Kiến thức luyện thi bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.

tay-tien-quang-dung

Kiến thức luyện thi bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng.

I. Giới thiệu chung.

Quang Dũng (1921-1988) là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh; nhưng trước hết là một nhà thơ mang hồn thơ phóng khoáng lãng mạn và hào hoa đặc biệt khi ông viết về người lính Tây Tiến và xứ Đoàn Sơn Tây của mình.

Tây Tiến là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà thơ Quang Dũng. Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng.

II. Phân tích bài thơ.

1. Những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến, cảnh trí hoang sơ, hùng vĩ, dữ dội của miền Tây đất nước và hình ảnh người lính Tây Tiến bất khuất (14 câu đầu).

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
(…)
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói,
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.

– Khơi nguồn cho mạch cảm xúc của bài thơ là nỗi nhớ. Nỗi nhớ da diết về đồng đội, về những năm tháng không thể nào quên phủ khắp bài thơ:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”

Nỗi nhớ dường như không kìm nén nổi, “chủ thể” nhớ phải thốt lên thành tiếng gọi. Và nỗi nhớ như được cụ thể hóa, hình tượng hóa bằng từ láy tượng hình “chơi vơi” rất gợi cảm, tạo cảm xúc cho những dòng thơ tiếp nối với những cảnh núi cao, vực thẳm, rừng sâu xuất hiện.

– Theo dòng hoài niệm của nhà thơ, bức tranh thiên nhiên của núi rừng Tây Bắc hiện lên sống động:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.

+ Sài Khao,Mường Lát là những tên đất, tên làng mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua.

+ Hai chữ “sương lấp” gợi một miền đất hoang sơ, quanh năm mây mù che phủ.

+ Ba chữ “đoàn quân mỏi” gợi một cuộc hành quân dãi dầu đầy gian khổ của người lính Tây Tiến (cảm hứng hiện thực).

+ Hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” là hoa của thiên nhiên hay con người? Chỉ biết rằng nó gợi một cảm giác nhẹ nhàng, êm ả, đẩy lùi nỗi nhọc nhằn của người lính Tây Tiến trong cuộc hành quân (cảm hứng lãng mạn).

– Bốn câu thơ tiếp theo được xem là tuyệt bút, là một bằng chứng thi trung hữu họa:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

– 4 câu thơ vẽ ra một bức tranh thật kỳ vĩ với những cung bậc khác nhau. Đó là khung cảnh rất hoang vu và hiểm trở, là nơi hoạt động của đoàn quân Tây Tiến. Sự hoang vu và hiểm trở ấy được diễn tả bằng những từ ngữ rất giàu sức tạo hình như: khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút, cồn mây, súng ngửi trời.

+ Từ láy khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút diễn tả sự hiểm trở với những con đường quanh co, gập ghềnh, đứt đoạn của núi rừng Tây Bắc.

+ Câu thơ “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” như bị bẻ gẫy làm đôi, rất dứt khoát, mạnh mẽ làm cho người đọc như thấy được rất rõ chiều cao của núi, độ cao của dốc và con tim không khỏi hồi hộp vì lo sợ cho những bước chân của người lính chiến.

+ Nếu như câu thơ trước diễn tả cái “nhìn lên”, “nhìn xuống” thì câu thơ “nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” lại diễn tả cái “nhìn ngang”. Cái nhìn này đã mang đến cho người đọc sự tận hưởng về một cảm giác nhẹ nhàng, bình lặng, giải tỏa được nỗi lo sợ cho những bước chân của người lính chiến. Câu thơ gồm toàn thanh bằng đã góp phần tích cực vào việc diễn tả cảm giác này.

