhiều lần trong tác phẩm, dưới cái nhìn của Liên: “quầng sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng của chị Tí”, ngọn đèn chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ…

* Về nội dung:

– Là ánh sáng có thật và thuộc về phố huyện nghèo, thứ ánh sáng mà không ngày nào không được thắp lên, nhưng chẳng ngày nào thôi buồn bã, bởi lẽ nó bé nhỏ, le lói, chìm nghỉm vào bóng đêm ngập đầy dần.

– Ánh sáng từ ngọn đèn của chị Tí thể hiện sự nỗ lực duy trì cuộc sống của những người dân phố huyện nghèo, là những điểm sáng nhỏ nhoi trong một câu chuyện nhiều bóng tối, tuy nhiên chỉ là bằng một cách yếu ớt, mỏi mệt. Ánh sáng ấy được thắp lên như một thói quen, nhưng là một thói quen không được gửi gắm nhiều ước vọng cuộc đời.

– Ánh sáng ấy biểu trưng cho cuộc sống thực tại nơi phố huyện: mòn mỏi, lay lắt, quẩn quanh, bế tắc,…; cho kiếp người vô danh sống lam lũ vật vờ. Cái khổ của họ không phải bởi họ là những người vô danh, mà bởi cuộc sống của họ đang trôi qua một cách vô nghĩa.

– Ánh sáng từ ngọn đèn của chị Tí xuất hiện nhiều trong suy nghĩ của Liên, gần như ám ảnh Liên về cuộc sống đang ngày càng tàn lụi. Và dường như, sự tàn lụi của cuộc sống nơi phố huyện nghèo không phải bởi họ không thể thắp lên ánh sáng, mà bởi họ thiếu niềm tin vào thứ ánh sáng mình sở hữu mỗi ngày. “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ.”, tuy nhiên họ chỉ mong đợi vậy, chứ không hề biết rằng bản thân họ có thể tạo nên một cái gì đó “tươi sáng” cho chính mình.

* Về nghệ thuật:

– Chi tiết ngọn đèn con nơi hàng nước chị Tí đã khẳng định ngòi bút dung dị mà tinh tế của Thạch Lam. Đó là sự phát hiện những “niềm vui” trong cái khổ ở đời người, là sự tỉ mẩn nhặt nhạnh những hạt ánh sáng bé nhỏ trên cái nền bóng tối. Thể hiện ngòi bút trữ tình nhẹ nhàng đẫm chất thơ.

Câu 9: Bút pháp tương phản trong truyện ngắn hai đứa trẻ.

* Biểu hiện tương phản:

– Tương phản giữa ánh sáng và bóng tối:

– Tương phản giữa hình ảnh đoàn tàu và phố huyện (nhất là khi đoàn tàu đi qua và  sau khi đoàn tàu đã đi qua).

– Tương phản giữa cuộc sống thực tại và mơ ước xa xôi

* Tác dụng của bút pháp tương phản trong truyện Hai đứa trẻ.

+  Làm  nổi  bật  bức  tranh  phố  huyện  êm  đềm,  bình  lặng  nhưng  nghèo  khó,  tù  túng,  đơn điệu trong bóng tối mênh mông và hiu quạnh.

+  Thể  hiện  sinh  động  cuộc  sống  của  con  người  lao  động  bé  nhỏ,  vô  danh  nơi  đây.  Họ  không  chỉ  thiếu  thốn  về  vật  chất  mà  còn  phải  sống  cuộc  sống  tẻ  nhạt,  đơn  điệu,  không  ánh  sáng  và  niềm  vui,  chỉ  có  chút  hi  vọng  bé  nhỏ  và  mong  manh,  xa  xôi  và  leo lét như chính những ngọn đèn nơi phố huyện.

+ Góp  phần  thể  hiện  và  lí  giải  những  biểu  hiện  tinh  tế  trong  tâm  hồn  nhân vật, nhất là Liên.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.