dong-vai-nguoi-lao-dong-ke-lai-chuyen-ra-khoi-trong-doan-thuyen-danh-ca

Đóng vai người lao động kể lại chuyến ra khơi trong Đoàn thuyền đánh cá

Đóng vai người lao động kể lại chuyến ra khơi trong Đoàn thuyền đánh cá.

  • Mở bài:

Để kịp cho chuyến ra khơi tối nay được thuận lợi, chúng tôi đã tấp cập chuẩn bị từ sớm. Bác Ba lo vá lại tấm lưới bị rách, còn anh Sáu đưa nước và mấy cái thùng phi lên thuyền. Tôi cũng lo kết lại mấy cái dây thừng cho thật chặt. Mùa này sóng lớn, ra biển mà nhỡ nó bị đứt thì không biết làm thế nào. Bên kia, thuyền viên của các thuyền khác cũng nhộn nhịp chuẩn bị không kém gì. Đến chiều thì mọi thứ đã sẵn sàng.

  • Thân bài:

Trưởng đoàn đứng trên con thuyền lớn nhất đang dẫn đầu, lặng lẽ nhìn khơi xa. Đôi mắt đăm đăm nhìn về không cùng. Chắc ông đang hướng tìm ngọn gió, xem khí trời thế nào. Lão ngư già dặn ấy đã có trên 50 năm tuổi nghề, mọi biến chuyển của đại dương ông đều cảm nhận được hết. Trên biển, mặt trời từ từ chìm xuống biển, ánh sáng vàng rực hắt thẳng lên trời cao.

Tôi cứ ngỡ như đó là một hòn lửa khổng lồ bị dìm vào biển nước, sức mạnh vô biên của nó có thể tạo nên những đợt sóng kinh hồn. Đêm cũng từ từ buông xuống. Cái khoảnh khắc giao điểm giữa đêm và ngày thật kì diệu. Nó cứ khiến lòng ta nôn nao khó tả. Trời mới còn đang sáng đáy thôi, bỗng chốc tối sầm lại, vệt sáng tối kéo dài trên mặt biển rồi mất hút tận khơi xa.

Dưới kia, các thuyền viên đã lên thuyền cả rồi, cột buồm rùng rùng chuyển động, cánh buồm căng lên đồng loạt. Bỗng lão ngư hét lớn: “Gió đã thổi, ta ra khơi thôi!”. Hàng mấy chục thuyền viên đồng loạt “dạ” ran, tiếng vang kinh bạt cả biển trời. Đoàn thuyền đánh cá rùng mình chuyển động, rồi xếp hàng ra khơi. Thuyền này nối đuôi thuyền kia tạo thành một vệt dài trên biển.

Tiếng hát ra khơi lại rộn vang khắp các thuyền. Dân chài lưới đầu sóng ngọn gió nhưng yêu đời lắm. Lần ra khơi nào chúng tôi cũng ca hát. Hát từ bờ, hát đến khơi xa. Tôi nhớ rất rõ bài hát ấy chính do lão ngư già hát và chúng tôi hát theo. Hát mãi trong mỗi chuyến ra khơi đến giờ thuộc nằm lòng luôn:

“Ơi biển sâu! Ơi biển sâu
Nơi nào nước chảy, nơi nào cá bơi
Thuyền ta đi tới! Thuyền ta đi tới!

Bao nhiêu năm căng gió buồm khơi
Sóng đã bạc đầu, chim trời mỏi cánh
Bao nhiêu năm cuộc đời hiu quạnh
Nay ra khơi ta bắt cá về.

Ơi hỡi đại dương muôn trùng sóng vỗ!
Ơi hỡi Biển Đông muôn luồng cá chạy!
Ta soi, ta rọi, ta vớt, ta giăng
Đây đoàn cá bạc biển Đông lặng,
Đây luồng cá thu như đoàn thoi
Đây ánh lưng vây con nục trắng…

“Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”

Bao nhiêu năm căng gió buồm khơi
Bấy nhiêu gian khổ ở trên đời
Cuộc đời đã mới, đời đã mới
Hãy tiến lên nào anh em ơi!”

Lời hát cứ dặt dìu theo nhịp sóng biển. Tiếng hát ra khơi bừng khí thế ra trận. Ai cũng tràn đầy tin tưởng ở trong lòng. Cánh buồm no gió đẩy thuyền lướt mạnh ra khơi.