+ Hình ảnh “súng ngửi trời” là một cách viết thật sáng tạo, vừa diễn tả được tầm cao của núi, cái hiểm trở mà người lính phải vượt qua, lại vừa bộc lộ được cái hóm hỉnh của người lính ngay cả khi gian khổ nhất. Núi cao tưởng chừng như ngập trong mây, mây nổi lên thành từng cồn “heo hút”. Câu thơ giúp ta hình dung được người Tây Tiến đang ở một vị trí nào đó rất cao trên đỉnh đèo nên mới có cảm giác “súng ngửi trời”.

– Bốn câu thơ có sự phối thanh rất đặc biệt. Ba câu đầu có tới 11 thanh trắc gợi cảm giác nặng nề, trúc trắc nhưng câu thơ thứ tư lại toàn thanh bằng gợi cảm giác nhẹ nhàng. Sự phối thanh trong đoạn thơ cũng giống như cách phối màu trong hội họa. Giữa những gam màu nóng, tác giả lại sử dụng một gam màu lạnh làm dịu lại, như xoa mát cả khổ thơ. Tài năng hội họa của Quang Dũng đã được bộc lộ trong bốn câu thơ này. – Sự giữ dội của thiên nhiên Tây Bắc còn được tác giả tiếp tục khai thác theo chiều dài của thời gian “đêm đêm” và chiều rộng của không gian “Mường Hịch”. Núi rừng Tây Bắc đâu chỉ có núi cao, vực thẳm mà còn có thác gầm, cọp dữ:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

– Ngòi bút lãng mạn, tài hoa của Quang Dũng đã phát huy cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yếu tố cường điệu, phóng đại, những thủ pháp đối lập để tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về sự hùng vĩ dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc.

* Hình ảnh người lính Tây Tiến bất khuất.

– Khung cảnh thiên nhiên làm nền cho hình ảnh người lính Tây Tiến xuất hiện.

+ Trong cuộc hành quân gian nan vất vả, người lính Tây Tiến không thể tránh được sự mệt mỏi “đoàn quân mỏi”. Quang Dũng đã ghi lại hiện thực đó. Thậm chí không giấu giếm sự hi sinh:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời”

+ Người lính Tây Tiến coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng”. Cái bi đã được nâng đỡ bằng đôi cánh lãng mạn làm cho cái bi trở thành bi tráng.

– Trên chặng đường hành quân, người lính Tây Tiến nghỉ lại ở một bản làng và bữa cơm đầu mùa tỏa hương nếp mới đã xua tan nhọc nhằn đời lính chiến và đưa họ về với cuộc sống đời thường:

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

→ Bằng bút pháp lãng mạn, Quang Dũng đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc và hình ảnh người lính kháng chiến trong cuộc hành quân gian khổ.

2. Những kỷ niệm đẹp của nghĩa tình quân dân và cảnh sông núi miền Tây đầy thơ mộng (8 câu thơ tiếp theo).

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa,
(…)
Có nhớ dáng người trên độc mộc,
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa?”

– Bút pháp lãng mạn của Quang Dũng đã đẩy lùi khung cảnh hùng vĩ núi rừng hoang vu, hiểm trở, dữ dội mở ra một thế giới khác của Tây Bắc. Đó là cảnh một đêm liên hoan văn nghệ, cảnh sông nước mênh mang trong buổi chiều sương.

* Cảnh đêm liên hoan văn nghệ:

– Khi màn đêm buông xuống cũng là lúc đêm liên hoan văn nghệ bắt đầu: “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”

+ Chữ “bừng”: vừa diễn tả không khí tưng bừng, sôi nổi của đêm văn nghệ, vừa tỏa sáng không gian, xua đi màn đêm bóng tối.

+ Hai chữ “đuốc hoa”: chỉ ngọn đuốc thắp sáng trong đêm văn nghệ, vừa chỉ ngọn đuốc thắp sáng trong đêm tân hôn. Ý thơ thể hiện sự tinh nghịch của chàng trai Tây Tiến.

