Đọc hiểu văn bản Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành)

doc-hieu-van-ban-rung-xa-nu-nguyen-trung-thanh

Đọc – hiểu văn bản:

Rừng xà nu
(Nguyễn Trung Thành)

I. Tìm hiểu chung.

1. Tác giả: Nguyễn Trung Thành.

– Nguyễn Trung Thành tên thật là Nguyễn Văn Báu, sinh năm 1932, quê huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Bút danh: Nguyễn Trung Thành, Nguyên Ngọc,

– Ông là nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, gắn bó sâu sắc với chiến trường Tây Nguyên, hiểu biết nhiều về thiên nhiên và con người Tây Nguyên đặc biệt là dân tộc ít người. Đó là cơ sở khiến Nguyên Ngọc trở thành người đầu tiên và người góp nhiều công sức nhất trong việc đưa văn chương hiện đại tìm đến Tây Nguyên và đưa Tây Nguyên tìm đến văn chương hiện đại.

– Thấm đượm trong mỗi trang viết là tình yêu tha thiết của nhà văn đối với đất nước, quê hương. Nguồn đề tài và cảm hứng ấy dã làm cho văn chương Nguyên Ngọc đạt tới tầm vóc của những khúc sử thi hào hùng và mang rất nhiều vẻ đẹp trữ tình lãng mạn. Ở đó, chất thơ hoà quyện với độ hoành tráng của núi rừng Tây Nguyên, của những người anh hùng cách mạng bất khuất, kiên trung với quê hương, đất nước. Sức sống bất diệt và khả năng trỗi dậy phi thường của con người, sự sống luôn được đề cao trong tác phẩm của ông.

– Nguyễn Trung Thành là một trong số những cây bút xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị và ghi dấu ấn đậm nét trong nền văn học nước nhà.

– Năm 2000, ông được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật

* Các tác phẩm chính: Đất nước đứng lên (1954-1955); Mạch nước ngầm (1960); Rẻo cao (1961); Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (1961); Đất Quảng; Rừng xà nu (1965); Cát cháy…

2. Tác phẩm: “Rừng xà nu”.

– Xuất xứ: Truyện ngắn “Rừng xà nu” được viết năm 1965 và in trong tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”. Truyện được viết khi tác giả đang tham gia chiến đấu chống Mỹ cứu nước và hoạt động trên chiến trường Tây Nguyên anh hùng.

– Thể loại: truyện ngắn.

– Nội dung: Ca ngợi lòng yêu nước và tinh thần bất khuất của đồng bào Tây Nguyên, đồng thời thấy được lí tưởng cách mạng thông qua lời cụ Mết: “Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo”. Đó là con đường duy nhất để giải phóng dân tộc của thời đại cách mạng lúc bấy giờ.

– Bố cục: 2 phần.

+ Phần 1 (phần chữ nhỏ): Tnú sau ba năm theo cách mạng giờ về thăm làng.
+ Phần 2 (còn lại): cụ Mết kể câu chuyện về cuộc đời của Tnú và người dân làng Xô Man.

* Tóm tắt:

Sau ba năm tham gia lực lượng cách mạng, Tnú được về thăm làng. Trong đêm ấy, cụ Mết kể lại cho dân làng nghe về câu chuyện của Tnú. Tnú mồ côi từ nhỏ, được dân làng nuôi lớn và sớm tiếp nối tinh thần cách mạng. Tnú tham gia nuôi giấu chiến sĩ cách mạng và làm liên lạc. Tnú vốn là một cậu bé thông minh, can đảm và gan dạ: “chọn nơi rừng khó đi, nơi sông khó qua” để tránh kẻ thù. Lúc bị bắt dám thách thức quân giặc “nuốt vội lá thư và chỉ tay vào bụng mình”. Tnú bị bắt, bị tra tấn dã man nhưng nhất định không khai. Sau khi ra tù, Tnú về làng cưới Mai và cùng dân làng chuẩn bị chiến đấu. Nghe tin đó, thằng Dục – tay sai của chính quyền Mỹ – Diệm đưa lính đến đàn áp. Không bắt được Tnú chúng đem vợ con anh ra đánh đập đến hết. Tnú đau xót xông ra nhưng không cứu được vợ con mà còn bị chúng thiêu đốt mười đầu ngón tay bằng nhựa cây xà nu. Trong khi đó cụ Mết cùng dân làng mang vũ khí cất giấu trong rừng trở về và chiến đấu thắng lợi. Tnú gia nhập giải phóng quân và chiến đấu dũng cảm nên được cấp phép về thăm làng. Cụ Mết tự hào kể về anh cũng như nhắc nhở bài học xương máu: ”Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Cuối truyện là hình ảnh cụ Mết và Dít tiễn Tnú về đơn vị, xa xa là những rừng xà nu, đồi xà nu bạt ngàn, chạy tít tắp đến chân trời.