Thoáng chốc, bãi bờ, làng xóm đã mấy hút, không còn nhìn thấy nữa. Lúc này, trăng cũng đã lên cao. mà thú thật, giữa biển khơi bao la, trăng có lên hay xuống chúng tôi cũng không biết nữa. Không lấy gì để so sánh mà biết nó lên hay lặn. Đoàn thuyền vẫn giữ hàng ngũ, trật tự băng băng lao tới. Nhìn cảnh ấy cứ ngỡ như rằng nó đăng lướt đi giữa mây cao với biển bằng. Nhiều lúc tôi nghĩ cả đoàn thuyền đang bay chứ không phải đang bơi vì biển và trời gần nhau quá.

Đến 10 giờ đêm là chúng tôi buông lưới. Lão ngư già đã cảm nhận có luồng cá chạy gần đây. Linh tính ông mách bảo thế. Ông lại ra đứng trên mũi thuyền, mắt nhìn vào con nước, đôi tai khẽ rung rung như đang nghe ngóng cái gì đó. Các bạn sẽ không thể tin được rằng chỉ cẩn ngửi mùi nước biển thôi là ông ấy có thể biết đàn cá đang ở đâu, nhiều hay ít, chìm sâu hay nổi cạn. Ông lấy chèo gõ nhẹ vào mạn thuyền rồi lại lắng nghe. Đôi tai kì diệu của ông dường như có thể nghe được đàn cá đang chạy rộn ràng trong lòng biển sâu sau mỗi tiến gõ. Sau ông lệnh: “Rẽ thuyền, thả lưới”.

Các thuyền viên bắt đầu chuyển hướng, phân làm hai đội. Một đội dùng lưới giăng hình cánh cung đi trước đón cá. Một đội giang lưới hàng chữ nhất thả lưới chìm đi sau. Xong đâu tất cả, lão ngư già lệnh cho đoàn thuyền đi tới. Mặt biển dội sóng dữ dội do lưới cào vào lòng bể. Chính giữa, luồn nước chảy xiết mạnh như thác lũ. lão ngư già vẫn đứng trên mũi tàu, vững chải như một cây đinh ba. Bỗng lão phất tay nói lớn: “Cá đã vào, khép lưới lại”.

Các thuyền viên nhanh chóng bẻ lái rẽ thuyền. Những thuyền viên khác lập tức gồng tay kéo dây chão khép lưới lại. Mặt biển lại sôi sục dữ dội. Khi lưới vừa khép, đoàn cá từ dưới sâu dội lên, đội cả lưới định tìm đường tháo chạy. Anh Sáu vội cầm dây chão móc vào cần cẩu, rút miệng lưới lên cao tóm gọn lại. Đàn cá hết đường chạy thoát. Phái sau, đoàn thuyền cào vớt cũng thu được đầy lưới cá.

Lão ngư già quả thật tinh tế. Ông hiểu tính cá rất sâu sắc. Đoàn đi trước vây hình cánh cung dụ cá vào luồng giữa. Khi đụng phải lưới, thế nào một phần cá cũng lặn xuống sau hơn tìm đường chạy trốn. Thế nên, ông bố trí đội thuyền giăng hàng chữ nhất đi sâu và thả lưới chìm để đón đầu đoàn cá ấy. Quả thật, đoàn cá bị tóm gọn chẳng sót con nào.

Bắt gọn đoàn cá, chúng tôi lại giong thuyền đi. bài hát rộn rã lại vang lên. Tôi nhìn lão ngu già mà thầm kính phục. Đúng thật, gừng càng già càng cay. Đời ông đã có hàng nghìn chuyến đi biển, gian nan nào cũng đã trải qua. Nhớ có lần, trong trận bào cách đây bảy năm, thuyền của ông không kịp về bến để tránh bão. Cơn bão đến thật nhanh, phá nát cả xóm làng.

Trong mịt mù sóng gió, tưởng ông và các thuyền viên đã bỏ mình trong bụng ca. Nào ngờ, khi cơn bão tan, người ta thấy con thuyền lừ lừ từ khơi xa trở về. Không ai tin được đó lại là sự thật. Có người còn nghĩ đó là bóng ma, là ảo ảnh thôi. Đến khi thuyền cập bến, mọi người mới tin.

Chuyến đó, cũng may nhờ tài năng lão luyện của lão ngư già mà cả đoàn viên đã thoát nạn. Họ mang ơn ông đến suốt cuộc đời. Từ mẻ lưới đầu tiên đến quá nửa đêm, chúng tối kéo ba mẻ lưới nữa, thu được rất nhiều cá tôm. Đến khi thuyền đã đầy cá, lão ngư già lệnh dừng lại và cho thuyền quay trở về.