– Hình ảnh của “em” chính là trung tâm, là linh hồn của đêm văn nghệ:

“Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

+ Đó là cô gái dân tộc dịu dàng, duyên dáng (e ấp), trong trang phục dân tộc (xiêm áo), trong vũ điệu dân tộc “man điệu”. Vẻ đẹp của em đã thu hút sự chú ý của các chàng trai Tây Tiến.

+ Hai chữ “kìa em” biểu lộ sự ngõ ngàng đến ngạc nhiên của chàng trai Tây Tiến trước vẻ đẹp của cô gái.

+ Âm thanh của tiếng khèn, cảnh vật và tình quân dân ấm áp đã thăng hoa cảm xúc của người nghệ sĩ: “Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”.

* Cảnh sông nước miền Tây.

– Nếu đêm liên hoan văn nghệ đem đến cho người đọc không khí say mê ngây ngất, thì cảnh sông nước miền Tây gợi cảm giác mênh mang huyền ảo:

“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”.

+ Nhà thơ không tả mà chỉ gợi. Vậy mà cảnh vẫn hiện lên thơ mộng.

+ Không gian của buổi chiều giăng mắc một màn sương – “chiều sương”.

+ Bông hoa lau như có hồn, phảng phất trong gió.

+ Bến bờ tĩnh lặng, hoang dại như thời tiền sử.

+ Bông hoa rừng không “đung đưa”“đong đưa” như làm duyên với cảnh, với người.

– Trên dòng sông ấy là hình ảnh một cô gái duyên dáng, uyển chuyển, khéo léo trên chiếc thuyền độc mộc, giữa dòng nước lũ. Hình ảnh đó tạo nên một vẻ đẹp lãng mạn cho bức tranh thơ mộng của núi rừng Tây Bắc.

– Ngòi bút tài hoa của Quang Dũng thể hiện tập trung ở đoạn này, chất nhạc hòa quyện chất thơ. Vì thế, Xuân Diệu có lí khi cho rằng: “Đọc đoạn thơ này như ngâm nhạc trong miệng”.

→ Bằng bút pháp lãng mạn, Quang Dũng đã vẽ ra bức tranh thiên nhiên thơ mộng, duyên dáng, mĩ lệ, hùng vĩ của núi rừng miền Tây.

3. Bức chân dung lẫm liệt của người lính Tây Tiến.

a. Vẻ đẹp kiêu hùng của lính Tây Tiến:

– Chân dung của người lính Tây Tiến được vẽ bằng nét bút khác lạ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

+ Người lính Tây Tiến chiến đấu trong điều kiện thiếu thốn gian khổ, bệnh sốt rét hoành hành làm cho mái tóc xanh hôm nào rụng hết (không mọc tóc) và hậu quả của bệnh sốt rét rừng đã để lại làn da xanh xao như “màu lá”. Nhưng dưới ngòi bút của Quang Dũng những mái đầu không mọc tóc, màu nước da xanh như màu lá lại có vẻ đẹp kiêu dũng, oai phong của con hổ nơi rừng thiêng. Dường như họ xem thường mọi khổ ải, thiếu thốn.

– Nét độc đáo trong cách miêu tả của nhà thơ là không miêu tả cụ thể một gương mặt nào của người lính Tây Tiến mà tập trung khắc họa rõ nét mặt chung của cả đoàn quân Tây Tiến.

+ Hai chữ “đoàn binh” tạo một âm hưởng mạnh mẽ, dứt khoát còn hình ảnh “không mọc tóc” lại gợi lên nét ngang tàng của người lính Tây Tiến.

