Làm rõ cái ngông của Nguyễn Công Trứ trong bài Bài ca ngất ngưởng và cái ngông của Tản Đà trong bài Hầu trời.

lam-ro-cai-ngong-cua-nguyen-cong-va-tan-da

Làm rõ cái ngông của Nguyễn Công Trứ trong bài Bài ca ngất ngưởngcái ngông của Tản Đà trong bài Hầu trời.

* Hướng dẫn làm bài:

1. Cái ngông trong văn chương.

“Ngông” là tự cao, tự coi mình là người quan trọng, xuất chúng hơn người khác, hành động ngang tàng, khác hoặc trái với lẽ thường. Trong văn chương ngông còn có nghĩa là bản lĩnh con người có cá tinh mạnh mẽ.

– Cái “ngông” trong văn chương bắt nguồn từ việc tác giả ý thức được cái tôi, tài năng, nhân cách của bản thân. Các tác giả có cái “ngông” như Nguyễn Công Trứ, Tản Đà, Nguyễn Tuân, …

2. So sánh cái ngông của Nguyễn Công Trứ và Tản Đà.

a. Giống nhau:

– Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ và Tản Đà là phản ứng của người nghệ sĩ tài hoa, có cá tính, không chịu trói mình trong khuôn khổ chật hẹp của văn chương

– Cái “ngông” của hai nhà thơ là còn thể hiện thái độ của những người trí thức có nhân cách trước một xã hội mà họ không thể chấp nhận và cũng không muốn chấp nhận.

b. Khác nhau:

– Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ trong bài Bài ca ngất ngưởng: là ý thức rất cao về tài văn võ song toàn của bản thân, là sự khẳng định cá tính đặc biệt, thể hiện bản lĩnh của một nhân cách sống trong xã hội phong kiến. Tuy chưa thoát khỏi sự khắc kỉ của một nhà nho nhưng ông đã có ý thức trỗi dậy để khẳng định mình

– Cái “ngông” của Tản Đà trong bài Hầu trời: Có nhiều điểm lặp lại cái ngông của Nguyễn Công Trứ. Nhưng do đặc thù về thời đại nên có những biểu hiện nổi bật khác. Tài năng mà Tản đà muốn bộc lộ là tài thuộc phạm trù văn chương, ông không xem trong vấn đề “nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung” như Nguyễn Công Trứ. ông đã khẳng định tự do cá nhận một cách mạnh mẽ.


Tham khảo:

  • Mở bài:

Nguyễn Công Trứ và Tản Đà sinh ra và lớn lên vào hai giai đoạn khác nhau của lịch sử. Nhưng xét về bản chất, hai bối cảnh đó lại có những nét tương đồng: trong lòng xã hội nảy sinh những biến động bão táp làm xuất hiện nhiều trạng thái tõm lớ, nhiều tư tưởng mang tính chất phản xã hội, bộc lộ nhu cầu cá nhân… Cùng là những con người tài hoa, có cá tính độc đáo, cả hai nhà thơ đều có một vị trí quan trọng trong đời sống văn chương thời đó, do đó mở ra một lối sống mới, một cách thể hiện mới làm cho bộ mặt văn chương có phần thay đổi. Sự nghiệp thơ văn của Nguyễn Công Trứ và Tản Đà chính là sự phản ánh rõ nhất cuộc đời tài hoa, tài tử, phá phách của hai ông. Từ Nguyễn Công Trứ đến Tản Đà, chúng ta nhìn thấy một điểm rất chung: cả hai ông đều thể hiện một cái “ngông” hết sức độc đáo trong văn chương.

  • Thân bài:

Theo Từ điển Tiếng Việt, “ngông” có nghĩa là: nói cử chỉ, hành động ngang tàng, khác hoặc trái với cái thông thường. Trong cuộc sống, “ngông” là một vấn đề thuộc về cá tính, phong thái, lối sống, quan niệm của con người về cuộc sống và những vấn đề tồn tại trong cuộc sống. Nó là sự ngạo nghễ, khinh bạc có phần ngông nghênh, vượt ra những quy chuẩn của xã hội. Thuộc về cá tính nên không phải bất cứ ai trong cuộc đời cũng “ngông” được. Như một mệnh đề giá trị để khẳng định con người cá tính độc đáo hơn đời, khác đời, vấn đề “ngông” là một vấn đề thuộc về phẩm chất cá tính nhiều hơn.

“Con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội” nên bất cứ ai tồn tại trong xã hội cũng đề chịu những tác động chung của xã hội mà họ đang sống. Nhưng cách phản ứng của mỗi người không phải ai cũng như ai. Trước bão táp của cuộc đời, có người khoanh tay đứng nhìn, có người bế tắc, có người lại đón nhận nó một cách rất bình tâm và coi nó như là một cuộc thử lửa để nung nấu cho mình những phẩm chất sắt đá, gan góc. Họ luôn luôn lạc quan có khi đến khinh bạc trước những khó khăn xảy đến với mình. Con người như vậy là con người nghị lực, con người luôn luôn vượt lên trên hoàn cảnh và tìm cách chiến thắng nó bằng nội lực bản thân.

Cơ sở của lối sống “vượt khuôn khổ” ấy trước hết, nó xuất phát từ sự nhận thức của con người với cuộc sống. Cuộc sống luôn vận động và phát triển theo những quy luật nội tại của nó, nắm được bản chất của những quy luật đó, con người sẽ có được thái độ xử sự đúng đắn. Thứ hai, nó xuất phát từ ý thức sâu sắc về tài năng. Con người tài năng sẽ bất chấp mọi khuôn khổ, mọi thử thách của hoàn cảnh. Dù cuộc đời có giăng ra trước mắt họ thiên la địa võng thì con chim đại bàng vẫn tung bay trên bầu trời cao rộng của nó. Cái “ngông” càng lộ diện trong hoàn cảnh mà xã hội cương toả con người, kìm kẹp con người, xã hội phi cá tính.

Trong văn học, vấn đề “ngông” gắn chặt với việc thể hiện con người cá nhân, cá tính, con người vượt ra khỏi vòng cương toả của xã hội. Văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến đầu thế kỉ XVIII, trong khi khẳng định cái “Ta” như một phẩm chất cao đẹp của con người thỡ nó cũng làm một công việc tiếp theo nữa là phủ định cá tính của cá nhân đó. Con người giai đoạn này là con người công dân, trách nhiệm nên ta không đặt vấn đề “ngông” ở đây. Chỉ đến giai đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, vấn đề này mới được đặt ra như một bước phát triển mới trong việc thể hiện con người. Hai tác giả tiêu biểu là Hồ Xuân Hương và Nguyễn Công Trứ. Không còn là con người “thần, tiên, thiền” nữa mà là con người trần tục, nhục cảm, vật chất, con người sống thành thật với chính mình.

Ở văn học giai đoạn này, người quân tử với ý niêm an bần lạc đạo, giữ mình trong sạch không còn nữa, nhường chỗ cho con người tài tử, ngợi ca chữ Tài, chữ Tình, sống hành lạc: “Cuộc hành lạc chơi bao là lãi bấy / Nếu không chơi thiệt ấy ai bư” (Nguyễn Công Trứ). Chưa bao giờ con người trong văn học lại buông thả công khai, tự do như thế! Văn học là sự thể hiện con người một cách sinh động và sâu sắc nhất.

Thời đại nào cũng có những con người thị tài, khoe tài và viết về tài mình một cách sảng khoái. Từ cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ trong xã hội phong kiến đến cái “ngông” của Tản Đà trong xã hội thành thị buổi giao thời là sự tiếp nối trong việc thể hiện con người cá nhân của hai nhà nho tài tử đồng thời lại biểu hiện những cung bậc sắc điệu khác nhau của hai con người, hai thời đại.

Xã hội phong kiến thời Nguyễn Công Trứ có nhiều nhiễu nhương, biến động đồng thời cũng là bối cảnh để thức dậy nhiều tư tưởng thời đại, thức dậy nhiều ý niệm mới về con người cá nhân với cá tính, tài năng và sáng tạo. Nguyễn Công Trứ – một bản lĩnh trong cuộc sống, một cá tính trong văn chương đã khẳng định mình như một nhà nho sống cao hơn những phép tắc, luật lệ của xã hội. Cánh buồm thơ của ông phăng phăng lướt trong gió mà không sợ một sự trở ngại nào. Ông ngông trong cuộc đời bao nhiêu thì văn chương của ông cũng lộng gió và khác đời bấy nhiêu. Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ được thể hiện rõ nét nhất trong những bài hát nói phóng khoáng, mạnh mẽ, nói lên được cái chí tung hoành của con người toan xẻ núi lấp sông, coi thường thế tục trần ai, khoả sức vẫy vùng đồng thời được thể hiện trong những vần thơ “ngất ngưởng”. Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ trong cuộc đời và trong văn chương được xem như một sự khẳng định về một kiểu nhà nho mới trong văn học. Nó được thể hiện ở nhiều phương diện như quan niệm về chí trai, cái nhìn về hiện trạng xã hội và hành lạc – được xem như một biểu hiện rõ nhất của cỏi “ngông” Nguyễn Công Trứ.

Bài ca ngất ngưởng thuộc thể hát nói, được sáng tác sau 1848, khi Nguyễn Công Trứ đã cáo quan về hưu và sống cuộc đời tự do nhàn tản. Bài thơ là bản tự thuật, tự bạch về một cuộc đời, được nâng lên tầm triết lý sống. Bài thơ thể hiện rất rõ thái độ sống của Nguyễn Công Trứ ở giai đoạn cuối đời, sau những trải nghiệm đắng cay của cuộc sống quan trường. Đó là thái độ coi thường danh lợi, vượt lên thói thường để sống cuộc sống tự do tự tại. Giữa cái xã hội mà mọi cá tính đều bị thủ tiêu thì cái tôi “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ chẳng những bộc lộ một bản lĩnh cứng cỏi, sự thức tỉnh ý thức cá nhân mà còn thể hiện rõ một nhân sinh quan tiến bộ hiện đại. Bằng giọng điệu khoa trương, ý vị trào phúng đặc biệt của thể thơ hát nói, bài ca đã tạc nên một bức chân dung Nhà thơ – Nhà nho tài tử đầy cá tính giữa đám triều thần phàm tục.

Đối với một trang nam tử trong xã hội phong kiến, việc học hành, thi cử, đỗ đạt và làm quan là một điều tất yếu đặt ra như bổn phận. Chí theo đuổi lập công danh như ngọn lửa cháy sáng trong suốt cuộc đời mỗi người đọc sách thánh hiền. Bản thân Nguyễn Công Trứ, dù tài hoa học giỏi nhưng đường hoạn lộ cũng không phải đã dễ dàng, trôi chảy. Năm 1819, khi 42 tuổi ông mới trúng giải Nguyên trường thi Nghệ An. Nhưng có một điều đặc biệt là: trong lịch sử văn học nước ta chưa có một nhà nho nào lại ý thức về việc lập công danh sâu sắc như ông Thượng Thứ này. Sáng tác của ông có thể nói là sự khẳng định và đi tìm một cách khẳng định đúng đắn nhất về chữ công danh trong cuộc đời. Quan niệm về công danh sự nghiệp được Nguyễn Công Trứ gọi bằng những tên khác nhau: chí nam nhi, đường công danh, nợ công danh, nợ tang bồng…

Tìm hiểu sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Công Trứ ta thấy có khoảng hơn 10 bài thơ ông luận về kẻ sĩ, về chí khí anh hùng, về công danh sự nghiệp. Và trong những bài thơ đầy trỏng chớ ấy, không lúc nào nhà thơ quên khẳng định về vị trí, vai trò của mình giữa cuộc đời. Ông cho rằng, việc mình sinh ra trên đời là việc hữu ý của trời đất:

Thiên phú ngô, địa tỏi ngụ
Thiên địa sinh ngụ nguyờn hữu ý
(Trời che ta, đất chở ta
Trời đất sinh ra ta là có ý)

Ông cho rằng, mình sinh ra là phải làm tròn phận sự, coi mọi việc trong trời đất đều là việc của ta:

– Vũ trụ chức phận nội
(Việc vũ trụ là phận sự của ta)

– Vũ trụ chi gian giai phận sự
(Những việc trong vũ trụ đều là phận sự của ta)

Đây là một nhân sinh quan tích cực hành động của con người không bao giờ biết thoái thác trách nhiệm của mình, ụng luôn giơ vai của mình ra mà gánh càn khôn. Ở Nguyễn Công Trứ, quan niệm về “nợ cụng danh”cú phần kiêu căng, hơi ngạo nghễ. Ông dám báo trước những điều ông sẽ làm được:

Hội rồng mây cho phỉ chí tang bồng
Cờ báo tiệc giữa trời bay bướm nhẹ
Tài bộ thế mà công danh lại thế
Nợ trần hoàn quyết trả lúc này xong

Nguyễn Công Trứ nói nhiều đến công danh. Nhưng không bó hẹp trong hai chữ công danh là lập thân nữa mà ông nhìn lên cao hơn, nhìn ra núi sông, vũ trụ. Ông mở rộng đường biên đến cõi bao la, vô tận. Công danh của ông được đặt trong mối tương quan với trời đất. Cũng chính vì vậy mà hình ảnh kẻ sĩ lên mang một tầm vóc, một kích thước khổng lồ:

Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông

(Nợ tang bồng)

Có trung hiếu nên đứng trong trời đất
Không công danh thời nát với cỏ cây

(Gánh trung hiếu)

Như vậy, với Nguyễn Công Trứ, người nam nhi lập công danh vừa để thoả cỏi chớ của mình vừa để trả món nợ cho hoỏ cụng, để góp tiếng nói vào khúc hợp tấu của vũ trụ. Đây là quan niệm thật hào sảng, nó nâng tầm nhà nho lên tầm anh hùng cứu thế. Nó đưa kẻ sĩ đến việc “thực hiện một mẫu người tổng hợp, trong đó có cái đạo đức của Trọng Ni, cái hùng dũng của Tử Lộ, cái thanh thản của Tăng Điểm. Kẻ sĩ của ông như thành một siêu nhân” (Phạm Thế Ngũ). Quan niệm về công danh sự nghiệp không phải là quan niệm mới mẻ của kẻ sĩ thời trung đại.

Nguyễn Công Trứ là nhà nho “cú tài và thị tài” (Trần Đình Hượu). Sáng tác của ông là bài ca ca ngợi tài năng kiệt xuất của bản thân. Trong xã hội phong kiến, các bậc anh hùng hào kiệt thường hay ý thức về tài mình và coi đó là cái vốn để lập thân. Nguyễn Công Trứ cực đoan cái tài của mình trong một ý thức rất cao về bản ngã. ễng khoe tài một cách rất dõng dạc, như là một sự nổi loạn của cá tính:

Trời đất cho ta một cái tài
Giắt lưng dành để tháng ngày chơi

(Cầm kì thi tửu)

Trong trần ai ai kém ai đâu
Tài bộ thế khoa danh ờ lại có

(Đường công danh)

Không tài tình quang cảnh có ra chi

(Tài tình)

Trước kia, Nguyễn Du cho tài năng là vô ích, là phù phiếm, mang tài là khổ:”Phàm sinh phụ kì ý – Thiên địa phi sở dụng”(Phàm sinh người có ý lạ-

Trời đất không có chỗ dung) hay câu “Có tài mà cậy chi tài- Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Quan điểm này thật ngược với Nguyễn Công Trứ – con người luôn có ý thức lập phẩm rất cao và luôn mang cái tài của mình ra mà
thách thức thiên hạ. Tài của Nguyễn Công Trứ là tài năng và tài tình. Tất cả những biểu hiện của nó đều được nhà thơ nhấn mạnh đến cực điểm. Chính quan niệm về cái tài như vậy nên Nguyễn Công Trứ tự cho mình có thể làm
được nhiều điều không tưởng, vượt ra ngoài khả năng của con người bình thường. Ông khẳng định:

Đường thư kiếm vẫy vùng cho hết đất.
Hà cớ chi an phận thủ thường.

rồi:

Trong lăng miếu ra tài lương đống
Ngoài biên thuỳ rạch mũi can tương.

Điều này làm cho ông trở thành một kiểu mẫu nhà nho tài tử khác hẳn với kiểu nhà nho hành đạo. Dường như trong cõi đất trời này, chỉ có mình “hoàng độc thi nhõn”(Đào Tấn) là có tài mà thôi. Thiên hạ như nhỏ bé hơn dưới cái nhìn bao la của bậc tài tử. Và như thế thì tầm vóc của người quân tử cũng được nâng lên. Vì cậy tài và khoe tài nên Nguyễn Công Trứ luôn luôn đắc ý:

Vũ trụ chức phận nội
Đấng trượng phu một túi kinh luân

Mang một “túi kinh luân” đi khắp vũ trụ này, để vá lại càn khôn, để xoay lại trái đất- đó mới là cỏi chớ của bậc trượng phu quân tử. Chính vì quan niệm này mà sáng tác của Nguyễn Công Trứ như một sản phẩm truyền thống đang trong quá trình vật vã chuyển đổi để tìm và khẳng định thêm những chuẩn mới.

Trong “Bài ca ngất ngưởng”,i “ngông” của Nguyễn Công Trứ thể hiện ngay từ nhan đề bài thơ. Ngất ngưởng là một từ láy tượng hình vốn được dùng chỉ sự vật ở độ cao chênh vênh, bất ổn định, ớ bài thơ này, từ ngất ngưởng được dùng với nghĩa chỉ sự khác thường, vượt lên thói thường, coi thường dư luận. Ngoài nhan đề, từ “ngất ngưởng” được nhắc đi nhắc lại 4 lần ở cuối các khổ thơ trở thành một biểu tượng cho một phong cách sống, thái độ sống vượt thế tục, một lối chơi ngông thách thức xung quanh trên cơ sở nhận thức rõ tài năng và nhân cách cá nhân. Cái “ngông” của nhà thơ đã được thể hiện đầy đủ qua thái độ sống “ngất ngưởng” giữa cuộc đời.

Cái “ngông” thể hiện trước hết khi ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng, có nghĩa là sự ngất ngưởng khi Nguyễn Công Trứ đã bước vào hoạn lộ, ông đang “đắc chí”. Làm nên sự ngất ngưởng lúc này là tài và chí. Cũng như tất cả những nhà nho dấn thân hành đạo, Nguyễn Công Trứ lập chí ỗ việc “kinh bang tế thế” (trị nước giúp đời). Đó là sự nghiệp, đương nhiên có công ắt có danh. Nguyễn Công Trứ đã coi điều đó – công danh – là lẽ sống: “Không công danh thà nát với cỏ cây”, đã làm trai đứng trong trời đất “phải có danh gì với núi sông”. Với một quan niệm “chí làm trai” như thế, Nguyễn Công Trứ đã “vơ” tất cả mọi việc trong thiên hạ vào phận sự của mình:

Cái tài của Nguyễn Công Trứ là “tài bộ”: “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”, là cái tài vượt lên mọi chuẩn giá trị, mọi khuôn khổ và nhân gian luôn phải ngước nhìn. Chính cá tính “ngông” đó làm cho Nguyễn Công Trứ có một quan niệm về cái tài một cách rất riêng như thế. Đồng thời, chính quan niệm độc đáo về cái tài lại trở thành biểu hiện rất rõ của cỏi “ngông” trong thơ ông. Đặc biệt trong “Bài ca ngất ngưởng” Nguyễn Công Trứ đã đề ra một “khuynh hướng thơ ngạo nghễ hiếm có trong làng thơ xứ Việt”. Có lẽ chưa có nhà thơ nào thời đó dám ngang nhiên xưng danh:

Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.

Bài thơ này được Nguyễn Công Trứ viết khi ông cáo quan về hưu (1848). Nó vừa như một hồi kí cuộc đời vừa như “một tuyên ngôn” (Trần Thị Băng Thanh), một “bức chân dung tự hoạ về một cá tính mạnh mẽ, về một con người xuất chúng dám lấy cách sống ngang tàng, ngông ngạo, trái khoáy như một phương diện khẳng định bản ngã” (Nguyễn Đăng Mạnh). Tất cả, Nguyễn Công Trứ đã thực hiện một cách “ngang ngửa với đời”: “Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng”.

Nguyễn Công Trứ đã tỏ ra tự bằng lòng về mình! Ngất ngưởng là một từ tự khen, thể hiện sự đánh giá cao tài năng, nhân cách và cả phong cách cá nhân mình trong thời gian ở cương vị mà những con người thiếu bản lĩnh rất dễ bị tha hóa: quyền cao chức trọng.

Tuy nhiên, đối với Nguyễn Công Trứ, công danh không chỉ là vinh mà còn là nợ, là trách nhiệm. Vì thế ông đã coi đó là sự “dấn thân”, tự nguyện đem tự do, tài hoa nhốt vào vòng trói buộc: “Ông Hy Văn tài bộ đã vào lồng”. Nguyễn Công Trứ đã “ngang trời dọc đất” nhưng bằng sự từng trải trong cuộc đời nhiều thăng trầm, nhìn lại ông đã nhận ra tất cả đều không hẳn là quan trọng, vững bền và dường như còn không hoàn toàn nghiêm chỉnh, cũng gần như một thứ trò đùa. Không hẳn là Nguyễn Công Trứ phủ định công tích của mình nhưng ông đã nhìn nó với một cái nhìn có phần khinh bạc.

Từ quan là sự kiện thông thường nhưng lại là một việc hết sức hệ trọng, một bước ngoặt trong đời đối với một người làm quan mà lại là quan to như Nguyễn Công Trứ. Nhưng với ông thì chuyện đó cũng chẳng đáng bận tâm. ông không lưu luyến gì và rất muôìi phủi sạch tay trước khi ra về. Khi xin về hưu, ông đã làm đơn nộp trả lại hết bằng sắc cho triều đình và ngày “đô môn giải tổ” chỉ còn đọng lại duy nhất trong ông một sự kiện ngất ngưởng:

“Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”.

Nguyễn Công Trứ đã làm một việc ngược đời, đã bày ra một đốì nghịch: kinh thành đầy võng lọng, ngựa xe nghiêm trang, còn ông thì ngất ngưởng trên lưng con bò vàng nghênh ngang đủng đỉnh! Không những thế, con bò của ông cũng biểu hiện một sự trái khoáy: đã là bò, một loài vật thấp kém, lại còn là bò cái, nhưng được trang sức bằng đạc ngựa – đồ trang sức sang trọng của ìoài gia súc cao quý. Tương truyền Nguyễn Công Trứ còn cho buộc mo cau vào đuôi bò ở cái chỗ cần che nhất với một tuyên ngôn ngạo ngược: “để che miệng thế gian”! Nguyễn Công Trứ đã trêu ngươi, khinh thị cả thế gian kinh kỳ. Không những riêng ông mà cả con bò vàng của ông cũng ngất ngưởng.

Chẳng những đủng đỉnh, ngông nghênh trên lưng bò ông còn muốn chơi ngông với cả Phật! Nguyễn Công Trứ nghỉ quan, cương vị, chức phận và cuộc sống đã thay đổi, mà thay đổi sâu sắc: một ông tướng quyền sinh quyền sát “tay kiếm cung” đã trở thành một ông già mang dáng từ bi. Nguyễn Công Trứ đã để lại đằng sau cả một thời vùng vẫy ngang dọc, còn phía trước, chờ đón ông, dường như là một sự trông vắng: chỉ có núi Đại Nại quê ông với những tầng mây trắng phau:

“Kìa núi nọ phau phau mây trắng”.

Câu thơ trữ tình, gợi một chút bâng khuâng, thoáng ý vị chua chát. Hình ảnh những làn mây trắng – rất trắng – trên đỉnh núi gợi nhiều liên tưởng. Nó biểu tượng cho những gì rất thanh, rất cao nhưng nhẹ tênh, mong manh và vô định. Tất cả sẽ là hư vô chăng, “bạch vân thương cẩu” (mây trắng biến ra hình chó xanh) chăng?

Tuy nhiên, Nguyễn Công Trứ vốn là một tính cách mạnh, sự bâng khuâng triết học đó không dừng lại lâu trong ông. Ông đã nhanh chóng chọn lối sống phá cách đủ để “thích ý”:

“Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng!”

Ở đây cũng vậy, giữa Nguyễn Công Trứ và thế gian lại diễn ra những điều trái ngược: dạng từ bi nhưng lại sống tiên cách. Nguyễn Công Trứ đã không đi tu khổ hạnh, cũng không theo những phương pháp nghiên cứu Thiền học để tìm đến sự giác ngộ mà trái lại ông sống phóng túng, thảnh thơi, vui vẻ. Những cuộc dạo chơi, cả khi lên chùa theo sau ông, cũng có vài bóng “hường hường yến yến”. Tuy nhiên lúc này Nguyễn Công Trứ dường như không còn “hết mình” trong những cuộc hành lạc “Chơi cho thủng trống long bồng”. Trạng từ đủng đỉnh, số từ không xác định một đôi rất có giá trị gợi tả, giúp cho người đọc hình dung ra một nhóm người thủng thẳng du ngoạn, kể cả lên chùa, trong đó có sự trang nghiêm của ông già và sự nhũng nhẵng của những cô gái trẻ. Đó quả là một hiện tượng “trái mắt” nhưng nó chỉ đủ để biểu thị sự trêu ngươi, bất cần của tác giả chứ không thể đủ để lên án ông “đắm say tửu sắc”. Chính vì thế Bụt cũng phải bật cười – một nụ cười vừa như khoan dung vừa như chấp nhận.

Có thể nói Nguyễn Công Trứ tự coi sự ngất ngưởng là nét độc đáo, khác đời của nhân cách ông. Ở các đoạn trên, Nguyễn Công Trứ đã định nghĩa con người mình từng giai đoạn: một tay ngất ngưởng ở quan trường, một cách làm ngất ngưởng khi nghỉ quan và một cách sống ngất ngưởng khi đã là một là một hưu quan. Đoạn này, Nguyễn Công Trứ đánh giá con người mình một cách tổng quát, toàn diện, ông là một người không quan tâm đến chuyện được mất, không bận lòng về sự khen chê, có những khi hành lạc: uống rượu, cô đầu con hát, nhưng rốt cuộc lại ông không phải là người của Phật, của Tiên mà vẫn là một con người của cuộc đời, duy có điều: không vướng tục. Người như thế thật là một nhân cách, một bản lĩnh cao, đã “chấp” tất cả, đã không để lụy và khinh thị tất cả những gì của thói thường. Tuy vậy, cuối cùng Nguyễn Công Trứ vẫn là một nhà nho, mặc dù các bậc “phương diện quốc gia” không ưa ông và ông cũng không ưa được họ, ông vẫn luôn bày ra những sự trái ngược với họ song trong phần sâu thẳm của tâm hồn, Ịí tưởng mà ông theo đuổi suốt đời không thể nào từ bỏ vẫn là lòng trung quân, giúp đời:

Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phương Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.

Từ ý thức về cái tài đến việc cụ thể hóa nó ở mức cực đoan trong sáng tác như không cần để ý đến cõi nhân gian bé tí ở dưới mình kia. Có thể nói, việc khẳng định cái tài như Nguyễn Công Trứ đã làm là một điều độc nhất, ta chỉ gặp trong cuộc đời và sáng tác của ông mà thôi. Nói như thế là để khẳng định: ngông như Nguyễn Công Trứ thì chỉ có một mà thôi!

Nguyễn Công Trứ sống hàn vi gần nửa kiếp người. Chính những trải nghiệm thực trong đời cùng những gì mắt thấy tai nghe đó giỳp nhà thơ có cái nhìn bản chất về hiện trạng xã hội tăm tối đương thời. Nếu là một người bi quan trong cơn vận cùng thế bĩ ấy chắc sẽ không khỏi chán nản và bế tắc. Nhưng Nguyễn Công Trứ đã trang bị cho mình một cách xử thế khác người, hơn đời. Ông vượt thoát ra khỏi bầu không khí u ám của xã hội bằng cái nhìn lạc quan, có phần khinh bạc, ngạo nghễ. Vì thế, chưa bao giờ ta thấy tầm vóc nhà thơ trở nên nhỏ bé hay bị lu mờ đi trước hoàn cảnh. Biểu hiện rõ nhất của cái nhìn về hiện trạng xã hội chính là sự khinh bạc cảnh nghèo và cái nhìn
chua chát về thế thái nhân tình.

Khác với thời đại của Nguyễn Công Trứ,  Tản Đà sinh ra và lớn lên trong buổi giao thời (cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX), lúc Hán học đã tàn và Tây học lại chỉ mới bắt đầu, nên Tản Đà mang đậm dấu ấn của “người của hai thế kỷ” (Hoài Thanh) kể cả học vấn, lối sống và văn chương. Ông là người “dạo bản đàn mở đầu cho một cuộc hoà nhạc tân kỳ đương sắp sửa, là người báo tin xuân cho phong trào thơ mới sau này”. Với điệu tâm hồn mới mẻ, cái tôi lãng mạn bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương, ưu ái trong thơ văn, Tản Đà đã chinh phục thế hệ độc giả mới đầu thế kỷ XX. Giữa lúc thơ phú nhà nho tàn cuộc, Tản Đà có lối đi riêng, vừa tìm về với ngọn nguồn thơ ca dân gian và dân tộc, vừa có những sáng tạo độc đáo tài hoa. Nhà thơ Xuân Diệu cũng nhận xét: “Tản Đà là thi sĩ đầu tiên mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Tản Đà là người thứ nhất đã có can đảm làm thi sĩ một cách đường hoàng, bạo dạn, dám giữ một cái tôi”. Đi từ truyền thống đến hiện đại, tất nhiên số phận thơ văn Tản Đà lúc đầu cũng có nhiều trở ngại. Nhưng với bản lĩnh vững vàng và tài năng, Tản Đà đã khẳng định được vai trò và vị trí của mình. Tất cả đã tạo cho thi sĩ giữ vững một cái “ngông” hơn người. Và, “Hầu Trời” là một trong những bài thơ tiêu biểu kết tinh những nét rất riêng để tạo nên cái “ngông” mới mẽ ấy.

Cái “ngông” và biểu hiện của cái “ngông” trong thơ nói chung. “Ngông” vốn là một sản phẩm của xã hội, đặc biệt là xã hội phong kiến Á Đông. Ở cái xã hội lễ nghi chặt chẽ, khuôn phép của Nho giáo, cá tính độc đáo thường bị cho là ngông, là khác đời. Trong văn chương, “ngông” thường biểu hiện bằng thái độ phản ứng của người nghệ sĩ tài hoa, có cốt cách, có tâm hồn, không muốn chấp nhận sự đơn điệu, bằng phẳng, sáo mòn, không muốn chấp nhận cái tầm thường, nhỏ nhoi; thích phá cách, tự đề cao, phóng đại cá tính của mình…Nhưng những biểu hiện ấy nhằm một mục đích để thể hiện tâm hồn lãng mạn đầy bản lĩnh, để thể hiện một quan điểm sống tích cực có ích cho đời, khẳng định cá tính và tài năng của mình trước cuộc đời.

Như vậy, cái ngông ở đây được nói đến là ngông dựa trên sự kết hợp không tách biệt giữa cá tính và bản lĩnh, tài năng của con người. Nghĩa là, chỉ những người tài năng, tự tin bởi cái tài của mình, tự tin để khẳng định nó với đời mới là cái ngông được người đời chấp nhận. Người ngông tạo cho mình những phong cách riêng, mới và khác hơn người khác nhưng phải để lại những dấu ấn sâu đậm, không thể trộn lẫn với người khác. “Hầu Trời” của Tản Đà đã tạo cho tác giả một cái ngông, một cái tôi độc đáo như thế.

Tản Đà là nhà nho nhưng không phải là nhà nho chính thống theo kiểu ẩn dật – hành đạo. Ông là nhà nho tài tử, nhà nho ít chịu khép mình trong khuôn phép nho gia. Tản Đà thuộc lớp nhà nho “Vứt bút lông nắm lấy bút chì” và là một trong những người Việt Nam đầu tiên sinh sống bằng nghề viết văn, xuất bản, sống theo phương thức của lớp tiểu tư sản thành thị đem văn chương đi bán khắp phố phường. Vì vậy, những thú vui tao nhã như vịnh phong hoa tuyết nguyệt với chơi cầm kỳ thi hoạ thường thấy trong thơ cổ giờ không còn phù hợp nữa. Cái cần nói trong thơ lúc này là tất cả cảm xúc trước thời thế xã hội đổi thay khiến lòng người băn khoăn, khó hiểu. Con người phải tìm một cái gì đó trong đời này để vịn vào mà làm phao cứu cánh. Nhưng sống giữa cảnh đất nước lầm than và nhố nhăng thời đó, Tản Đà không chịu nhập cuộc, ông đã lánh đục theo trong, tự mình tìm kế sinh nhai, sẵn sàng đánh đổi cái nghèo vật chất để lấy cái giàu về tinh thần.

Giữa cái ác, Tản Đà tách ra để lấy cái thiện, giữa cái xấu, Tản Đà có ý thức vươn lên cái đẹp. Đằng sau cái ngông của Tản Đà là cá tính tự nhiên, nhưng một phần là do Tản Đà tự tạo ra để phản ứng lại với cái thứ ô trọc giữa cuộc đời. Phải chăng vì thế, mà chốn trần gian cũng không thể dung nạp một tấm lòng được coi là cao khiết như tiên sinh. Không ai hiểu được cá tính và tài năng thực sự của mình. Vì thế, Tản Đà không tha thiết gì với trần gian mà tìm tận chốn trời cao để khẳng định tài năng hơn người và từ đó khẳng định cái tôi cá thể không trùng lắp với ai – một cái tôi ý thức rất cao về cá nhân mình.

Cái ý thức sâu sắc về tài năng của Tản Đà được bộc lộ qua việc ông đã tạo ra một bối cảnh thật tự nhiên nhưng rất có duyên về câu chuyện được lên hầu trời và mượn lời của trời để khen thơ của mình:

“Đêm qua chẳng biết có hay không
Chẳng phải thảng thốt không mơ mòng
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể
Thật được lên tiên sướng lạ lùng!”.

Cái duyên được lên hầu Trời gắn liền với câu chuyện văn thơ, gắn liền với những phút cảm hứng của nhà thơ. Chuyện tưởng tượng nhưng như thật, có lẽ cái tôi độc đáo của Tản Đà là ở chỗ vào đề tự nhiên, hấp dẫn nhưng có duyên ấy. Xuân Diệu, nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”, cũng phải trầm trồ trước sự độc đáo của Tản Đà: “Vào đột ngột câu đầu cũng ra vẻ đặt vấn đề cho nó khách quan, nghi ngờ theo khoa học, để ba câu sau toàn là khẳng định, ăn hiếp người ta”. Để thế gian thấy tài năng của nhà thơ đã khó vậy mà ngay đến Trời còn say mê, chư tiên yêu thích thì thật lạ lùng. Vậy mới thấy được cái ngông của nhà thơ biểu hiện mạnh mẽ qua bài Hầu Trời. Đã có dịp được lên Thiên đình, vì thế Tản Đà tranh thủ “quảng cáo” tài năng của bản thân:

“Dạ bẩm lạy Trời con xin đọc
Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lí lại văn chơi
Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè Trời nhấp giọng càng tốt hơn.”

Tác giả đọc thơ rất tự tin, khoe tài của mình, đọc cao hứng và nhập thân vào tác phẩm. Qua đó bộc lộ cái tôi in đậm phong cách cá nhân tự ý thức về tài năng của chính ông. Sẵn tiện nhà thơ giới thiệu luôn những tác phẩm của mình:

“Bẩm con không dám màn cửa Trời
Những áng văn con in cả rồi
Hai quyển Khối tình văn thuyết lí
Hai Khối tình con là văn chơi
Thần tiền, Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương, Lên sáu văn vị đời
Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch
Đến quyển Lên tám nay là mười
Nhờ Trời văn con còn bán được
Chửa biết con in ra mấy mươi?”

Nhà thơ có vẻ rất đắc ý bởi ông ý thức được cái tài của mình. Khẳng định bản ngã cái tôi phóng túng, ý thức tài năng giá trị của mình giữa cuộc đời. Trước Tản Đà các nhà nho tài tử đều hết thảy thị tài nhưng chữ tài mà họ nói tới nhiều khi mang một nội hàm khá rộng. Họ không dám nói đến cái hay, cái “tuyệt” của thơ mình, hơn nữa, lại nói trước mặt Trời. Rõ ràng ý thức cá nhân ở nhà thơ đã phát triển rất cao độ. Chính vì vậy mà đến Trời cũng phải tán thưởng:

“Văn dài hơi tốt ran cung mây!
Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay.”

” Trời lại phê cho: Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”

Chính vì tình yêu văn chương, ông mới tự tin sáng tác, chuyển tải những tư tưởng tình cảm mới mẻ vào trang thơ. Dường như với ông, hầu Trời là khoảnh khắc đẹp nhất. Vì thế ông mới đem cái tài của mình để thể hiện trước Trời cùng chư Tiên. Và lúc này quan niệm mới mẻ của ông được bộc lộ: sáng tác văn chương là một nghề. Dù không biểu hiện trực tiếp nhưng đằng sau các câu chữ ta vẫn thấy có một sự hình dung khác trước về hoạt động tinh thần đặc biệt này. Với Tản Đà, văn chương là một nghề kiếm sống mới, có người bán kẻ mua, có thị trường tiêu thụ và bản thân thị trường đó cũng hết sức phức tạp, không dễ chiều. Đặc biệt hơn dường như nhà thơ đã ý thức được sự cần thiết phải chuyên tâm với nghề văn, phải có vốn để theo đuổi nó:

“Nhờ Trời văn con còn bán được
Vốn liếng còn một bụng văn đó”

Thật ngang tàng khi thi sĩ muốn “gánh văn” lên Trời để bán.

“Chư tiên ao ước tranh nhau dặn
Anh gánh lên đây bán chợ Trời!”

Làm náo động thiên cung bằng những lời văn giàu thay lắm lối, nay nhà thơ còn muốn nói của ông được lan rộng cung đình để mọi người biết đến ông- một tài năng thực thụ của trần thế. Thế mới thấy được cái tôi mạnh mẽ đến nhường nào.

Để Trời hiểu thơ, khen văn thơ tuyệt, Tản Đà liền đó “tâu trình” rõ ràng thân thế của mình, phù hợp hoàn toàn mạch chuyện:

“Dạ bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á châu về Địa Cầu
Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”.

Khác người xưa, Tản Đà đã tách tên, họ theo một kiểu công khai lý lịch rất hiện đại, lại còn nói rõ bản quán, châu lục, trên hành tinh. Qua đó ông thể hiện niềm yêu nước tha thiết, đầy tự hào về bản thân, ý thức cá nhân tự tôn dân tộc sâu sắc. Một cái tên – tên thật chứ không phải tự hay hiệu – mà được nói ra trịnh trọng đến vậy hẳn nhà thơ phải thấy có một giá trị không thể phủ nhận gắn liền với nó. Cũng qua câu thơ, tác giả ngầm giới thiệu bút hiệu của mình. Tản Đà là con người khoe tài, thị tài và rất ngông cho nên trước chư tiên không bao giờ kiềm chế mà luôn thể hiện hết tài hoa của mình.

Nhưng khoảnh khắc “Hầu Trời” ngắn ngủi không dừng lại ở việc mượn lời của trời để khen thơ của mình và tự xưng tên tuổi mà qua đó, ta thấy ở Tản Đà còn có một khát khao tri âm tri kỷ, mà bạn tri âm này không phải là người đặc biệt, mà là trời cao. Để từ đó, vạch ra thực tế phũ phàng: tài năng không thống nhất với số phận; để chỉ cho người đọc: ở cuộc đời nhà thơ thiếu tri âm, tri kỉ và bất hòa với cuộc đời:

“Văn chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm được đồng lãi thực rất khó
Kiếm được thời ít tiêu thời nhiều
Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu”

Vì vậy ông khát khao lên Trời đọc thơ và tìm được người tri âm. Chỉ có Trời và chư tiên mới hiểu cái hay, cái đẹp trong thơ ông. Và lời Trời khen hắn là sự thẩm định có sức nặng nhất, không thể bác bỏ, nghi ngờ. Đó là niềm khát khao chân thành trong tâm hồn của thi sĩ. Giữa chốn hạ giới văn chương rẻ như bèo, thân phận nhà văn bị rẻ rúng, khinh bỉ, Tản Đà không tìm được tri âm tri kỷ, phải lên tận cõi tiên mới được thõa nguyện. Vào đầu những năm đầu của thế kỷ XX, khi thơ phú nhà Nho, Hán học đã tàn mà thơ mới chưa ra đời, Tản Đà là nhà thơ đầu tiên đã thổi vào làn thơ một nét mới, đã dám mạnh dạn khẳng định bản ngã của mình bằng nét riêng: thoát ly hiện thực tầm thường đen tối để đến một nơi thanh khiết.

Khẳng định tài năng hơn người, đó là sự kế thừa nét ngông của các nhà nho truyền thống. Song, trong sự ngông của Tản Đà, người ta không thấy cái ngông đến mức lấy thú ăn chơi hưởng lạc có phần tiêu cực như một cách để đối lại với đời như Nguyễn Công Trứ. Và cũng không thấy cái ngông trong việc đi tìm một phong cách, một lối thể hiện riêng của người tôn thờ cái đẹp như Nguyễn Tuân… Cái ngông của Tàn Đà là cái ngông của một người chìm đắm trong mộng: mộng về cuộc đời, mộng về sự đổi thay, say để mộng, mộng để ngông với người đời. Nhưng có thể thấy rằng, họ gặp nhau ở một điểm cơ bản mà nếu như thiếu nó thì sẽ không thể “ngông” được đó là cái tài, cái tình và ý thức về cái tôi bản ngã của chính mình. Họ làm nên những phong cách nghệ thuật riêng độc đáo, nhưng ấn tượng đặc biệt, không thể nào phai trong lòng người đọc và không lẫn với cái ngông của nhà thơ nào khác.

Qua phân tích có thể thấy, cái “ngông” của hai nhà thơ là phản ứng của người nghệ sĩ tài hoa, có cá tính, không chịu trói mình trong khuôn khổ chật hẹp của văn chương. Đó còn là thái độ sống của những người trí thức có nhân cách trước một xã hội mà họ không thể chấp nhận và cũng không muốn chấp nhận.

Tuy nhiên, cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ trong bài “Bài ca ngất ngưởng” là ý thức rất cao về tài văn võ song toàn của bản thân, là sự khẳng định cá tính đặc biệt, thể hiện bản lĩnh của một nhân cách sống trong xã hội phong kiến. Tuy chưa thoát khỏi sự khắc kỉ của một nhà nho nhưng ông đã có ý thức trỗi dậy để khẳng định mình. Cái “ngông” của Tản Đà trong bài “Hầu trời” có nhiều điểm lặp lại cái ngông của Nguyễn Công Trứ. Nhưng do đặc thù về thời đại nên có những biểu hiện nổi bật khác. Tài năng mà Tản đà muốn bộc lộ là tài thuộc phạm trù văn chương, ông không xem trong vấn đề “nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung” như Nguyễn Công Trứ. ông đã khẳng định tự do cá nhận một cách mạnh mẽ.

  • Kết bài:

“Ngông” là một bản lĩnh cần có trong thơ, “ngông” trong sáng tạo chính là niềm tin ở nội lực, ở khả năng thấu thị, nhận diện sự vật. Bởi thế không quá lời khi nói thơ còn “ngông” tức là còn những điều lí thú để ta cảm nhận. Với những biểu hiện phong phú của cá tính, hai nhà thơ đã làm nên những phong cách nghệ thuật riêng độc đáo, những ấn tượng đặc biệt, không thể nào phai trong lòng người đọc về một sự ngông không giông ai và cũng không thể có ai giống được. Và với Nguyễn Công Trứ và Tản Đà, “ngông” đã trở thành một khái niệm đặc biệt, quen thuộc và không thể thiếu trong nền thơ ca Việt Nam.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.