Đoàn thuyền lại rùng rùng tập kết, xếp thành ba hàng rồi hướng bờ thẳng tiến. Bài hát lại vang lên. Tiếng hát bội thu vang khắp biển trời, lúc khoan thai dìu dặt theo sóng biển, lúc vút cao khí thế cùng gió cùng mây:

“…Bao nhiêu năm căng gió buồm khơi
Sóng đã bạc đầu, chim trời mỏi cánh
Bao nhiêu năm cuộc đời hiu quạnh
Nay ra khơi ta bắt cá về.

Ơi hỡi đại dương muôn trùng sóng vỗ!
Ơi hỡi Biển Đông muôn luồng cá chạy!
Ta soi, ta rọi, ta vớt, ta giăng
Đây đoàn cá bạc biển Đông lặng,
Đây luồng cá thu như đoàn thoi
Đây ánh lưng vây con nục trắng…”

Biển với chúng tôi như người mẹ vĩ đại. Biển mẹ che chở chúng tôi, nuôi lớn chúng tôi từng ngày. Có lúc biển mẹ  bao dung, hiền hòa, trìu mến. Có lúc biển mẹ giận dữ như muốn trừng phạt những đứa con ngỗ nghịch không biết nghe lời. Cuộc sống dân chài sớm bờ tối biển chẳng ngày nào yên. Nhưng chúng tôi mạnh mẽ, chúng tôi tự hào về công việc của mình. Mỗi chuyến ra khơi bồi đắp trong tôi một tình yêu lớn đối với biển cả.

Thuyền gần tới bờ thì trời cũng hừng sáng. Lúc đầu, ánh sáng mờ mờ nhưng đã có thể nhìn rõ. Đi một lúc, ánh sáng đã thực rõ. Trên biển là thế nhưng giờ này trên đất liền vẫn còn tối lắm. Chắc các chị em đã sẵn sàng thúng rổ chờ thuyền về rồi.

  • Kết bài:

Mặt trời đội biển nhô lên kì vĩ. Đó là khung cảnh ấn tượng nhất mỗi ngày mà chúng tôi vẫn thường thấy. Một chiếc mâm bạc không lồ từ từ dưới biển sâu nhô lên rực sáng chói gắt. Ánh sáng kéo một vệt dài trên biển rồi tỏa ra giống hệt như ánh đèn màu mà tôi vẫn thường thấy trong những đêm văn nghệ. Tiếng hát vui mừng cùng gió thổi căng cánh buồn. Có lẽ con thuyền cũng háo hức trở về nên băng băng vượt sóng.


Bài tham khảo:

Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận.

  • Mở bài:

Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng từ phong trào Thơ mới với tập thơ Lửa thiêng (1940) và cũng là nhà thơ tiêu biểu cho nền thơ hiện đại Việt Nam từ sau năm 1945. Trước Cách mạng tháng Tám,thơ ông giàu chất triết lí, thấm thía bao nỗi buồn, tràn ngập cái sầu nhân thế. Sau Cách mạng, thơ Huy Cận dạt dào niềm vui, là bài ca vui về cuộc đời, là bài thơ yêu thiên nhiên, con người và cuộc sống. Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá được Huy Cận viết vào giữa năm 1958, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã kết thúc thắng lợi, miền Bắc được giải phóng và bắt tay vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới.

  • Thân bài:

Niềm vui dạt dào tin yêu trước cuộc sống mới đang hình thành, đang thay da đổi thịt đã trở thành nguồn cảm hứng lớn của thơ ca lúc bấy giờ. Nhiều nhà thơ đã đi tới các miền đất xa xôi của Tổ quốc để sống và để viết: miền núi, hải đảo, nhà máy, nông trường… Huy Cận có chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi ấy, hồn thơ của ông mới thực sự nảy nở trở lại và dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước, về lao động và niềm vui trước cuộc sống mới.

Bài thơ có 7 khổ, được kết cấu theo sự vận động của thời gian và hành trình của một chuyến ra khơi đánh cá:

+ Hai khổ thơ đầu: Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn buông xuống.

+ Bốn khổ thơ tiếp: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong một đêm trăng rất đẹp.

+ Khổ thơ cuối: Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về khi bình minh đã rạng ngời trên biển.