– Thơ ca kháng chiến khi viết về người lính thường nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Quang Dũng không hề che dấu những gian khổ đó nhưng ông không miêu tả một cách trần trụi mà qua một cái nhìn đậm màu sắc lãng mạn.

b. Vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng, hào hoa:

– Những chàng trai Tây Tiến không chỉ có vẻ đẹp oai hùng của con hổ nơi rừng thiêng mà còn có tâm hồn lãng mạn:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Cái nhìn nhiều chiều đã giúp nhà thơ nhìn qua cái dằn dữ mắt trừng của họ là những tâm hồn, trái tim rạo rực yêu thương. Họ chiến đấu trong điều kiện gian khổ nhưng vẫn mơ về Hà Nội. Ở đó có dáng hình của người đẹp “dáng kiều thơm”. Hình bóng người đẹp ở quê hương là động lực tinh thần thúc giục các anh cầm súng tiêu diệt
kẻ thù.

c. Vẻ đẹp bi tráng:

– Viết về người lính Tây Tiến, Quang Dũng không hề che dấu cái bi, nhưng cái bi lại được nâng đỡ bằng đôi cánh lãng mạn làm cho cái bi trở thành bi tráng:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

+ Hình ảnh những nấm mồ rái rác nơi biên cương, viễn xứ gợi một cảm xúc bi thương.

+ Hình ảnh “đời xanh” là biểu tượng cho tuổi trẻ đặt sau chữ “chẳng tiếc” thể hiện tinh thần tự nguyện, sẵn sàng vượt lên cái chết hiến dâng cả sự sống, tuổi trẻ cho nghĩa lớn của dân tộc.

+ Người lính Tây Tiến khi chết chỉ có manh chiếu (thậm chí không có) quấn thân nhưng tác giả đã thay vào đó tầm áo bào sang trọng. Và khúc nhạc tiễn đưa anh là âm thanh gầm réo của dòng sông Mã. Sự thật bi thương vậy mà dưới ngòi bút của Quang Dũng, người lính Tây Tiến vẫn chói ngời vẻ đẹp lý tưởng và mang dáng dấp của những tráng sĩ thuở trước.

– Tinh thần xả thân của người lính Tây Tiến được diễn đạt bằng những từ Hán Việt hết sức trang trọng: biên cương, viễn xứ, chiến trường, áo bào, độc hành… Cách nói giảm nói tránh “về đất” làm mờ đi cái bi thương rồi bị át hẳn trong cái âm thanh của dòng sông Mã. Âm thanh đó làm cho sự hi sinh của người lính Tây Tiến không bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng.

→ Bằng bút pháp lãng mạn nhà thơ đã khắc họa thành công bức chân dung tượng đài bằng ngôn từ về đoàn quân Tây Tiến.

4.  Lời thề thủy chung và lời hẹn ước với Tây Tiến (khổ thơ cuối).

– Nhớ đến Tây Tiến, tác giả nhớ đến tháng ngày đẹp đẽ, hào hùng say mê:

“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi”

+ Hình ảnh “người đi không hẹn ước” thể hiện tinh thần chung của Tây Tiến. Tinh thần ấy thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm người lính Tây Tiến.

– Xa Tây Tiến nhưng tâm hồn, tình cảm nhà thơ vẫn gửi lại nơi ấy, những nơi mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua.

“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”

– Nhịp thơ chậm, giọng điệu thơ buồn nhưng linh hồn của đoạn thơ vẫn toát lên vẻ hào hùng

– Các địa danh được nói tới tạo ấn tượng về tính cụ thể, xác thực của thiên nhiên, cuộc sống con người.

→ Đoạn kết gợi lại không khí của một thời Tây Tiến một đi không trở lại.

5. Nghệ thuật biểu hiện.

– Cảm hứng và bút pháp lãng mạn.

– Cách sử dụng ngôn từ đặc sắc: Chỉ địa danh, từ hình tượng, hán việt…

– Kết hợp chất nhạc và chất họa.

– Nhà thơ tập trung tô đậm cái đặc biệt, cái phi thường, cái đẹp của xứ phương xa, đồng thời lồng vào hình ảnh người anh hùng trong hiện thực theo ba mẫu lí tưởng của người tráng sĩ thời xưa.

III. Kết bài:

Tây Tiến là một bài thơ toàn bích. Thi phẩm kết tinh nhiều sáng tạo nghệ thuật của tác giả: bút pháp tạo hình đa dạng, ngôn ngữ vừa quen thuộc, vừa độc đáo, vừa có nét cổ kính vừa mới lạ; bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng. Bài thơ đã tái hiện được vẻ hùng vĩ, thơ mộng của núi rừng Tây Bắc, vẻ đẹp lãng mạn và tinh thần bi tráng của đoàn quân Tây Tiến. Qua bài thơ, ta thấy tình yêu thiên nhiên, sự gắn bó với đoàn quân Tây Tiến của tác giả.


Đề bài Tham khảo:

Suốt dọc bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng có sự phối kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai bè cảm xúc: Hào hùng và hào hoa. Anh/ chị hãy làm sáng tỏ nhận xét trên qua đoạn thơ sau:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.

(Trích: Tây Tiến – Quang Dũng)

* Hướng dẫn làm bài:

I. Mở bài

– Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài, nhưng trước hết là một thi sĩ mang hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu và tài hoa.

– Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng và thơ ca chống Pháp.

– Bài thơ có sự phối kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai bè cảm xúc: Hào hùng và hào hoa.

II. Thân bài:

1. Giải thích:

– “Hào hùng”: vẻ đẹp kiêu dũng, anh hùng; vẻ đẹp phẩm chất, cốt cách mạnh mẽ thuộc về ý chí.

“Hào hoa”: Bay bổng, lãng mạn trong tâm hồn.

→ Đây là hai mạch cảm xúc cơ bản hòa quyện với nhau làm nên vẻ đẹp của hình tượng người lính thời chống Pháp.

2. Chứng minh qua đoạn thơ:

– Đây là đoạn thơ thể hiện rõ nét nhất sự phối kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai bè cảm xúc: Hào hùng, hào hoa.

– Cảm xúc hào hùng, hào hoa thể hiện trong việc khắc họa bức chân dung người lính trong một thời đại anh hùng. Người lính mang phong thái kiêu hùng của những chiến binh anh hùng, khao khát lập chiến công (Đoàn binh không mọc tóc, dữ oai hùm)

– Cảm xúc hào hùng, hào hoa thể hiện trong việc thể hiện nội tâm người lính (Hào hùng với khát vọng lập công bảo vệ tổ quốc: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới, hào hoa lãng mạn trong nỗi nhớ Dáng kiều thơm – nhớ những người con gái xinh đẹp đáng yêu trên mảnh đất Hà Thành)

– Cảm xúc hào hùng, hào hoa thể hiện ngay cả khi nhà thơ nói về sự hi sinh của người lính (Hi sinh vì một lời thề quyết tử cho tổ quốc quyết sinh – Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Vẻ đẹp tráng sĩ làm mờ đi thực trạng thiếu thốn khốc liệt của chiến trường – Áo bào thay chiếu anh về đất/ Sông Mã gầm lên khúc độc hành). Đúng là “Lí tưởng cách mạng đã truyền cho các chàng trai Tây Tiến chất anh hùng ngang tàng và chất men say lãng mạn ngay cả khi họ chết cũng như phảng phất nét nghệ sĩ tài tử” (Phong Lan – Bài thơ Tây tiến – tượng đài bất tử về người lính vô danh).

– Âm hưởng lời thơ bi tráng,nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc đã góp phần tạo nên vẻ đẹp hào hùng hào hoa cho bức chân dung người lính Tây Tiến.

III. Kết bài:

– Đoạn thơ làm hiện lên một bức chân dung độc đáo, mới mẻ về hình tượng người lính.

– Cảm xúc trong đoạn thơ tạo nên âm hưởng của thời đại.

– Cảm xúc trong đoạn thơ đã góp phần không nhỏ làm nên giá trị cho Tây Tiến trong nền thi ca Việt Nam.

Suy nghĩ của anh/chị về vấn đề lý tưởng sống của thanh niên thời nay từ câu thơ: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” (“Tây Tiến” – Quang Dũng)

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.