* Chủ đề: Rừng xà nu là câu chuyện về quá trình trưởng thành trong nhận thức cách mạng của một con người, cũng như của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên. Chân lí tất yếu mà họ nhận ra là: chỉ có dùng bạo lực cách mạng mới có thể đè bẹp được bạo lực phản cách mạng.

II. Đọc hiểu văn bản.

1. Ý nghĩa nhan đề “Rừng xà nu”.

“Rừng xà nu” là một nhan đề đã chứa đựng được cảm xúc của nhà văn và linh hồn tư tưởng của tác phẩm. Hơn nữa “Rừng xà nu” còn ẩn chứa cái ý vị khó quên của đất rừng Tây Nguyên gợi lên vẻ đẹp hùng tráng, man dại – một sức sống bất diệt của cây và tinh thần bất khuất của người

– Bởi vậy “Rừng xà nu” mang nhiều tầng nghĩa bao gồm cả nghĩa tả thực lẫn ý nghĩa tượng trưng. Hai lớp nghĩa này xuyên thấm vào nhau toát lên hình tượng sinh động của xà nu, đưa lại không khí Tây Nguyên rất đậm đà cho tác phẩm.

2. Hình tượng rừng xà nucây xà nu.

* Hình tượng rừng xà nu:

– Rừng xà nu là hình tượng xuất hiện xuyên suốt toàn bộ tác phẩm. Nó có mối quan hệ chặt chẽ và gắn bó sâu sắc với mảnh đất Tây Nguyên:

+ Có trong mối quan hệ hằng ngày: bếp lửa đốt bằng cây xà nu, lửa mười đầu ngón tay Tnú tẩm bằng nhựa cây xà nu, khói xà nu làm thành bảng đen cho Tnú và Mai học chữ, …

+ Xuất hiện cả trong những sự kiện trọng đại: Cụ Mết kể chuyện cho dân làng nghe, ngọn lửa cây xà nu chiếu sáng cho cả dân làng mài giáo đánh giặc,…

+ Ăn sâu vào suy nghĩ, tiềm thức của người dân Xô Man : sống cùng cây xà nu, chết cạnh cây xà nu.

Mối quan hệ rất đặc biệt, gắn bó khăng khít và trở thành một phần máu thịt của dân làng Xô Man.

– Rừng xà nu như một sinh thể, chịu sự tàn phá dữ dội và khủng khiếp của bom đạn kẻ thù:

+ Nằm trong sự huỷ diệt bạo tàn của giặc: “Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc”; “Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn”. “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương” .

+ Cây xà nu hứng chịu nỗi đau dữ dội (như con người đang giữa tuổi thanh xuân bỗng bị…): “Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như một trận bão”. “Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi. Ở những cây đó…..vết thương không lành được, cứ loét ra mãi, năm mười hôm sau thì cây chết.

+ “Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn”: câu văn đẹp lạ lùng và có sứ ấn tượng khó quên bởi ngòi bút của nhà văn như chạm khắc thành hình khối, tạo nên mùi hương, ánh sáng và sức nóng của xà nu.

+ Sức sống mãnh liệt của những cây xà nu trưởng thành: “Có những cây vượt lên được cao hơn dầu người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ…chúng vượt lên rất nhanh thay thế những cây đã ngã” 

+ Bao năm, rừng xà nu “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng…”: Nghệ thuật nhân hoá cho thấy sự vững chãi của rừng xà nu trong lửa đạn (ẩn dụ về những con người đang chiến đấu để bảo vệ quê hương, đất nước trong kháng chiến chống Mĩ).

– Hình ảnh những ngọn đồi, cánh rừng xà nu trải ra hút tầm mắt, chạy tít tắp đến tận chân trời luôn trở đi, trở lại trong tác phẩm có ý nghĩa khái quát cho cả dân tộc Việt Nam trong chiến đấu chống thực dân, đế quốc….

→ Đó vừa là những hình ảnh tả thực gợi cảm giác đau đớn đồng thời cũng là biểu tượng đau thương của con người, của dân tộc ta đã phải chịu đựng. Rừng xà nu không chỉ là biểu tượng của con người ở làng Xô Man hẻo lánh. Nhà văn muốn từ một làng Xô Man cụ thể để vươn tới những khái quát rộng lớn hơn thế gấp nhiều lần. Rừng xà nu do đó có thể là biểu tượng của cả Tây Nguyên, của cả miền Nam, và hơn nữa của dân tộc Việt Nam trong thời kì chiến đấu chống đế quốc , thực dân, đau thương nhưng quyết  làm tất cả để giành sự sống cho Tổ quốc mình. Mang vẻ đẹp tráng lệ hào hùng của sử thi đậm chất Tây Nguyên.

* Hình tượng cây xà nu:

– Hình ảnh cây xà nu xuất hiện trong nhan đề, đầu và cuối tác phẩm, xuất hiện trong sự đối chiếu so sánh với các nhân vật ở trong truyện.

– Cây xà nu có sức sống mãnh liệt, sinh sôi, nảy nở rất nhanh và rất khỏe:

+ “Cạnh một cây xà nu mới ngã gục , đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời…”

+ Cây xà nu “ham ánh sáng mặt trời”, dù lớn hay nhỏ cứ “phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng…”. Loại cây ham ánh sáng mặt trời: giống như những con người Tây Nguyên luôn khao khát tự do và có một sức sống mãnh liệt.

→ Cây xà nu có sức sống mãnh liệt, bền bỉ và bất tận tạo nên một vẻ đẹp tráng lệ, hào hùng, man dại đậm tố chất núi rừng. Hình ảnh biểu tượng cho sức mãnh liệt, sống bất khuất, bất diệt, sự nối tiếp của các thế hệ con người Tây Nguyên.

– Cây xà nu gắn bó với cuộc sống con người Tây Nguyên:

+ Cây xà nu có mặt trong đời sống hằng ngày của người dân làng Xô-man.

+ Cây xà nu tham dự vào những sự kiện trọng đại của dân làng Xô-man.

+ Cây xà nu gắn với cuộc sống của người dân làng Xô-man đến mức nó đã thấm sâu vào nếp suy nghĩ và cảm xúc của họ, cụ Mết nói về cây xà nu với tất cả tình cảm yêu thương, gần gũi xen lẫn tự hào “không có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”. Cây xà nu đã trở thành một phần máu thịt trong đời sống vật chất và tinh thần của mảnh đất này.

– Cây xà nu tượng trưng cho số phận và phẩm chất của con người Tây Nguyên trong chiến tranh cách mạng:

+ Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù tượng trưng cho những mất mát, đau thương vô bờ mà dân làng Xô-man nói riêng (anh Xút, bà Nhan, mẹ con Mai…) và đồng bào Tây Nguyên nói chung đã phải trải qua trong cuộc chiến đấu.

+ Đặc tính ham ánh sáng của cây xà nu tượng trưng cho niềm khát khao tự do, lòng tin vào lý tưởng cách mạng của người dân Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam trong cuộc kháng chiến.

+ Khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu gợi nghĩ đến sự tiếp nối của nhiều thế hệ người dân Tây Nguyên (cụ Mết, Tnú, Mai, Dít, Heng) đoàn kết bên nhau trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ.

+ Sự tồn tại kỳ diệu của rừng xà nu qua những hành động hủy diệt của kẻ thù tượng trưng cho sức sống bất diệt, sự bất khuất, kiên cường và sự vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến mất còn với kẻ thù.

* Bình luận:

– Với nghệ thuật nhân hoá, từ ngữ trau chuốt, hình ảnh giàu cảm xúc, đoạn văn đã để lại ấn tượng sâu sắc, về sức sống mãnh liệt,sự trường tồn bất tận của cây xà nu, rừng xà nu. Đó cũng chính là biểu tượng cho ý chí, sức sống bền bỉ ,mãnh liệt, bất khuất, kiên cường của cả Tây Nguyên, của cả miền Nam, và hơn nữa của dân tộc Việt nam trong thời kì chiến đấu chống đế quốc, thực dân, đau thương nhưng quyết làm tất cả để giành sự sống cho Tổ quốc mình.

– Nghệ thuật miêu tả đọc đáo. Kết hợp miêu tả cụ thể lẫn khái quát, khi dựng lên hình ảnh cả rừng xà nu, khi đặc tả cận cảnh một số cây. Tác giả phối hợp cảm nhận nhiều giác quan trong việc miêu tả những cây xà nu với vóc dáng tràn đầy sức lực, tràn trề mùi nhựa thơm, ngời xanh giữa ánh nắng.

– Hình tượng cây xà nu vừa hiện thực lại vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng. Miêu tả cây xà nu trong sự so sánh đối chiếu thường xuyên với con người. Các hình thức ẩn dụ, nhân hóa, tượng trưng đều được vận dụng nhằm thể hiện sống động, hùng vĩ, khoáng đạt của thiên nhiên đồng thời gợi ra nhiều suy tưởng sâu xa về con người, về đời sống.

– Hình ảnh cây xà nu xuất hiện ở đầu tác phẩm rồi kết thúc tác phẩm lại hiện ra cánh rừng xà nu bạt ngàn. Đây là một kết cấu vòng tròn. Kết cấu ấy cho phép ta nghĩ : cây xà nu không chỉ là tượng trưng cho một làng Xô Man nhỏ bé hay cho một vùng núi rừng Tây Nguyên. Có thể đó còn là biểu tượng của cả miền Nam, của cả dân tộc Việt Nam trong những tháng năm chống đế quốc Mĩ.

3. Hình tượng nhân vật Tnú.

– Tnú là người có tính cách trung thực, gan góc, dũng cảm và mưu trí:

+ Giặc giết bà Nhan, anh Xút nhưng Tnú (lúc bấy giờ còn nhỏ) không sợ. Tnú vẫn cùng Mai xung phong vào rừng nuôi giấu cán bộ.

+ Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, lấy đá đập vào đầu đến chảy máu.

+ Khi đi liên lạc không đi đường mòn mà “xé rừng mà đi”, không lội chỗ nước êm mà “lựa chỗ thác mạnh vượt băng băng như con cá kình”. Bởi theo Tnú những chỗ nguy hiểm giặc “không ngờ” đến.

+ Khi bọn giặc kéo về làng, bị giặc phục kích bắt, Tnú khai cộng sản ở đâu anh đặt tay lên bụng dõng dạc nói “cộng sản ở đây này”. Dù bị tra tấn dã man nhưng Tnú quyết không khai.

→  Lòng dũng cảm, không sợ hi sinh, mưu trí, sớm có tình yêu và trung thành với cách mạng.

– Tnú là người có tính kỷ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng:

+ Tính kỉ luật cao trong mối quan hệ với cách mạng biểu hiện thành lòng trung thành tuyệt đối: Tham gia lực lượng vũ trang, nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng khi được phép của cấp trên mới về thăm. Khi bị kẻ thù đốt mười đầu ngón tay, ngọn lửa như thiêu đốt gan ruột nhưng Tnú không kêu nửa lời, anh luôn tâm niệm lời dạy của anh Quyết : “người cộng sản không thèm kêu van”.

– Tnú có một trái tim tràn đầy yêu thương và sục sôi căm giận:

+ Vì dân làng, Tnú tổ chức hoạt động cách mạng sôi nổi. Giặc kéo về làng truy tìm Tnú, tiêu diệt phong trào nổi dậy ở Xô Man. Anh phải cùng cụ Mết và thanh niên vào rừng.

+ Tnú là một người sống rất nghĩa tình: kẻ thù bắt vợ con anh và tra tấn dã man bằng gậy sắt. Cả Mai và đứa con đều gục chết dưới đòn thù. Sự việc diễn ra trước mắt Tnú. Anh đã không cứu nổi vợ con, dẫu lòng căm thù đã biến mắt anh thành hai cục lửa lớn và anh đã xông vào lũ giặc như hổ dữ để cứu vợ và con.

+ Tnú đã tay không xông ra cứu vợ con. Động lực ghê gớm ấy chỉ có thể được khơi nguồn từ trái tim cháy bỏng ngọn lửa yêu thương và ngọn lửa căm thù. Tnú là con người tình nghĩa với buôn làng: anh lớn lên trong sự đùm bọc yêu thương của người dân làng Xô-man.

+ Tnú cũng không bảo vệ được chính mình. Anh bị giặc bắt trói chặt bằng dây rừng và bị tra tấn dã man: đốt mười đầu ngón tay bằng nhựa xà nu “người cộng sản không thèm kêu van”. “Đau thương đã nung nấu thành ngọn lửa căm thù lửa cháy trong lồng ngực, trong bụng”. hình ảnh thật phi thường mà chân thực, nhân vật mang đậm chất sử thi.

+ “Ừ Tnú không cứu được mẹ con Mai…”: lời nói này lặp lại bốn lần, nó như một điệp khúc đau thương, day dứt trong câu chuyện kể nhằm nhấn mạnh: Khi chưa cầm vũ khí thì Tnú chỉ có hai bàn tay không, thì ngay cả những người thương yêu Tnú nhất cũng không cứu được. Câu nói đó của cụ Mết đã khắc sâu một chân lí, ghi tạc vào tâm trí các thế hệ con cháu rằng: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”: nghĩa là chỉ có cầm vũ khí đứng lên mới là con đường sống duy nhất, mới bảo vệ được những gì thân yêu, thiêng liêng nhất. Chân lí cách mạng đó đi từ thực tế máu xương, tính mạng của dân tộc.

+ Lòng căm thù ở Tnú mang đậm chất Tây Nguyên. Tnú mang trong tim ba mối thù: Mối thù của bản thân; mối thù của gia đình và mối thù của buôn làng.

– Ở Tnú, hình tượng đôi bàn tay mang tính cách, dấu ấn cuộc đời:

+ Khi lành lặn: đó là đôi bàn tay trung thực, nghĩa tình (bàn tay cầm phấn viết chữ anh Quyết dạy cho; bàn tay cầm đá đập vào đầu mình để tự trừng phạt vì học hay quên chữ …

+ Khi bị thương: đó là chứng tích của một giai đoạn đau thương, của thời điểm lòng căm hận sôi trào “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy trong bụng”.

+ Đó cũng là bàn tay trừng phạt, bàn tay quả báo khi chính đôi bàn tay tàn tật ấy đã bóp chết tên chỉ huy đồn giặc trong một trận chiến đấu của quân giải phóng.

– Hình tượng Tnú điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của người dân Tây Nguyên làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ: “chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo”.

+ Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí là bi kịch của người dân STrá khi chưa giác ngộ chân lý (bà Nhan, anh Xút). Tnú là người có thừa sức mạnh cá nhân nhưng anh vẫn thất bại đau đớn khi không có vũ khí. Với bàn tay không có vũ khí trước kẻ thù hung bạo anh đã không bảo vệ được vợ con và bản thân.

+ Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xô-man đã cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời bi tráng của Tnú là sự chứng minh cho chân lí: phải dùng bạo lực cách mạng để tiêu diệt bạo lực phản cách mạng.

+ Con đường đấu tranh của Tnú từ tự phát đến tự giác cũng là con đường đấu tranh đến với cách mạng của làng Xô-man nói riêng và người dân Tây Nguyên nói chung.

Tóm lại, câu chuyện về cuộc đời và con đường đi lên của Tnú mang ý nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường của các dân tộc Tây Nguyên trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Vẻ đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh vẻ đẹp và sức mạnh của con người Tây Nguyên nói riêng và người Việt Nam nói chung trong thời đại đấu tranh cách mạng. Thông qua câu chuyện bi tráng về cuộc đời và số phận của Tnú và những con người ở một bản làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí chống lại kẻ thù tàn ác.

– Mối quan hệ giữa hình tượng rừng xà nu và Tnú:

+ Hai hình tượng gắn bó khăng khít với nhau, bổ sung cho nhau để cùng hoàn chỉnh.

+ Rừng xà nu trải mãi tới chân trời trong màu xanh bất diệt khi con người thấm thía bài học Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo rút ra từ cuộc đời Tnú.

+ Con người như Tnú cầm vũ khí đứng lên thì mục đích sau cùng là để giữ lại sự sống như cánh rừng mãi mãi sinh sôi, sự sống của Tổ quốc, của nhân dân.

→ Tnú là nhân vật trung tâm được xây dựng bằng bút pháp giàu chất sử thi. Tnú tiêu biểu cho số phận và con đường đấu tranh của dân tộc Tây Nguyên. Là một trong những hình tượng thành công của NTT và văn học chống Mỹ cứu nước.

* Bình luận:

– So với nhân vật A Phủ của Tô Hoài thì hình tượng nhân vật Tnú có điểm mới mẻ hơn. Ở Tnú không có vấn đề tìm đường, nhận đường như A Phủ. A Phủ chỉ đến với cách mạng khi câu chuyện của đời mình đã đi vào phần kết. Trong khi đó Tnú đã sống gần người cán bộ cách mạng là anh Quyết khi còn là một cậu thiếu niên. Tnú đã có những điều kiện mà các nhân vật anh hùng của miền núi trước đó chưa có, hay chỉ có sau khi đã trải qua vô vàn đau khổ, gian truân. Tnú có những phẩm chất mà con người ở thế hệ như A Phủ chưa thể có. Sau ba năm Tnú vượt ngục trở về làng anh đã là một chàng trai hoàn hảo: “rắn chắc, cao lớn, đẹp đẽ như cây xà nu cường tráng nhất của khu rừng, hay như người dũng sĩ trong truyền thuyết dân gian”.

– Chan hoà trong niềm vui hạnh phúc bên người vợ hiền dịu và đứa con đầu lòng của hai người,  tưởng như Tnú có tất cả những gì mà con người mong được có. Nhưng đó vẫn chưa phải là điểm then chốt trong câu chuyện về cuộc đời Tnú mà người già làng kể bên bếp lửa, trong “cái đêm dài như cả một đời người”.

– Sau cái lần vượt ngục trở về, Tnú mất vợ và con. Trong câu chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú, cụ Mết nhắc đi, nhắc lại rằng: Tnú đã không cứu sống được vợ con, để rối khắc ghi vào tâm trí của người nghe câu nói: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”. Nghĩa là với chừng ấy cái có, Tnú vẫn không giữ gìn được sự sống. Tác giả như để lịch sử phán truyền qua lời cụ Mết: “Trong tay mày chỉ có hai bàn tay trắng”. Và dù có thương Tnú đến đâu thì dân làng xô Man cũng không thể cứu anh. Bởi vì, vẫn theo lời cụ Mết: “Tau không nhảy ra cứu mày. Tau cũng chỉ có hai bàn tay không”.

– Câu chuyện về Tnú ở phần đau đớn nhất của nó, cho thấy: Sẽ như thế nào, nếu mình chưa kịp cầm giáo, khi kẻ thù đã cầm lấy súng rồi. Đây chính là mặt bên kia của chân lí mà cụ Mết muốn ghi tác vào lòng các thê hệ con cháu.

– Giữa rừng xà nu và Tnú có mối quan hệ gắn bó khăng khít với nhau, bổ sung cho nhau để cùng trở nên hoàn chỉnh. Rừng xà nu sẽ không thể mãi mãi tới chân trời trong màu xanh bất diệt, khi con người còn chưa thấm thía bài học: “Chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo” rút ra từ cuộc đời Tnú. Mặt khác nếu con người có phải như Tnú, cầm vũ khí đứng lên thì mục đích sau cùng của việc làm đó cũng không phải là huỷ diệt mà là để giữ cho sự sống, như cánh rừng kia mãi mãi sinh sôi. Nói cách khác, sự sống của Tổ quốc, của nhân dân, đó là mục đích, còn cầm vũ khí đứng lên, đó là con đường duy nhất lúc bấy giờ có thể giúp chúng ta đạt được mục đích cao đẹp ấy.

4. Cụ Mết, Dít và bé Heng.

* Cụ Mết:

– Một già làng quắc thước 60 tuổi, “tiếng nói ồ ồ dội vang trong lồng ngực”, “râu dài tới ngực và đen bóng”, “mắt vẫn sáng xếch ngược”, “ở trần ngực căng như một cây Xà nu lớn”.

– Đó là nguồn sức mạnh tinh thần của dân làng, người đã hun đúc cho họ lòng căm thù và tự hào truyền thống vẻ vang của dân tộc: Kể cho con cháu nghe tấm gương, dạy cho con cháu: “chúng nó cầm súng, mình phải cầm giáo” – quy luật tất yếu.

→ Cụ Mết chính là “Pho sử sống” của làng Xô man; Người giữ lửa truyền thống của cả bộ tộc, người kết nối quá khứ và hiện tại, hôm qua và hôm nay; “thủ lĩnh” tinh thần, người định hướng con đường đi theo cách mạng cho cả bộ tộc; nhân vật tiêu biểu cho tính cách quật cường, bất khuất của dân làng Xô Man nói riêng, người Tây Nguyên nói chung, thâm chí rộng ra là cả dân tộc. Nếu ví làng Xô-man như một khu rừng Xà nu đại ngàn, thì cụ Mết chính là cây đại thụ. Tác giả khắc hoạ hình ảnh cụ Mết với thái độ ca ngợi, tin tưởng vào con người Tây Nguyên.

* Dit:

– Còn nhỏ: thông minh, sáng dạ, làm công việc tiếp tế lanh lẹn, “cứ tối sẫm lại bò theo máng nước đem gạo ra rừng”. Bị bắt: bình thản lạ lùng. Lớn lên là chính trị viên xã đội.

– Dít là người giống Mai như đúc.

– Gặp Tnú về: dù là quen biết nhưng vẫn hỏi giấy Tnú với vẻ mặt lạnh lùng.

– Người nghiêm nghị, cứng cỏi, trách nhiệm của người chiến sĩ.

– Trong Dít có Mai thời trước và có Dít của ngày hôm nay.

→ Dít là một cô bé gan dạ, dũng cảm, sớm tiếp bước các thế hệ đi trước khi đến với cách mạng; tiêu biểu thế hệ trẻ của làng Xô man trưởng thành trong cuộc kháng chiến; Dít là người có vẻ đẹp kiên định, vững vàng trong bão táp chiến tranh, là thế hệ đang và sẽ kế tục sự nghiệp của cha anh. Cùng với Tnú, Dít là lực lượng chủ chốt của cuộc đấu tranh ngày hôm nay, đó là sự tiếp nối tự giác và quyết liệt.Cũng như Tnú, Mai và nhiều thanh niên khác trong làng, Dít là một trong “những cây xà nu đã trưởng thành” của “đại ngàn Xô man” hùng vĩ.

* Bé Heng:

– Nhanh nhẹn, tháo vát, hiểu biết vừa gợi nhớ đến hình ảnh Tnú, Mai, Dít ngày còn bé, vừa gợi cho người đọc niềm tin, sự triển vọng trong tương lai: “Nó sẽ còn đi tới đâu chưa ai lường trước được”.

→ Bé Heng là hình ảnh tiêu biểu về một thế hệ đánh Mĩ mới, sẽ tiếp bước một cách mạnh mẽ những Tnú, Mai, Dít; Trong “Rừng xà nu”, bé Heng chính là một trong những “cây xà nu con” “mới mọc lên”.

* Bình luận:

– Cụ Mết, Mai, Dít và Heng là sự tiếp nối các thế hệ làm nổi bật tinh thần bất khuất của làng Xô Man nói riêng và của Tây Nguyên nói chung. Các thế hệ con cháu làng Xô Man cũng tương ứng các thế hệ cây xà nu: Cụ Mết chính là cây xà nu cổ thụ hội tụ tất cả sức mạnh của rừng xà nu. Tnú cường tráng như một cây xà nu được tôi luyện trong đau thương đã trưởng thành mà không đại bác nào giết nổi. Dít trưởng thành trong thử thách với bản lĩnh và nghị lực phi thường cũng giống như xà nu phóng lên rất nhanh tiếp lấy ánh mặt trời. Cậu bé Heng là mầm xà nu đang dược các thế hệ xà nu trao cho những tố chất cần thiết để sắn sáng thay thế trong cuộc chiến cam go còn có thể phải kéo dài “năm năm, mười năm hoặc lâu hơn nữa”.

5. Biểu hiện của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.

+ Tác phẩm còn mang một hình thức sử thi hoành tráng: hoành tráng trong hình ảnh, với vóc dáng vạm vỡ, cao cả của núi rừng, cũng như của con người. Và hoành tráng trong âm hưởng với lời văn được đẽo gọt, để không những giàu sức tạo hình mà còn giàu nhạc điệu, khi vang động, khi tha thiết hoặc trang nghiêm.

+ Đề tài: Viết về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ; số phận và con đường giải phóng của dân làng Xôman) không chỉ là vấn đề sinh tử của một ngôi làng ở Tây Nguyên mà còn là của cả dân tộc Việt Nam.

+ Rừng xà nu là tiếng nói của lịch sử và thời đại, gắn liền với những sự vận động, những biến cố có ý nghĩa trọng đại đối với toàn dân.

+ Những bức tranh trong thiên nhiên hay những hình tượng anh hùng trong tác phẩm, chung quy đều là sự kết tinh của lí tưởng cao quý nhất của cộng đồng.

+ Hệ thống nhân vật mà điển hình là Cụ Mết, Tnú, Dít: đều là những cá nhân anh hùng kết tinh cao độ vẻ đẹp và phẩm chất của cả cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên, thậm chí của con người Việt Nam trong chiến đấu (yêu nước, căm thủ giặc sâu sắc, gan dạ, dũng cảm, kiên cường, trung thành với cách mạng…

+ Không gian nghệ thuật: rộng lớn. Không gian tạo không khí miền núi: đống lửa ở nhà cụ Mết, dân làng tụ tập nghe già làng kể chuyện.

+ Cách kể chuyện: Chuyện được kể bên bếp lửa qua lời kể của một già làng, đông đảo dân làng từ già đến trẻ đều đang quây quần bên bếp lửa để lắng nghe, không khí rất trang nghiêm.

+ Xây dựng thành công những hình tượng nghệ thuật độc đáo – hình tượng cây xà nu, rừng xà nu không chỉ thể hiện tư tưởng chủ đề, đem lại chất sử thi mà còn tạo nên giá trị lãng mạn bay bổng cho thiên truyện.

+ Giọng điệu: ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng; ngôn ngữ trang trọng, hào hùng.

+ Ngoài ra tác phẩm còn mang cảm hứng lãng mạn: cảm xúc của tác giả bộc lộ trong lời trần thuật, thể hiện ở việc đề cao vẻ đẹp của thiên nhiên và con người trong sự đối lập với sự tàn bạo của kẻ thù.

6. Đặc sắc nghệ thuật:

+ Tô đậm không khí, màu sắc đậm chất Tây Nguyên (bức tranh thiên nhiên; ngôn ngữ, tâm lí, hành động của nhân vật).

+ Xây dựng thành công hai tuyến nhân vật đối lập gay gắt: giữa kẻ thù (thằng Dục) với lực lượng cách mạng, đại diện là các thế hệ nối tiếp nhau vừa có những nét cá tính sống động vừa mang những phẩm chất có tính khái quát, tiêu biểu (cụ Mết, Tnú, Dít,…).

+ Khắc họa thành công hình tượng cây xà nu vừa hiện thực vừa mang đậm ý nghĩa biểu tượng, đem lại chất sử thi và lãng mạn, bay bổng cho thiên truyện.

+ Nghệ thuật trần thuật sinh động (đan cài câu chuyện về cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man; xen kẽ thời gian kể chuyện và thời gian của các sự kiện; phối hợp các điểm nhìn,…) tạo nên giọng điệu, âm hưởng phù hợp với không gian Tây Nguyên.

Phân tích truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.