Đoàn thuyền đánh cá có hai nguồn cảm hứng lớn, song hành, hài hòa và trộn lẫn vào nhau. Đó là cảm hứng về thiên nhiên vũ trụ và cảm hứng về con người lao động trong cuộc sống mới. Sự thống nhất của hai nguồn cảm hứng ấy được thể hiện qua kết cấu và hệ thống thi ảnh trong bài. Về kết cấu, thời gian của bài thơ là nhịp tuần hoàn của vũ trụ (từ lúc hoàng hôn đến lúc bình minh) cũng là thời gian hoạt động của đoàn thuyền đánh cá (từ lúc ra khơi đến khi trở về). Không gian của bài thơ là một không gian lớn lao, kỳ vĩ với trời,biển, trăng, sao, sóng, gió; cũng là không gian của cảnh lao động.

Thông qua việc miêu tả cảnh lao động đánh cá của người ngư dân vùng biển Hạ Long, bài thơ ngợi ca vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước, sự giàu có của biển khơi; ngợi ca khí thế lao động hăng say, yêu đời của người lao động mới đã được giải phóng, đang làm chủ bản thân, làm chủ cuộc đời và đất nước:

Tập làm chủ, tập làm người xây dựng
Dám vươn mình cai quản lại thiên nhiên!

Yêu biết mấy, những con người đi tới
Hai cánh tay như hai cánh bay lên

Ngực dám đón những phong ba dữ dội
Chân đạp bùn không sợ các loài sên!

(“Mùa thu mới” – Tố Hữu )

Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi lúc hoàng hôn buông xuống được miêu tả bằng bút pháp lãng mạng hết sức độc đáo, giàu sáng tạo. Đoàn thuyền ra khơi lúc hoàng hôn, khi vũ trụ bắt đầu đi vào yên nghỉ:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then,đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.”

Bốn câu thơ có kết cấu gọn gàng, cân đối như một bài tứ tuyệt: hai câu đầu tả cảnh, hai câu sau nói về con người. Cảnh và người tưởng như đối lập song lại hòa hợp, cảnh làm nền để cho hình ảnh con người nổi bật lên như tâm điểm của một bức tranh – bức tranh lao động khỏe khoắn, vui tươi tràn ngập âm thanh và rực rỡ sắc màu.

Hai câu thơ đầu tả cảnh hoàng hôn trên biển, cũng là thời điểm đoàn thuyền đánh cá ra khơi:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa”.

Nếu chỉ căn cứ vào thực tế sẽ thấy câu thơ có vẻ vô lí, bởi trên vịnh Hạ Long – ở hướng Đông, không thể thấy cảnh mặt trời xuống biển như thế, mà chỉ có thấy mặt trời mọc được thôi. Vậy thì ở đây, khi viết “Mặt trời xuống biển” tức là nhà thơ đã lấy điểm nhìn từ trên con thuyền đang ra khơi,giữa biển khơi nhìn về hướng Tây nơi bờ bãi. Lúc đó, xung quanh con thuyền chỉ là mênh mông sóng nước, mặt trời chỉ còn cách lặn xuống biển. Mặt trời xuống biển nhưng dường như không tàn lụi, không tắt. Nó như hòn lửa – một quả cầu lửa – đỏ rực, khổng lồ chìm vào đáy nước đại dương. Biển cả bao la như nồng ấm hẳn lên.

Phép tu từ so sánh: mặt trời được ví với hòn lửa đem đến cho bức bức tranh hoàng hôn một vẻ đẹp rực rỡ, tráng lệ, và ấm áp chứ không hiu hắt, ảm đạm như trong thơ cổ.

Phép nhân hóa, ẩn dụ “Sóng đã cài then đêm sập cửa” cũng phát huy triệt để vai trò giúp người đọc cảm nhận thiên nhiên, vũ trụ, biển cả như đi vào trạng thái tĩnh lặng, nghỉ ngơi, thư giãn. Vũ trụ giờ đây như một ngôi nhà khổng lồ. Những lượn sóng dài như chiếc then cài, còn màn đêm đang buông xuống là cánh cửa.

Hình ảnh thơ cho thấy thiên nhiên vũ trụ bao la mà gần gũi với con người – biển cả hay đó cũng chính là ngôi nhà thân thuộc của mỗi ngư dân. Có thể nói, hai câu thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên và lòng yêu mến cuộc đời của nhà thơ Huy Cận.

Thiên nhiên vũ trụ là cái phông, cái nền cho con người xuất hiện:

“Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Hình ảnh, nhạc điệu trong câu thơ diễn tả khí thế khỏe khoắn, phấn chấn của những người lao động: khẩn trương làm việc bất kể ngày đêm.

Đoàn thuyền lại ra khơi, tuần tự, nhịp nhàng như cái nhịp sống không bao giờ ngừng nghỉ. Chữ “lại” trong câu thơ đã diễn tả điều đó, cho ta hiểu đây là công việc, là hoạt động hàng ngày, thường xuyên, trở thành một nếp sống quen thuộc của những người ngư dân vùng biển.

“Câu hát căng buồm cùng gió khơi” là hình ảnh ẩn dụ mang tính chất khoa trương. Tiếng hát khỏe khoắn tiếp sức cho gió làm căng cánh buồm. Tiếng hát ấy, làm nổi bật khí thế hồ hởi của người lao động trong buổi xuất quân chinh phục biển cả…

Tiếng hát ấy còn thể hiện niềm mong ước của người đánh cá: mong ước một chuyến ra khơi đánh bắt được thật nhiều hải sản, nhiều cá tôm giữa sự giàu đẹp của biển khơi:

“Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng,
Đến dệt lưới ta,đoàn cá ơi!”

Cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong một đêm trăng rất đẹph,ảmứ dưới ngòi bút lãng mạn của nhà thơ giúp người đọc phát hiện vẻ đẹp của cảnh đoàn thuyền đánh cá trên biển trong đêm trăng với niềm vui phơi phới, khỏe khoắn khi con người làm chủ cuộc đời, làm chủ biển trời quê hương.

Cảnh đoàn thuyền lướt sóng ra khơi, từng luồng cá bủa lưới vây giăng mang vẻ đẹp vừa hoành tráng, vừa thơ mộng:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng”
“Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.

Con thuyền vốn nhỏ bé trước biển trời bao la đã trở thành con thuyền kì vĩ mang tầm vóc vũ trụ. Thuyền có gió làm bánh lái, có trăng làm cánh buồm, lướt giữa mây cao với biển bằng, giữa mây trời và sóng nước.

Chủ nhân con thuyền – những người lao động cũng trở nên lồng lộng giữa biển trời trong tư thế làm chủ. Hình ảnh con người đã hòa nhập với kích thước rộng lớn của thiên nhiên vũ trụ. Không chỉ vậy, họ còn nổi bật ở vị trí trung tâm – ra tận khơi xa dò bụng biển, tìm luồng cá, dàn đan thế trận,bủa lưới vây giăng.

Đoàn thuyền đánh cá băng băng lướt sóng, bủa vây điệp trùng. Công việc lao động trên biển như là một cuộc chiến đấu chinh phục thiên nhiên. Người lao động làm việc với tất cả lòng dũng cảm, sự hăng say, trí tuệ nghề nghiệp, tâm hồn phơi phới.

Bức tranh lao động được điểm tô bằng vẻ đẹp của thiên nhiên. Cái nhìn của nhà thơ đối với biển và cá cũng có những sáng tạo bất ngờ,độc đáo:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng.
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe”.

Thủ pháp liệt kê kết hợp với sự phối sắc tài tình qua việc sử dụng các tính từ chỉ màu sắc “đen hồng”,”vàng chóe”… đã tạo nên một bức tranh sơn mài nhiều màu sắc, ánh sáng, lung linh huyền ảo như trong câu chuyện cổ tích nói về xứ sở thần tiên. Mỗi loài cá là một kiểu dáng, một màu sắc: “Cá nhụ cá chim cùng cá đé / Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” làm nên sự giàu đẹp của biển cả quê hương. Như có một hội rước đuốc trong lòng biển đêm sâu thẳm. Mỗi khi: “Cái đuôi em quẫy”, trăng như vàng hơn, rực rỡ hơn, biển cả như sống động hẳn lên. Người xưa thường nói: “Thi trung hữu họa” – nghĩa là trong thơ có hình có ảnh. Quả đúng như thế, mỗi loài cá ở đây là bức kí họa thần tình. Chúng đâu chỉ là sản phẩm vô tri được đánh bắt bởi bàn tay con người. Với họ – những người ngư dân này – cá là bạn, là “em”, là niềm cảm hứng cho con người trong lao động, và cũng chính là đối tượng thẩm mĩ cho thi ca.

Cảnh đẹp không chỉ ở màu sắc, ánh sáng, mà còn ở âm thanh.Nhìn bầy cá bơi lội, nhà thơ lắng nghe tiếng sóng vỗ rì rầm: “Đêm thở :sao lùa nước Hạ long”. Bằng nghệ thuật ẩn dụ kết hợp nhân hóa, biển cả như một sinh thể sống động. Tiếng sóng vỗ dạt dào dâng cao hạ thấp là nhịp thở trong đêm của biển. Thế nhưng nhà thơ lại viết: “Đêm thở:sao lùa nước Hạ Long”. Thật ra, là sóng biển đu đưa rì rào va đập vào mạn thuyền. Trăng, sao phản chiếu ánh sáng xuống nước biển, mỗi khi sóng vỗ nhịp tưởng như có bàn tay của sao trời đang “lùa nước Hạ Long”. Đó là sự độc đáo, mới lạ trong sáng tạo nghệ thuật. Có thể nói, bằng tâm hồn hết sức tinh tế, tác giả đã cảm nhận được hơi thở của thiên nhiên, vũ trụ. Chính không khí say sưa xây dựng đất nước của những năm đầu khôi phục và phát triển kinh tế là cơ sở hiện thực của những hình ảnh lãng mạn trên.

Bút pháp lãng mạn, trí tưởng tượng phong phú của tác giả đã sáng tạo nên những hình ảnh đẹp khiến công việc lao động nặng nhọc của người đánh cá trở thành bài ca đầy niềm vui, nhịp nhàng cùng thiên nhiên:

“Ta hát bài ca gọi cá vào
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”.

“Gõ tphuyền” là công việc thực của người đánh cá, nhưng cái độc đáo ở đây là vầng trăng được nhân hóa, tham gia lao động cùng con người. Người dân chài hát bài ca gọi cá, bài ca về lòng biết ơn mẹ biển giàu có, nhân hậu. Sao mờ, đêm tàn cũng là lúc người dân chài kéo lưới kịp trời sáng. Cảnh kéo lưới, bắt cá được miêu tả vừa chân thực, vừa đầy chất thơ với không khí khẩn trương, gấp gáp:

“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng”.

Có thể nói, cảnh lao động đánh cá trên biển như bức tranh sơn mài rực rỡ. Người kéo lưới là trung tâm của cảnh được khắc họa rất độc đáo với thân hình gân guốc, chắc khỏe cùng thành quả thu về “vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”. Màu hồng của bình minh làm ấm sáng bức tranh lao động. Thiên nhiên và con người cùng nhịp nhàng trong sự vận hành của vũ trụ.

Cảnh đoàn thuyền đánh cá thắng lợi trở về khi bình minh đã rạng ngời trên biển. Khổ thơ đầu được lặp lại gần như nguyên vẹn câu cuối, chỉ thay có một từ ( từ “với”) đem đến kết cấu đầu – cuối tương ứng, tạo sự hài hòa cân đối. Cấu trúc lặp lại ấy trở thành điệp khúc ngân nga, nhấn mạnh niềm vui lao động làm giàu đẹp quê hương và khắc họa đậm nét vẻ đẹp khỏe khoắn cùng niềm vui phấn khởi của người ngư dân.

Phép tu từ nhân hóa: “Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”cho thấy tư thế chủ động chinh phục biển trời, vũ trụ của người ngư dân. Đúng như lời bình của chính tác giả: “Bài thơ là cuộc chạy đua giữa con người với thiên nhiên và con người đã chiến thắng”.

Nếu khổ thơ đầu, mặt trời xuống biển báo hiệu hoàng hôn thì ở khổ cuối lại là mặt trời đội biển – là ngày mới bắt đầu – ngày mới với thành quả lao động bội thu và niềm tin yêu phấn chấn.

Câu thơ kết bài vừa mang ý nghĩa tả thực, vừa khiến người đọc liên tưởng tới một tương lai tươi sáng, huy hoàng: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”. Ngày mới bắt đầu – thành quả lao động trải dài muôn dặm phơi – một cuộc đời mới đang sinh sôi, phát triển.

  • Kết bài:

Bài thơ Đoàn thuyền  đánh cá đã khắc họa nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống. Thi phẩm có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú, độc đáo; có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan.

Phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận

3 bình luận trong “Đóng vai người lao động kể lại chuyến ra khơi trong Đoàn thuyền đánh cá”

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang