Tài liệu luyện thi văn bản: Làng (Kim Lân), Lặng lẽ Sa Pa (Nguyễn Thành Long), Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng), Những ngôi sao xa xôi (Lê Minh Khuê).

tai-lieu-lang-lang-le-sa-pa-chiec-luoc-nga-nhung-ngoi-sao-xa-xoi

Kiến thức luyện thi văn bản:

Làng (Kim Lân)
Lặng lẽ Sa Pa (Nguyễn Thành Long)
Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng)
Những ngôi sao xa xôi (Lê Minh Khuê).

ĐỀ SỐ 1. Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai qua truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I/ Yêu cầu chung: Học sinh biết làm một bài văn nghị luận có vận dụng yếu tố thuyết minh, kết hợp tốt các phép lập luận.

– Bài viết chặt chẽ, văn phong trong sáng, cảm thụ và phân tích sâu sắc tâm trạng, tình cảm nhân vật.

– Phân tích được những điểm nhấn thể hiện trong tác phẩm để giải quyết yêu cầu được đặt ra ở đề bài.

II/ Yêu cầu cụ thể:

* Dàn bài 1:

  • Mở bài:

– Giới thiệu về tác giả Kim Lân và tác phẩm “Làng”: Truyện ngắn “Làng” là một trong những tác phẩm tiêu biểu và thành công nhất của nhà văn Kim Lân khi viết về đề tài làng quê Việt Nam.

– Nêu nhận định của bản thân để dẫn dắt vấn đề nêu ở đề bài: Tác phẩm “Làng” đã khắc họa thành công hình ảnh ông Hai, một người nông dân yêu làng, yêu quê hương đất nước sâu sắc.

  • Thân bài: 

–  Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai lúc ở làng: Ông luôn tự hào và khoe cái làng của mình.

–  Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi tản cư: luôn luôn nghĩ ngợi, tưởng nhớ về làng Chợ Dầu của mình, nghe ngóng tin tức về làng mình, về cuộc kháng chiến của đất nước; vui sướng đắc chí khi nghe tin đồng bào mình lập được chiến công (qua dáng vẻ, giọng điệu, lời nói, hành động thể hiện ở câu, từ cụ thể)…

– Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc: được miêu tả ở ngoại hình, hành động lời độc thoại, đặc biệt là khi trò chuyện với đứa con nhỏ, thể hiện tâm trạng đau đớn, thất vọng, tủi hổ cùng cực.

–  Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi tin làng theo giặc được cải chính: Làng bị Tây đốt là bằng chứng cho việc làng không theo giặc: Ông nhẹ nhõm, vui sướng không sao tả xiết qua giọng điệu, thái độ khi nói chuyện với mọi người …pha lẫn sự hãnh diện…

  • Nghệ thuật tạo tình huống đặc sắc, gây cấn.
  • Cách miêu tả tâm lí nhân vật sống động qua lời nói, suy nghĩ, hành động.

– Nhận xét đánh giá: Có thể nói, quê hương là những gì thiêng liêng nhất của con người. Người ta có thể tách con người ra khỏi quê hương chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người. Qua tình yêu làng và tình yêu nước của nhân vật ông Hai, tác giả muốn nhắn nhủ với ta là hãy yêu quê hương, đất nước. Đó cũng chính là truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam từ xưa đến nay.

  • Kết bài:

– Cảm nhận, khẳng định chung về tình yêu làng, yêu nước của con người Việt Nam (cụ thể là ông Hai trong tác phẩm).

– Có thể liên hệ bản thân em về tình yêu nước trong thời bình.

* Dàn bài 2:

I. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả Kim Lân và truyện ngắn Làng: Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân đã ca ngợi về tinh thần cách mạng và lòng yêu nước đó của người dân Việt Nam, cụ thể là nói về một người nông dân có tình cảm gắn bó với làng, với quê hương và đất nước sâu sắc.

II. Thân bài:

1. Khái quát về nhân vật ông Hai:

– Truyện kể về ông Hai, một người yêu làng và gắn bó với làng, lúc nào ông cũng khoe về làng của mình. Ông cứ kể say sưa trong niềm nhớ thương về làng mà không cần biết người nghe có chú ý hay không.

2. Tình cảm của ông Hai đối với làng chợ Dầu:

– Ông tự hào về làng mình từ cơ sở vật chất cho tới cái sinh phần của tổng đốc làng ông, vinh dự vì làng có bề dày lịch sử. Sau cách mạng ông khoe về tinh thần cách mạng của làng ông, ngay cả cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập, ông khoe những hố, ụ và hào.

3. Diễn biến tâm lý của nhân vật ông Hai khi nghe tin làng theo Tây:

– Khi ông nghe tin làng mình theo Tây, “cổ họng ông nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân”, ông lặng đi tưởng như không thở được

– Ông hỏi đi hỏi lại nhiều lần rồi lẳng lặng bỏ đi trong nỗi đau đớn và nhục nhã khi biết làng mình theo giặc
Khi về nhà, ông nằm vật ra giường, đêm đó trằn trọc không ngủ được.

– Ông nhìn đám trẻ ngây thơ mà bị mang tiếng Việt gian rồi khóc.

– Ông điểm lại mọi người trong làng nhưng thấy ai cũng có tinh thần cả nên ông vẫn không tin lại có ai làm điều nhục nhã ấy.

– Tâm trạng ông bị ám ảnh, day dứt và mặc cảm với thân phận là người của làng Việt gian bán nước.
Bên tai ông đầy rẫy tiếng chửi bọn Việt gian, ông chẳng làm được gì, chưa thể đối mặt với điều đó, ông chỉ biết cúi gằm mặt mà đi

– Khi mụ chủ nhà muốn đuổi gia đình ông đi bởi ông là người làng Chợ Dầu, ông thoáng nghĩ về lại làng nhưng ông đã gạt phăng đi, ông dứt khoát “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”

4. Niềm vui mừng và sung sướng khi tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính:

– Ông đi từ đầu làng tới cuối làng để khoe tin làng mình không theo giặc, ông tìm gặp ông Thứ để thanh minh về làng mình, khoe cả việc nhà ông bị đốt cháy một cách sung sướng, hả hê, bởi đó là minh chứng rõ nhất cho việc làng ông không phải Việt gian bán nước.

III. Kết bài:

–  Khẳng định giá trị nghệ thuật và nội dung của truyện ngắn: tác giả đã cho người đọc hình dung được một thời kì chống Pháp sôi nổi của nhân dân, tinh thần trung kiên với Cách mạng và một lòng theo Bác, kháng chiến đến cùng

– Qua diễn biến tâm trạng của ông Hai ta thấy được tình yêu làng sâu sắc và tình yêu nước thiết tha gắn với tinh thần kháng chiến của ông.


ĐỀ SỐ 2. “Một tác phẩm để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc chính là xây dựng thành công tình huống truyện và nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật”.  Bằng những hiểu biết của em về truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân, hãy làm sáng tỏ nhận định trên.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I. Về hình thức

– Đảm bảo bố cục ba phần của bài văn nghị luận văn học.

– Bài viết mạch lạc, lập luận thuyết phục, lời văn trong sáng, giàu hình ảnh, kết hợp các phương pháp lập luận giải thích, chứng minh (chủ yếu) với đánh giá tổng hợp vấn đề, khả năng cảm thụ, khám phá tình huống truyện và nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật hấp dẫn.

II. Về nội dung.

  • Mở bài:

– Nêu được vấn đề cần nghị luận.

Thân bài:

1. Giải thích nhận định:

Tình huống truyện là sự kiện, sự việc, hoàn cảnh xảy ra hết sức bất ngờ, gay cấn. Tác giả đặt nhân vật vào sự kiện đó nhằm bộc lộ mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách nhân vật, đưa câu chuyện lên cao trào và thể hiện chủ đề, nội dung tư tưởng tác phẩm.

Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật: là thủ pháp tái hiện những ý nghĩ, cảm xúc diễn biến tâm trạng, tâm lý của nhân vật. Thủ pháp này là yếu tố quan trọng để tạo nên một nhân vật sống động, hấp dẫn.

2. Sự thành công tình huống truyện và nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật trong tác phẩm làng:

– Tình huống bất ngờ khi ông Hai nghe tin cả làng theo giặc giữa lúc tâm trạng phơi phới nghe tin thắng trận, giữa lúc ông đang ngóng vọng, tự hào về làng.

– Tâm trạng đau xót, tủi hổ dằn vặt, day dứt, lo lắng, bế tắc, tuyệt vọng. Từ chỗ yêu làng trở nên thù làng. Đặt nhân vật vào tình huống đầy căng thẳng, thử thách nhà văn muốn bộc lộ các mối quan hệ riêng chung trong con người của nhân vật. Đưa nhân vật lên cao trào để nhân vật tự bộc lộ cách ứng xử, phẩm chất, tính cách, lòng yêu làng, yêu nước thiết tha.

– Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhiều chiều, những cảm xúc, những diễn biến tâm trạng qua các mối quan hệ, qua các sự việc, tình huống nhỏ, qua trạng thái cảm xúc trực tiếp, qua đối thoại và độc thoại nội tâm.

Tình huống được giải quyết thông qua diễn biến tâm trạng nhân vật sinh động. Một người nông dân mộc mạc, giản dị cùng tình yêu làng yêu nước chân chất thật thà song để lại ấn tượng vô cùng sâu sắc, lớn lao. Đây cũng là bức thông điệp về tình yêu làng xóm, yêu quê hương đất nước cho mỗi người.

  • Kết bài:

– Khẳng định vấn đề nghị luận.


ĐỀ SỐ 3. Phân tích tình yêu làng hoà quyện với tình yêu đất nước của nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân. Nhận xét về nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật này của tác giả.

GỢI Ý LÀM BÀI.

  • Mở bài:

– Giới thiệu nhà văn Kim Lân và truyện ngắn làng.

– Dẫn dắt vào vấn đề nghị luận: tình yêu làng hoà quyện với tình yêu đất nước của nhân vật ông Hai

  • Thân bài:

Kim Lân đã rất hiểu và thể hiện thành công tình cảm yêu làng quê qua nhân vật ông Hai – một người nông dân chất phác. Tình yêu làng của ông Hai rất đặc biệt và cách thể hiện tình yêu ấy cũng rất độc đáo.

a. Tình yêu quê hương của người nông dân ấy đã bộc lộ khá sâu sắc ở phần đầu truyện:

– Suốt cuộc đời ông sống ở quê hương, gắn bó máu thịt với quê hương vậy mà vì giặc ngoại xâm, ông Hai phải rời làng đi tản cư.

– Ở nơi tản cư, lòng ông đau đáu nhớ quê, cứ “nghĩ về những ngày làm việc cùng anh em”, ông nhớ làng quá.

– Ông Hai luôn khoe và tự hào về cái làng Dầu không chỉ vì nó đẹp mà còn bởi nó tham gia vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc.

– Ông tìm nghe tin tức về kháng chiến “chẳng sót một câu nào”. Nghe được nhiều tin hay, những tin chiến thắng của quân ta, ruột gan ông cứ múa cả lên, náo nức, bao nhiêu ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc.

Đó là biểu hiện tình yêu làng của người nông dân trước thành quả của cách mạng, của làng quê.

b. Tác giả đã đặt nhân vật ông Hai vào một tình huống gay gắt để làm bộc lộ sâu sắc tình cảm yêu làng, yêu nước của ông.

– Tình huống ấy là cái tin làng ông theo giặc mà chính ông nghe được từ miệng những người mới tản cư qua vùng ông.

– Khi nghe tin quá đột ngột, ông Hai sững sờ, xấu hổ và uất ức: “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được”. Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy”. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không thể không tin. Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ tan tành trước cái tin sét đánh ấy. Cái mà ông yêu quý nhất nay cũng đã lại quay lưng lại với ông. Không chỉ xấu hổ trước bà con mà ông cũng tự thấy ông mất đi hạnh phúc của riêng ông, cuộc đời ông cũng như chết mất một nửa.

– Từ lúc ấy trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh day dứt. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt mà đi”, về đến nhà ông nằm vật ra giường, rồi tủi thân nhìn đàn con, “nước mắt ông lão cứ giàn ra”. Bao nhiêu điều tự hào về quê hương như sụp đổ trong tâm hồn người nông dân rất mực yêu quê hương ấy. Ông cảm thấy như chính ông mang nỗi nhục của một tên bán nước theo giặc, cả các con ông cũng sẽ mang nỗi nhục ấy.

– Suốt mấy ngày ông không dám đi đâu. Ông quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng tình hình bên ngoài. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam – nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!”

Tác giả đã diễn tả rất cụ thể, sâu sắc những biến động dữ dội trong nội tâm nhân vật: nỗi ám ảnh nặng nề biến thành sự sợ hãi thường xuyên trong ông Hai cùng với nỗi đau xót, tủi hổ của ông trước cái tin làng mình theo giặc.

– Nhưng chính lúc này, tình cảm đẹp trong con người ông Hai lại càng được bộc lộ rõ hơn bao giờ hết. Những đau đớn, dằn vặt, sự hổ thẹn đến tột cùng đã đẩy ông Hai vào một tình huống phải lựa chọn. Quê hương và Tổ Quốc, bên nào nặng hơn? Quê hương đáng yêu, đang tự hào… Nhưng giờ đây…. dường như mới chỉ nghĩ tới đó, lòng ông Hai đã nghẹn đắng lại. Tình yêu quê hương và tình yêu tổ quốc xung đột dữ dội trong lòng ông. Một ý nghĩ tiêu cực thoáng qua trong đầu: Hay là quay về làng. Nhưng rồi ông cảm thấy “rợn cả người”. Ông đã từng nhớ làng da diết, từng ao ước được trở về làng. Nhưng “vừa chớm nghĩ, lập tức ông lão phản đối ngay” bởi vì “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”. Cuối cùng ông đã quyết định: “không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Như vậy,tình yêu làng dẫu có thiết tha, mãnh liệt đến đâu, cũng không thể mạnh hơn tình yêu đất nước.

– Chuẩn mực cho tình yêu và niềm tự hào về quê hương, đối với ông Hai lúc bấy giờ là cuộc kháng chiến. Tuy đau xót tưởng chừng bế tắc nhưng trong cõi thẳm sâu của tấm lòng, người nông dân ấy vẫn hướng về kháng chiến, vẫn tin ở những điều tốt đẹp, cố giữ cho tâm hồn không vẩn đục, để đón đợi một điều gì đỡ đau đớn, tuyệt vọng hơn.

+ Khi tâm sự với đứa con nhỏ còn rất ngây thơ, nghe con nói: “Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”, nước mắt ông Hai cứ giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má, giọng ông như nghẹn lại: “ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ?”. Phải chăng, trong tâm hồn người nông dân chất phác ấy vẫn không phút nào nguôi ngoai nỗi nhớ quê hương, yêu quê hương và nỗi đau đớn khi nghe tin quê hương rời xa công việc chiến đấu chung của đất nước bấy giờ? Tâm sự với đứa con, ông Hai muốn bảo con nhớ câu “nhà ta ở làng chợ Dầu”. Đồng thời ông nhắc con – cũng là tự nhắc mình “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”. Tấm lòng thuỷ chung với kháng chiến, với cách mạng thật sâu nặng, bền vững và thiêng liêng: “Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ đám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ đám đơn sai”.

c. Đến khi biết đích xác làng Dầu yêu quý của ông không phải là làng Việt gian, nỗi vui mừng của ông Hai thật là vô bờ bến:

– Nỗi vui mừng quá lớn khiến “ông cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người”, mặt ông “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”.

– Đối với người nông dân, căn nhà là cơ nghiệp của cả một cuộc đời, vậy mà ông sung sướng hể hả loan báo cho mọi người biết cái tin “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ” một cách tự hào như một niềm hạnh phúc thực sự của mình. Đó là nỗi lòng sung sướng trào ra hồn nhiên như không thể kìm nén được của người dân quê khi được biết làng mình là làng yêu nước dẫu cho nhà mình bị giặc đốt. Tình yêu làng của ông Hai thật là sâu sắc và cảm động.

 Trong hoàn cảnh toàn dân đang hướng tới cuộc kháng chiến chống pháp, bảo vệ độc lập dân tộc, ông Hai đã biết đặt tình yêu đất nước lên trên tình yêu cá nhân của mình với làng chợ Dầu, ông dành tất cả cho cách mạng. Đó chính là nét đẹp trong con người ông Hai nói riêng và người nông dân Việt Nam nói chung.

* Nhận xét: Nhà văn Kim Lân đã khá thành công khi xây dựng nhân vật ông Hai, một lão nông cần cù, chất phác, yêu mến, gắn bó với làng quê như máu thịt. Nhà văn đã chọn được một tình huống khá độc đáo là sự thử thách bên trong bộc lộ chiều sâu tâm trạng. Tâm lý nhân vật được nhà văn miêu tả cụ thể, gợi cảm qua các diễn biến nội tâm, qua các ý nghĩ, cảm giác, hành vi, ngôn ngữ. Đặc biệt là nhà văn đã diễn tả đúng và gây được ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt trong tâm trạng nhân vật. Lòng yêu quê hương tha thiết của ông mãi là bài ca đẹp về một điển hình cho bao người nông dân Việt Nam trước cách mạng.


ĐỀ SỐ 4. Cảm nhận của em về “vẻ nên thơ ở chốn Sa Pa lặng lẽ” sau khi đọc áng văn xuôi “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long (SGK Ngữ văn 9 -Tập 1).

GỢI Ý LÀM BÀI.

I. Yêu cầu về kĩ năng :

Biết làm thành thạo một bài văn nghị luận văn học, biết vận dụng những kĩ năng về tập làm văn: kết cấu chặt chẽ, bố cục rõ ràng, biết dựng đoạn văn, chuyển ý, diễn đạt tốt.

II. Yêu cầu về kiến thức :

  • Mở bài:

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm. Từ những nét đặc sắc nghệ thuật của truyện mà nêu lên vấn đề phải phân tích: chất thơ trong áng văn xuôi  này.

  • Thân bài:

1. Thiên nhiên Sa Pa nên thơ:

– Vẻ đẹp thiên nhiên Sa Pa thể hiện ở ngôn ngữ miêu tả và sự rung động của nhà văn biểu hiện qua rungđộng của các nhân vật nhất là nhân vật hoạ sĩ:

+ Thiên nhiên SaPa vốn sẵn vẻ thơ mộng.

+ Cái đẹp ấy được tái hiện trong truyện bằng một thứ ngôn ngữ tạo hình, giàu chất thơ (rừng đào, đàn bò, nắng, mây, rừng cây…)

+ Qua sự rung cảm của một tâm hồn tinh tế (mọi người nín bật, cảm thấy rực rỡ theo, hừng hực như bó đuốc…)

2. Cuộc sống con người ở chốn SaPa cũng rất nên thơ:

– Chất thơ trong thái độ đối với công việc, yêu công vịệc đến say đắm, giàu ước mơ (vươn tới những thành tích mới, thành tựu cao hơn…)

– Chất thơ trong tâm hồn các nhân vật: Biết say mê trong công việc nhìn bề ngoài có vẻ tẻ nhạt, say mê cuộc sống có vẻ âm thầm lẻ loi (nhạy cảm là tư chất quý của hoạ sĩ giúp họ phát hiện vẻ đẹp bất ngờ trong cái bình dị, cảm xúc trong sáng của anh thanh niên)

– Họ cùng tự làm cho cuộc sống nên thơ ( hoa tết nở giữa mùa hè, căn nhà xinh xắn như một vần thơ…)

– Chất thơ trong cách cư xử tế nhị nhẹ nhàng mà sâu lắng ( cuộc chia tay của anh thanh niên với cô kỹ sư trẻ)

3. Vẻ nên thơ còn toát ra từ cuộc gặp gỡ tình cờ của ba nhân vật:

– Mỗi chi tiết của cuộc gặp gỡ đều rất nhẹ nhàng nên thơ.

– Những tình cảm, cảm xúc mới nảy nở trong hoạ sĩ và cô kỹ sư được miêu tả cũng lặng lẽ mà thấm thía.

  • Kết bài:

– Khẳng định yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của truyện là chất trữ tình. Nó tô đậm thêm ý nghĩa sâu sắc của câu chuyện về những con người sống và làm việc trong im lặng mà không cô độc bởi sự gắn bó của họ với đất nước.


ĐỀ SỐ 5: Có ý kiến cho rằng: “Văn bản Lặng lẽ Sa Pa, hiện lên bên trong vẻ đẹp của núi rừng Sa Pa là những con người âm thầm lặng lẽ lao động sáng tạo dệt nên mùa xuân thắng lợi của đất nước”. Bằng sự hiểu biết về văn bản “ Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long( Ngữ văn 9- tập 1), hãy trình bày cảm nhận của em về ý kiến trên.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I. Yêu cầu về kĩ năng:

–  Học sinh biết vận dụng các kĩ năng làm bài nghị luận về một tác phẩm văn học.

– Bố cục bài văn rõ ràng, mạch lạc có đủ 3 phần mở bài – thân bài- kết bài. Luận điểm được trình bày rõ, đảm bảo tính liên kết.

– Lời văn diễn đạt trong sáng.

II . Yêu cầu về kiến thức :

  • Mở bài:

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nêu được vấn đề nghị luận ( ý kiến của đề bài).

  • Thân bài:

1. Giải thích ý kiến:

– Lặng lẽ Sa Pa: Vẻ đẹp của núi rừng thơ mộng với nhiều hoa lá ,cây cỏ xanh tươi, đầy sức sống.

– Lặng lẽ Sa Pa: Hiện lên những con người thầm lặng lao động sáng tạo cống hiến một phần công sức góp nên mùa xuân thắng lợi của đất nước

2. Vẻ đẹp của Sa Pa.

a. Vẻ đẹp của núi rừng thơ mộng với nhiều hoa lá, cây cỏ xanh tươi, đầy sức sống.

– Đó là bức tranh lung linh sắc nắng: “nắng bây giờ bắt đầu len tới, đốt cháy rừng cây”, “nắng đã mạ bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn”, “nắng chiếu làm bó hoa thêm rực rỡ và làm cô gái cảm thấy mình rực rỡ theo”.

– Cảnh vật thiên nhiên nơi đây tươi tắn, quyến rũ: “Sa Pa bắt đầu với những rặng đào”, “những đàn bò lang cổ có đeo chuông ở các đồng có hai bên đường”, “những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng như những ngón tay bằng bạc”, “những cây tử kinh thỉnh thoảng lại nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng”, những bông hoa đủ loại đủ màu sắc “đứng trong mây mù ngang tầm với chiếc cầu vồng”…

– Những áng mây bảng lảng trên mặt đất chính là nét đẹp đặc trưng của Sa Pa. “Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại thành từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe”.

– Bức tranh thiên nhiên khiến tâm hồn con người xao xuyến, khiến họ phải “nín bặt” chiêm ngưỡng, rung động. Bức tranh thiên nhiên tạo không khí thi vị, nên thơ cho cuộc gặp gỡ, khiến các nhân vật như đẹp hơn, lung linh hơn.

Vài nét chấm phá điểm xuyết, nghệ thuật nhân hóa, so sánh. Tác giả đã khắc họa bức tranh thiên nhiên Sa Pa với vẻ đẹp trong trẻo, thơ mộng, hữu tình. Miêu tả bức tranh thiên nhiên bằng ngôn ngữ trong sáng, mỗi chữ, mỗi câu như có đường nét, hình khối, sắc màu. Văn xuôi truyện ngắn mà giàu nhịp điệu mang âm hưởng một bài thơ về thiên nhiên đất nước. 

b. Những con người âm thầm lặng lẽ lao động sáng tạo dệt nên mùa xuân thắng lợi của đất nước.

Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” đã tạo ra một thế giới lí tưởng của những nhà khoa học trẻ lao động nghiêm túc, thầm lặng cống hiến, lao động vì tổ quốc, vì cuộc sống của mọi người:

* Đó là nhân vật anh thanh niên:

–  Hai mươi bảy tuổi, vóc người nhỏ nhắn, nét mặt rạng rỡ, làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m, được xem là người cô độc nhất thế gian. Ở anh sáng lên vẻ đẹp của của tình yêu công việc, của lý tưởng sống, tình yêu cuộc sống và gắn bó với mọi người, đức tính khiêm tốn đáng quý, đáng trọng.

– Là người có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, luôn có sự sáng tạo và đem lại kết quả cao.

– Tính cách và tình cảm: Rất hiếu khách và từ tốn nhã nhặn với mọi người; khiêm tốn khi bác họa sĩ muốn vẽ mình; vô tư trong sáng trong việc thể hiện tình cảm với cô kĩ sư trẻ.

– Anh khơi dậy ở bác họa sĩ nguồn cảm hứng nghệ thuật, khiến bác vừa vui sướng, bối rối vừa trăn trở, suy tư. Để cuối cùng bác thấy thêm yêu cuộc đời, rút ra được những triết lý sâu sắc về cuộc sống.

– Anh khiến cô kĩ sư đi từ bất ngờ, bối rối, e thẹn đến “bàng hoàng”, để rồi tìm ra câu trả lời về con đường mình đã chọn, thêm tin tưởng và thêm quyết tâm thực hiện lý tưởng. Ở cô có một tình cảm hàm ơn quyến luyến với anh thanh niên.

 * Những nhân vật khác:

– Đó là anh kĩ sư vườn rau, là anh kĩ sư nghiên cứu bản đồ sét, là bác họa sĩ già khát khao tìm thấy một hình tượng nghệ thuật và cô kĩ sư nong nghiệp trẻ đang tìm kiếm lý tưởng.

– Tất cả các nhân vật đều không được đặt tên, tác giả muốn “bình thường hóa” nhân vật của mình, khiến họ trở nên gần gũi, thân thuộc với người đọc, trở thành những câu chuyện cổ tích giữa đời thường. Họ đã vẽ nên bức tranh tuyệt đẹp ca ngợi thế hệ trẻ thời kì kháng chiến chống Mỹ và xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, nhiệt huyết sức trẻ, với lẽ sống đẹp đáng khâm phục.

3. Nhận xét, đánh giá:

– Có thể nói, truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” mang dáng dấp như một bài thơ, chất thơ bàng bạc trong toàn truyện, từ phong cảnh đẹp hết sức thơ mộng của thiên nhiên vùng núi cao đến hình ảnh con người sống và làm việc trong cái lặng lẽ mà không hề cô độc bởi sự gắn bó với đất nước, với mọi người.

– Tác giả đã tạo được không khí trữ tình cho tác phẩm, nâng cao ý nghĩa và vẻ đẹp của những sự việc, con người được miêu tả trong truyện, nhờ thế mà tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện sâu sắc.

– Sử dụng ngôn từ tinh tế, tạo nên những câu văn giàu hình ảnh, nhạc tính.

– Cách kể chuyện tự nhiên, gần gũi, tạo ra những tình tiết giàu mang những chiều sâu chưa nói hết, xây dựng tình huống hợp lí, khái quát  tên nhân vật qua cách gọi nhưng mang ý nghĩa sâu sắc

  • Kết bài:

– Khẳng định vẻ đẹp của người lao động và ý nghĩa của những công việc thầm lặng.

– Liên hệ đến thế hệ trẻ hôm nay.


ĐỀ SỐ 6.

Nhận xét về truyện “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, có ý kiến cho rằng: “Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của con người lao động bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ và hi sinh nhưng cũng thật trong sáng, đẹp đẽ. Từ hình ảnh những con người ấy gợi lên cho ta những suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống, của lao động tự giác, về con người và về nghệ thuật”.

Qua truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”, em hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I/ Về kỹ năngHiểu đúng yêu cầu của đề bài. Biết cách làm bài văn nghị luận bố cục rõ ràng, kết cấu hợp lí. Diễn đạt tốt, không mắc các lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.

II/ Về nội dung:

Học sinh có thể sắp xếp trình bày theo nhiều cách khác nhau, có thể có những ý kiến riêng miễn sao phải phù hợp với yêu cầu của đề bài. Dù triển khai theo trình tự nào cũng cần đạt được những ý chính sau đây.

  • Mở bài:

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nhận xét về truyện ngắn.

  • Thân bài:

1. Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của con người lao động bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ và  hi sinh nhưng cũng thật trong sáng, đẹp đẽ.

– Qua các nhân vật với những công việc và lứa tuổi khác nhau, nhà văn muốn khái quát những phẩm chất cao đẹp của con người mới trong thời kì xây dựng Chủ nghĩa xã hội và chống Mĩ cứu nước. Họ có những suy nghĩ đúng đắn, lặng lẽ cống hiến cho tổ quốc, tâm hồn trong sáng và giàu lòng nhân ái.

a/ Vẻ đẹp cao cả chung của các nhân vật.

–  Ý thức trách nhiệm trước công việc : anh thanh niên, đồng chí cán bộ khoa học.

–  Sống có lý tưởng, sẵn sàng cống hiến : anh thanh niên, cô kỹ sư trẻ (cô kĩ sư trẻ mới ra trường lần đầu tiên xa Hà Nội, dũng cảm lên nhận công tác tại Lai Châu. Cô là lớp thanh niên thề ra trường đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì…)

– Nhận thức sâu sắc ý nghĩa công việc: anh thanh niên, ông kỹ sư vườn rau, người cán bộ nghiên cứu khoa học…

– Yêu thích, say mê công việc, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, dám chấp nhận cuộc sống cô độc để làm việc, làm việc một cách kiên trì, tự giác bất chấp hoản cảnh : anh thanh niên, ông kỹ sư vườn rau, người cán bộ nghiên cứu khoa học.

b/ Vẻ đẹp trong cuộc sống bình thường.

– Tiêu biểu là nhân vật anh thanh niên:

+ Đó là con người sống, làm việc một mình trên đỉnh núi cao mà không cô đơn. Anh tổ chức sắp xếp cuộc sống của mình trên trạm khí tượng thật ngăn nắp, chủ động, giản dị (căn nhà nhỏ, giường cá nhân…). Anh sống lạc quan yêu đời- trồng hoa, nuôi gà, đọc sách.

+ Đó là một người khiêm tốn: lặng lẽ hoàn thành công việc, không tự nhận thành tích về mình, luôn nhận thức được công việc của mình làm là những đóng góp nhỏ bé cho đất nước; ham mê học hỏi, phấn đấu bởi xung quanh anh có biết bao con người, bao tấm gương, bao điều đáng học ( những ông kĩ sư vườn rau, anh cán bộ nghiên cứu sét…)

+ Một con người sống cởi mở, tốt bụng, luôn quan tâm đến mọi người một cách chân thành, chu đáo: việc đi tìm củ tam thất cho vợ bác lái xe, đón ông hoạ sĩ già và cô kỹ sư trẻ thân tình, nồng hậu; hồn nhiên, yêu cuộc sống: thèm người, thèm chuyện trò …

Khẳng định, khái quát: Tác phẩm thật sự là một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của người lao động bình thường mà cao cả. Họ chính là những thế hệ tiêu biểu cho lớp người mới, cho thanh niên Việt Nam thời chống Mĩ cứu nước. Tuy không trực tiếp chiến đấu, song họ đã góp phần không nhỏ để xây dựng cuộc sống mới và góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến của dân tộc. Họ nối tiếp nhau xứng đáng là chủ nhân của đất nước này.

(Học sinh có thể trình bày trên cơ sở phân tích từng nhân vật để làm nổi bật ý tưởng chung, tuy nhiên , cần tập trung vào nhân vật trung tâm là anh thanh niên)

2. Tác phẩm gợi lên những suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống, của lao động tự giác về con người và về nghệ thuật.

– Cuộc sống của mỗi người chỉ thực sự ý nghĩa khi mọi việc làm , hành động của họ đều xuất phát từ tình yêu cuộc sống, yêu con người, yêu và tự hào về mảnh đất mình đang sống.

– Con người biết sống có lý tưởng, say mê với công việc, hiểu được ý nghĩa của công việc mình làm . Con người cần tự nhìn vào chính bản thân để sống tốt  đẹp hơn.

– Thông qua suy nghĩ của người hoạ sĩ : vẻ đẹp của con người và của cuộc sống chính là nguồn cảm hứng vô tận để người nghệ sĩ sáng tạo  những tác phẩm nghệ thuật có giá trị .

  • Kết bài:
  • Kẳng định vấn đề.

ĐỀ SỐ 7.

“Lặng lẽ Sa Pa – Một bài ca ca ngợi thiên nhiên và những con người có lẽ sống cao đẹp đang lặng lẽ quên mình cống hiến cho Tổ quốc”. Em hãy viết một bài văn nghị luận để làm sáng tỏ nhận định trên.

 GỢI Ý LÀM BÀI.

I/  Yêu cầu về kĩ năng:

 Học sinh phải xác định được đây là kiểu bài nghị luận văn học nhằm làm sáng tỏ một nhận định.

– Bố cục phải rõ ràng, chặt chẽ, văn phong trôi chảy và có chất văn.

II/ Yêu cầu về kiến thức:

Dàn bài 1:

  • Mở bài:

– Dẫn dắt vấn đề một cách trôi chảy, ấn tượng, khái quát được vẻ đẹp chung của những con người thầm lặng cống hiến

  • Thân bài:

– Làm sáng tỏ vẻ đẹp của từng con người trong sự thầm lặng cống hiến

+ Anh thanh niên là một con người yêu nghề, có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc khi thấy công việc của mình gắn liền với công việc của nhiều người khác; Anh biết quan tâm đến mọi người, sống chân thành ,cởi mở, khiêm tốn…

+ Ông kĩ sư vườn rau âm thầm tìm xem cách ong thụ phấn để rồi tự tay mình thụ phấn để cho rau su hào được nhiều hơn, ngon hơn …

+ Người cán bộ nghiên cứu sét cũng sẵn sàng hi sinh hạnh phúc riêng tư của đời mình, 11 năm mà không dám xa cơ quan một ngày, mải mê trên hành trình đi tìm bản đồ sét cho đất nước…

+ Họ là những con người luôn tự hỏi mình đã làm gì cho Tổ quốc, hi sinh quyền lợi của cái riêng mà vì cái chung, vì độc lập tự do vì hạnh phúc của nhân dân

– Khái quát vấn đề và liên hệ bản thân.

  • Kết bài:

– Nêu cảm nghĩ của bản thân về những con người lao động thầm lặng.

Dàn bài 2:

  • Mở bài:

Nguyễn Thành Long là cây bút truyện ngắn xuất sắc, nổi tiếng với các tác phẩm: Giữa trong xanh (1972), Ly Sơn mùa tỏi (1980)… Truyện ngắn Lặng lẽ  Sa Pa rút trong tập Giữa trong xanh. Truyện ca ngợi những con người sống giữa non xanh lặng lẽ nhưng vô cùng sôi nổi, hết lòng vì Tổ quốc và có trái tim nhân hậu.

  • Thân bài:

1. Vẻ đẹp thiên nhiên Sa Pa:

– Một bức tranh thiên nhiên rất đẹp, đầy chất thơ. Lào Cai miền Tây Bắc của Tổ quốc không hề hoang vu mà trái lại, rất hữu tình, tráng lệ. Khi xe vừa “trèo lên núi” thì “mây hắt từng chiếc quạt trắng lên từ các thung lũng”. Trạm rừng là nơi “con suối có thác trắng xóa”. Giữa màu xanh của rừng, những cây thông “rung tít trong nắng”, những cây tử  kinh “màu hoa cà “ hiện lên đầy thơ mộng. Có lúc, cảnh tượng núi rừng vô cùng tráng lệ, đó là khi “nắng đã mạ bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn”. Sa Pa với những rặng đào, với đàn bò lang cổ đeo chuông… như dẫn hồn du khách vào miền đất lạ kì thú.

– Vài nét chấm phá điểm xuyết, nghệ thuật nhân hóa, so sánh, tTác giả đã khắc họa bức tranh thiên nhiên Sa Pa với vẻ đẹp rực rỡ, tráng lệ, thơ mộng, hữu tình. Miêu tả bức tranh thiên nhiên bằng ngôn ngữ trong sáng, mỗi chữ, mỗi câu như có đường nét, hình khối, sắc màu. Văn xuôi truyện ngắn mà giàu nhịp điệu mang âm hưởng một bài thơ về thiên nhiên đất nước.

→ Có thể nói, vẻ đẹp của thiên nhiên Sa Pa hoàn toàn tương xứng và hài hòa với vẻ đẹp của con người giàu chất mộng mơ, đầy ý nghĩa. Trên cái nền bức tranh thiên nhiên ấy, cuộc sống của con người nơi miền Tây Tổ quốc thân yêu càng thêm nồng nàn ý vị: “nắng chiều làm cho bó hoa càng thêm rực rỡ và làm cho cô gái cảm thấy mình rực rỡ theo”. Có thể nói đó là những nét vẽ rất tinh tế và thơ mộng.

2. Vẻ đẹp con người:

Trên cái nền thơ mộng hữu tình ấy là sự xuất hiện của nhừng con người đáng yêu, đáng mến. Thiên nhiên, cảnh vật dù đẹp đến mấy cũng chỉ là cái nền tô điểm, làm cho con người trở nên đẹp hơn.

Đó là bác lái xe vui tính, cởi mở, nhiệt tình với hành khách. Đó là ông họa sĩ già say mê nghệ thuật, “xin anh em hoãn bữa tiệc đến cuối tuần sau” để ông đi thực tế chuyến cuối cùng lên Lào Cai trước lúc về hưu. Lúc nào ông cũng trăn trở “phải vẽ được một cái gì suốt đời mình thích”. Đó còn là cô kĩ sư trẻ mới ra trường đã hăng hái xung phong lên Lào Cai công tác, bước qua cuộc đời học trò chật hẹp, bước vào cuộc sống bát ngát mới tinh, cái gì cùng làm cho cô hào hứng. Cô khao khát đất rộng trời cao, cô có thể đi bất kì đâu, làm bất cứ việc gì.

Có vai trò giới thiệu nhân vật chính với ông họa sĩ và cô kĩ sư. Chính điều này, đã tạo ra sự thu hút chú ý của người đọc. Qua cảm xúc, suy nghĩ và thái độ cảm mến của bác lái xe, cô kĩ sư, ông họa sĩ, hình ảnh anh thanh niên được hiện ra càng rõ nét và đẹp hơn. Chủ đề của tác phẩm mở rộng thêm và gợi ra nhiều ý nghĩa. Bức chân dung nhân vật chính như được soi rọi nhiều luồng ánh sáng khiến nó thêm rạng rỡ và ánh lên nhiều màu sắc. 

– Và cả những nhân vật không trực tiếp xuất hiện: Đó là ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa suốt đời nghiên cứu và lai tạo giống su hào to củ và ngọt để phục vụ dân sinh và xuất khẩu.  Kiên trì, bền bỉ, làm việc trong âm thầm lặng lẽ “ngày này sang ngày khác”. Ông ngồi im trong vườn su hào rình xem cách ong lấy phấn, thụ phận cho hoa su hào. Và tự ông đi thụ phấn cho từng cây su hào để củ su hào nhân dân toàn miền Bắc ăn được to hơn, ngọt hơn. Ông kĩ sư làm cho anh thanh niên cảm thấy cuộc đời đẹp quá! Công việc thầm lặng ấy chỉ những con người  nơi mảnh đất Sa Pa mói hiểu hết được ý nghĩa của nó.

– Đó là đồng chí cán bộ nghiên cứu khoa học  “suốt ngày dự sét”. Anh luôn ở trong tư thế sẵn sằng suốt ngày chờ sét “nửa đêm mưa gió,rét buốt,mặc, cứ nghe sét là choáng choàng chạy ra”. Mười một năm không một ngày xa cơ quan, “không đi đến đâu mà tìm vợ”, lo làm một bản đồ sét riêng cho nước ta, cái bản đồ ấy “thật lắm của, thật vô giá”. Trán đồng chí ấy cứ hói dần đi.  Anh đã hi sinh hạnh phúc cá nhân vì niềm đam mê công việc để khai thác “của chìm nông, của chìm sâu” dưới lòng đất làm giàu cho Tổ quốc.

– Và, tiêu biểu nhất có lẽ là anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m, “một trong những người cô độc nhất thế gian”. Anh có nhiệm vụ “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất” góp phần dự báo thời tiết, phục vụ sản xuất và chiến đấu. Những đêm bão tuyết, rét ghê gớm, một mình một đèn bão ra “vườn” lấy số liệu vào lúc nửa đêm cả thân hình anh “như bị gió chặt ra từng khúc”, xong việc, trở vào nhà, “không thể nào ngủ lại được”. Anh đã làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, với ý chí và nghị lực to lớn để vượt qua gian khổ và đơn độc giữa non xanh. Chí tiến thủ là một nét đẹp ở anh: đọc sách, tự học, cần cù và chịu khó: nuôi gà lấy trứng, trồng hoa… làm cho cuộc sống thêm phong phú. Rất khiêm tốn khi nói về mình, dành những lời tốt đẹp nhất ngợi ca những gương sáng nơi Sa Pa lặng lẽ. Rất hiếu khách, anh mừng rỡ, quý mến khi khách lạ đến chơi. Một bó hoa đẹp tặng cô kĩ sư trẻ, một làn trứng gà tươi hiếu ông họa sĩ già, một củ tam thất gửi biếu vợ bác lái xe mới ốm dậy… là biểu hiện của một tấm lòng yêu thương, đối xử chân tình với đồng loại. Anh sống và làm việc vì lí tưởng cao đẹp, vì quê hương đất nước thân yêu, như anh thổ lộ với ông họa sĩ già: “Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc?”. Vì thế sau khi vẽ xong chân dung anh cán bộ khí tượng, họa sĩ nghĩ về anh: “Người con trai ấy đáng yêu thật…”

→ Dù còn trẻ tuổi nhưng anh đã thấm thía cái nghĩa, cái tình của mảnh đất Sa Pa nơi mà mình được sinh ra và lớn lên; thấm thía sự hi sinh thầm lặng của những con người ngày đêm làm việc và lo nghĩ cho đất nước. Có thể nói, qua cuộc gặp gỡ và trò chuyện, nhân vật anh thanh niên được khắc họa giản dị, khiêm nhường, đẹp trong suy nghĩ, trong cách sống và trong tâm hồn. Đó là nét vẽ đơn sơ, chân dung một con người có tầm vóc nhỏ bé mà nét mặt rạng rỡ.

–  Tóm lại, những nhân vật trên đây là hình ảnh những con người mới đã sống đẹp, giàu tình nhân ái, hết lòng phục vụ đất nước và nhân dân, sống nơi lặng lẽ non xanh nhưng họ chẳng lặng lẽ chút nào! Trái lại, cuộc đời của họ vô cùng sôi nổi, đầy tâm huyết và giàu nhiệt tình cách mạng. Đúng như Bác Hồ đã nói: “Đất nước ta là một vườn hoa đẹp. Mỗi người là một bông hoa đẹp”. Nhà văn Nguyễn Thành Long đã dành những lời tốt đẹp nhất nói về những con người đang sống và cống hiến giữa Sa Pa lặng lẽ. Mỗi người nơi non xanh ấy là một gương sáng, là một bông hoa ngát hương.

  • Kết bài:

Truyện Lặng lẽ Sa Pa là một bài thơ bằng văn xuôi rất trong sáng, trữ tình. Trên cái nền tráng lệ của thiên nhiên rừng, suối Sa Pa hiện lên bao con người đáng yêu. Mỗi người chỉ một vài nét vẽ mà tác giả đã lột tả được tâm hồn, tính cách, dáng vẻ của họ. Nguyễn Thành Long rất chân thực trong kể và tả, nhờ thế mà ta thấy những nhân vật như bác lái xe, ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ, anh thanh niên… rất gần gũi và mến yêu.


ĐỀ SỐ 8.

Trong văn bản “Tiếng nói văn nghệ“, Nguyễn Đình thi có viết: “Nghệ thuật không đứng ngoài trỏ vẽ cho ta đường đi, nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta, khiến chúng ta tự phải bước lên đường ấy”. Qua văn bản “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I/ Về hình thức:

– Thể loại: Thuộc kiểu bài chứng minh một vấn đề về văn học.

– Bố cục: Cân đối, kết cấu chặt chẽ.

– Diễn đạt: Văn viết phải lưu loát, đúng chính tả, đúng ngữ pháp; trình bày sạch đẹp, rõ ràng, có cảm xúc.

– Phương pháp: Nắm vững phương pháp làm bài nghị luận về một vấn đề văn chương thông qua việc phân tích một tác phẩm truyện để là rõ vấn đề (luận điểm rõ ràng, có sức thuyết phục, biết cách trích dẫn chứng và phân tích các dẫn chứng đã nêu, biết kết hợp yếu tổ biểu cảm trong nghị luận…).

II/ Về nội dung: Đề văn nhằm đánh giá kiến thức thí sinh về một tác phẩm cụ thể đồng thời ở một mức độ nào đó, đánh giá sự hiểu biết của các em về góc độ lí luận văn học, đó là tác dụng của nghệ thuật, cái hay của thơ ca. Ở đề này cái chính là hiểu và lấy văn bản “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long để làm sáng tỏ quan niệm của Nguyễn Đình Thi về văn học nghệ thuật: “Nghệ thuật không đứng ngoài trỏ vẽ cho ta đường đi, nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta, khiến chúng ta tự phải bước lên đường ấy”.

Học sinh có thể viết bằng nhiều cách khác nhau nhưng phải đảm bảo nắm được và làm toát lên những nội dung cơ bản sau:

  • Mở bài:

– Dẫn dắt giới thiệu vấn đề: Nhận định trên đã nói lên chức năng nhận thức, chức năng thẩm mĩ và chức năng giáo dục của nghệ thuật, của văn chương (tác dụng của nghệ thuật, văn chương.)

  • Thân bài:

1. Giải thích nhận định:

– Nghệ thuật là một loại hình độc đáo thể hiện cuộc sống qua các hình tượng, nét vẽ, màu sắc, hình khối, âm thanh …. Nghệ thuật được tác giả nói ở đây nên hiểu là nghệ thuật văn chương.

– Nghệ thuật không đứng ngoài trỏ vẽ cho ta: Nghệ thuật khác với những bài thuyết giảng đạo lí, mà các tác phẩm nghệ thuật là con đẻ của người nghệ sĩ, trong đó các nhà văn gửi gắm những suy tư, ước vọng của mình đến với độc giả. Tư tưởng trong tác phẩm nghệ thuật là thứ tư tưởng náu mình.

– Nghệ thuật vào đốt lửa trong lòng chúng ta là: Các tác phẩm văn chương tác động vào nhận thức, tâm tư, tình cảm của người đọc, giúp người đọc hiểu được hiện thực cuộc sống được phản ánh trong tác phẩm và qua sự rung động mà tác phẩm đem lại người tiếp nhận sẽ nhận thức rõ cái đẹp, cái đúng, cái sai trong thực tế cuộc sống, từ đó có những tình cảm yêu cái tốt đẹp, ghét cái xấu xa sai trái…

– Khiến chúng ta tự phải bước đi lên đường ấy: Từ những tình cảm tốt đẹp mà tác phẩm nghệ thuật đem lại, người đọc sẽ có hành động phù hợp như kế thừa, phát huy, noi theo những điều tốt đẹp, đấu tranh, phê phán cái xấu xa, lỗi thời, hèn kém…

2. Làm sáng tỏ  nhận định qua truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”:

Lặng lẽ Sa pa giúp cho người đọc thấy nghị lực phi thường và những phẩm chất cao đẹp của các nhân vật trong truyện mà tiêu biểu là nhân vật anh thanh niên đã giúp người đọc thấy rõ những phẩm chất cao đẹp của người lao động mới trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền nam mà thêm trân trọng yêu mến những con người đó:

+ Một con người có nghị lực phi thường: trong hoàn cảnh khó khăn của cuộc sống anh vẫn vượt lên để hoàn thành tốt nhiệm vụ (Dẫn chứng + phân tích)

+ Anh có lí tưởng đúng đắn: “Mình sinh ra ở đâu, mình vì ai mà làm việc”…

+ Anh biết tìm niềm vui trong công việc nhàm chán của mình với suy nghĩ “Mình với công việc là đôi ai bào là một mình được”….

+ Anh ham học hỏi, nghiên cứu khoa học (Dẫn chứng + phân tích)

+ Anh là người có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc “Một giờ sáng vẫn thức dậy đi ốp” mặc dù thời tiết ở Sa Pa rất lạnh giá…

+ Anh còn biết cải thiện cuộc sống, đã trồng rau, trồng hoa, nuôi gà….

+ Anh còn là người rất khiêm tốn, khi người họa sĩ muốn vẽ anh, anh đã giới thiệu những người khác đáng vẽ hơn (Dẫn chứng + phân tích)

– Vẻ đẹp anh thanh niên đã có sức lan tỏa đến cô kĩ sư, ông họa sĩ (Dẫn chứng + phân tích)

– Các nhân vật khác như: Cô kĩ sư, ông họa sĩ, bác lái xe, ông kĩ sư nông học, anh cán bộ sét, anh cán bộ khí tượng ở đỉnh cao hơn bốn ngàn mét…. đều say mê cống hiến cho đất nước.

– Qua nhân vật anh thanh niên người đọc thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn của anh anh niên, thấy được ý thức công dân của mình trong cuộc sống.

– Người đọc khâm phục những đức tính cao đẹp của anh thanh niên để từ đó học tập noi gương, có hành động đúng trong công cuộc xây dựng đất nước ngày nay…

  • Kết bài:

– Khẳng định nhận định: đánh giá thành công của truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”:

+ Truyện đã góp phần cổ vũ, động viện nhân dân ta trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đồng thời cũng là bức thông điệp gửi đề mọi người ý thức công dân trong xây dựng và bảo vệ đất nước. Thổi bùng trong ta lòng yêu đất nước và ý thức cống hiến những gì tốt đẹp nhất cho đất nước.

+ Ý kiến của Nguyễn Đình Thi là hoàn toàn đúng đắn có ý nghĩa khẳng định sức mạnh của nghệ thuật nói chung, của văn chương nói riêng.

(Lưu ý: Học sinh có thể viết đan xen giữa các yếu tố biểu cảm trong bài song phải có lập luận chặt chẽ để làm sáng tỏ nhận định).


ĐỀ SỐ 9.

Trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2600 mét, có một anh cán bộ khí tượng kiêm vật lý địa cầu sống một mình, bốn bề chỉ có cây cỏ mây mù lạnh lẽo và một số máy móc khoa học. Nhưng khi gặp ông họa sĩ già anh vẫn khẳng định: “Cháu sống thật hạnh phúc”. (Lặng lẽ Sa Pa – Nguyễn Thành Long)

Ngoài biển khơi xa, trong đêm tối, có những con người vẫn háo hức ra đi trong tiếng hát. Họ đã”Ra đậu dặm xa dò bụng biển/ Dàn đan thế trận lưới vây giăng”. (Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận)

Núi cao biển xa, chân trời góc bể nhưng những người lao động ấy vẫn nhiệt tình, âm thầm mang sức lao động của mình cống hiến cho Tổ quốc.Dựa vào hai tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long và Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận, hãy làm sáng tỏ vẻ đẹp của người lao động mới?

GỢI Ý LÀM BÀI.

I/ Yêu cầu về kĩ năng trình bày: Đúng kiểu bài nghị luận văn học, có bố cục rõ ràng, hợp lí; tổ chức sắp xếp ý một cách lôgic, chặt chẽ; diễn đạt trôi chảy, mạch lạc; chữ viết rõ ràng, không quá ba lỗi chính tả và không mắc lỗi dùng từ cơ bản

II/ Yêu cầu về nội dung: Học sinh có thể viết theo nhiều cách khác nhau song cần đảm bảo những ý sau:

  • Mở bài:

– Nêu đúng vấn đề và giới hạn – vẻ đẹp của người lao động mới trong hai tác phẩm: “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận và “Lặng lẽ SaPa” của Nguyễn Thành Long.

  • Thân bài:

1. Bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh sáng tác.

– Sau chiến thắng chống thực dân Pháp, miền Bắc nước ta bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng CNXH. Một không khí phấn khởi, hăng say lao động kiến thiết đất nước dấy lên khắp mọi nơi.

– “Đoàn thuyền đánh cá” (Huy Cận) (1958), “Lặng lẽ Sa Pa” (Nguyễn Thành Long) (1970) đều là kết quả của những chuyến đi thực tế mà các tác giả sống trực tiếp cùng với những con người lao động. Hình tượng người lao động đã được khắc họa rõ nét trong hai tác phẩm. Họ thuộc đủ mọi lớp người, mọi lứa tuổi, với những nghề nghiệp khác nhau, làm việc ở những vùng khác nhau nhưng đều có chung những phẩm chất cao đẹp.

2. Vẻ đẹp của người lao động mới.

Công việc, điều kiện làm việc của họ đầy gian khó, thử thách.

+ Người ngư dân trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” ra khơi khi thiên nhiên, vũ trụ vào trạng thái nghỉ ngơi. Đánh cá trên biển là một công việc rất vất vả và nguy hiểm.

+ Những người ngư dân đã hòa nhập với thiên nhiên bao la và trở thành hình ảnh sáng đẹp.

+ Trong “Lặng lẽ SaPa”: Anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn cao 2600 mét. Anh sống một mình, xung quanh anh chỉ có cây cỏ, mây mù lạnh lẽo và một số máy móc khoa học. Cái gian khổ nhất với anh là sự cô độc. Công việc của anh là “đo gió, đo mưa, dự báo thời tiết”.

+ Công việc ấy đồi hỏi phải tỉ mỉ, chính xác. Mỗi ngày anh đo và báo số liệu về trạm bốn lần. Nửa đêm, đúng giờ “ốp” dù mưa tuyết, gió rét thế nào thì vẫn phải trở dậy làm việc.

Trong điều kiện khắc nghiệt như vậy nhưng những người lao động ấy vẫn nhiệt tình, hăng say, mang hết sức lực của mình để cống hiến cho Tổ quốc.

+ Những người ngư dân là những con người lao động tập thể. Họ hăm hở: “Ra đậu dặm xa dò bụng biển / Dàn đan thế trận lưới vây giăng.” Họ làm việc nhiệt tình, hăng say trong câu hát:

+ Anh thanh niên có những suy nghĩ đúng đắn, sâu sắc về công việc. Anh hiểu việc mình làm có ý nghĩa quan trọng “phục vụ sản xuất…”. Công việc tuy lặp lại đơn điệu song anh vẫn rất nhiệt tình, say mê, gắn bó với nó (qua lời anh nói với ông họa sĩ).

Đó còn là những con người sống có lí tưởng và tràn đầy lạc quan. Họ thực sự tìm thấy niềm hạnh phúc trong công việc lao động đầy gian khổ.

+ Đánh cá trong đêm đầy vất vả, nguy hiểm, người ngư dân đã thu về thành quả thật tốt đẹp. Họ ra đi, làm việc và trở về đều trong câu hát. Hình ảnh thơ cuối bài rạng rỡ niềm vui, tin tưởng, hi vọng của người lao động. Họ vui say lao động vì một ngày mai “huy hoàng”.

+ Lí tưởng sống của anh là vì nhân dân, vì đất nước. Chính từ suy nghĩ: “mình sinh ra…. vì ai mà làm việc?” mà anh đã vượt lên nỗi “thèm người” để gắn bó với đỉnh Yên Sơn trong công việc thầm lặng.

+ Trong cái lặng im của Sa Pa ấy, không phải chỉ có anh thanh niên mà còn có cả thế giới những người “làm việc và lo nghĩ cho đất nước” qua lời anh kể như: ông kĩ sư vườn rau, đồng chí cán bộ nghiên cứu lập bản đồ sét… Họ thực sự tìm thấy niềm hạnh phúc trong lao động cống hiến.

3. Đánh giá:

– Người lao động vô danh trong hai tác phẩm đủ mọi thành phần, lứa tuối, nghề nhiệp, dù ở núi cao hay biển xa đều là những người nhiệt tình, say mê công việc, sống có lí tưởng.

– Họ là điển hình cao đẹp của con người lao động mới, con người trưởng thành trong công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc.

  • Kết bài:

– Khẳng định thành công của các tác giả trong việc khắc họa hình ảnh người lao động và nêu cảm nghĩ hoặc liên hệ mở rộng.


ĐỀ SỐ 10. Những nét đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam qua hình ảnh người lính trong tác phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật và nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I. Yêu cầu về kĩ năng:

– Bài viết đủ 3 phần: Mở bài – thân bài – kết bài

– Vận dụng được kĩ năng làm bài nghị luận.

– Lập luận chặt chẽ, luận điểm rõ ràng, lí lẽ thuyết phục, cảm nhận chân thành, diễn đạt mạch lạc, trình bày sạch, chữ rõ ràng.

II. Yêu cầu về kiến thức:

  • Mở bài:

–  Giới thiệu chung (đề tài tuổi trẻ là tương lai đất nước, hai tác phẩm đều viết về sự cống hiến của tuổi trẻ đối với đất nước trong kháng chiến chống Mỹ, nêu luận đề vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam).

– Giới thiệu truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” (Nguyễn Thành Long) và Bài thơ về tiểu đội xe không kính” (Phạm Tiến Duật).

  • Thân bài:

1. Hai nhân vật: Anh thanh niên “Lặng lẽ Sa Pa” và người lính lái xe “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” có những điểm khác nhau:

– Hoàn cảnh sống khác nhau:

+ Anh thanh niên sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao hai nghìn sáu trăm mét, quanh năm làm bạn với cỏ cây mây núi Sa Pa.

+ Người lính lái xe Trường Sơn trên những chiếc xe không kính, hỏng hóc, mất mát tới trần trụi trong những năm kháng chiến chống Mĩ.

– Công việc khác nhau:

+ Anh thanh niên trong mặt trận xây dựng CNXH: Làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn, góp phần vào dự báo thời tiết hàng ngày, phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu.

+ Người lính lái xe trực tiếp đối mặt với hiểm nguy trong chiến tranh chống Mĩ, chở lương thực, vũ khí, đạn dược ra chiến trường, phục vụ chiến đấu.

2. Tuy hoàn cảnh sống và công việc khác nhau nhưng ở họ đều có những vẻ đẹp chung:

– Nhiệt tình, dũng cảm cống hiến cho Tổ quốc, cho nhân dân.

+ Anh thanh niên vượt lên hoàn sống đặc biệt, nhiệt tình, say mê, yêu nghề, có trách nhiệm cao trong công việc. (phân tích d/c)

+ Người lính lái xe Trường Sơn bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. (phân tích d/c)

– Lí tưởng sống đẹp:

+ Anh thanh niên quan niệm: hạnh phúc là được sống có ích, được phục vụ Tổ quốc, nhân dân. (phân tích d/c)

+ Người lính lái xe có lí tưởng chiến đấu cao đẹp: vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. (phân tích d/c)

– Đời sống nội tâm sâu sắc, phong phú:

+ Anh thanh niên cởi mở, hiếu khách, sống sôi nổi, hồn nhiên với những thú vui lành mạnh. (phân tích d/c)

+ Những người lính lái xe tinh nghịch, lạc quan, yêu đời (phân tích d/c)

– Suy nghĩ của bản thân:

– Vấn đề cống hiến của tuổi trẻ: hai nhân vật đã cho thấy sự cống hiến của họ trong quá khứ để làm nên đất nước hôm nay.

– Thế kỉ XXI có những yêu cầu với thế hệ trẻ giống hôm qua nhưng cũng có những yêu cầu khác (do bối cảnh lịch sử, xã hội, thời đại …)

– Dù ở hoàn cảnh nào tuổi trẻ hôm nay cũng luôn hiểu rõ: Cống hiến (trong mọi điều kiện và hoàn cảnh) là mục đích của tuổi trẻ.

– Trong thực tế có những bạn trẻ chỉ nghĩ đến hưởng thụ mà quên mất phải cống hiến…

– Nét đẹp của hai nhân vật là tấm gương, là hành trang vào đời của tuổi trẻ hôm nay.

  • Kết bài:

–  Khẳng định vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam; thành công của hai tác phẩm trong việc xây dựng hình tượng tiêu biểu cho vẻ đẹp ấy.


ĐỀ SỐ 11.

Tình cha con sâu nặng trong cảnh ngộ éo le của ông Sáu và bé Thu (trích văn bản “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng – Ngữ văn 9, tập 1).

GỢI Ý LÀM BÀI.

I. Yêu cầu về kĩ năng:

– Biết làm thành thạo một bài văn nghị luận văn học, biết vận dụng những kĩ năng về tập làm văn: kết cấu chặt chẽ, bố cục rõ ràng, biết dựng đoạn văn, chuyển ý, diễn đạt tốt.

II . Yêu cầu về kiến thức :

  • Mở bài:

– Giới thiệu khái quát về tác giả Nguyễn Quang Sáng, tác phẩm Chiếc lược ngà, nhân vật bé Thu, ông Sáu.

  • Thân bài:

– Hai cha con gặp nhau sau tám năm xa cách, nhưng thật trớ trêu là bé Thu không nhận ra cha, đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm thắm thiết thì ông Sáu lại phải ra đi.

– Gặp lại con sau nhiều năm xa cách với bao nỗi nhớ thương nên ông Sáu không kìm được nỗi vui mừng trong phút đầu nhìn thấy đứa con. Nhưng thật trớ trêu, đáp lại sự vồ vập của người cha, bé Thu lại tỏ ra ngờ vực, lảng tráng và ông Sáu càng muốn gần con thì đứa con càng tỏ ra lạnh nhạt, xa cách.

– Tâm lý và thái độ của bé Thu đã được biểu hiện qua hàng loạt các chi tiết mà người kể chuyện và thuật lại rất sinh động: hốt hoảng, mặt tái đ, rồi vụt chạy và kêu thét lên khi mới gặp ông Sáu, chỉ gọi trống không với ông Sáu mà không chịu gọi ba; nhất định không nhờ ông Sáu chắt nước nồi cơm to đang sôi, hất cái trứng cá mà ông gắp cho ; bỏ về nhà bà ngoại khi bị ông Sáu tức giận đánh một cái, cố ý khua dây cột xuồngkêu rổn rảng thật to.

– Sự ương ngạnh của bé Thu hoàn toàn không đáng trách. Vì trong hoàn cảnh xa cách và trắc trở của chiến tranh, bé thu còn quá nhỏ để hiểu những tình thế khắc nghiệt, éo le của đời sống và người lớn cũng không ai kịp chuẩn bị cho nó đón nhận những khả năng bất thường nên nó không tin ông Sáu là ba nó do vết sẹo trên mặt ba nó, khác với ba nó trong tấm ảnh.

– Phản ứng tâm lý của bé Thu là hoàn toàn tự nhiên, nó còn chứng tỏ em có cá tính mạnh mẽ, tình cảm của em sâu sắc, chân thật.. Trong cái “cứng đấu” của em có ẩn chứa sự kiêu hãnh trẻ thơ về một tình yêu dành cho người cha “khác” – người trong tấm hình chụp chung với má nó.

– Trong buổi sáng cuối cùng, trước lúc ông Sáu phải lên đường, thái độ và hành động của bé Thu đột ngột thay đổi hẳn: lần đầu tiên Thu gọi tiếng “ba” và tiếng kêu như tiếng xé, nó vừa kêu vừa chạy xô tới ôm siết chặt lấy ba nó, hôn ba nó và không cho ba nó đi.

– Bé Thu có những hành động và tình cảm thay đổi như vậy là vì Thu đã được bà ngoại giải thích về vết sẹo làm thay đổi khuôn mặt ba nó. Sự nghi ngờ bấy lâu đã được giải tỏ và Thu nảy sinh một trạng thái như là ân hận, hối tiếc. Vì thế, trong giờ phút chia tay với cha, tình yêu và nỗi mong nhớ với người cha xa cách đã bị dồn nén bấy lâu nay bùng ra thật mạnh mẽ và hối hả, cuống quýt, có xen lẫn cả sự hối hận. Cảnh chia tay giữa bé Thu và ông Sáu thật cảm động.

– Bé Thu có tình cảm sâu sắc, mạnh mẽ, nhưng cũng thật dứt khoát, rạch ròi. Ở Thu có tính cách cứng cỏi đến mức tưởng như ương ngạnh, nhưng thật ra Thu vẫn là một đứa trẻ với tất cả nét hồn nhiên, ngây thơ của trẻ con.

– Tác giả rất am hiểu tâm lý trẻ em và diễn tả rất sinh động với tấm lòng yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thở.

  • Kết bài:

– Khắc sâu diễn biến tâm lý bé Thu qua đạo trích. Đồng thời nhấn mạnh đây cũng là diễn biến tâm lý chung của mọi trẻ thơ.


ĐỀ SỐ 12.

“Một trong những thành công xuất sắc của truyện ngắn Chiếc lược ngà là việc sáng tạo tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí đã thể hiện một cách cảm động tình cảm cha con sâu nặng và cao đẹp trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.”

Bằng những hiểu biết của em về văn bản Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng hãy  làm sáng tỏ ý kiến trên.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I/ Yêu cầu về hình thức:

– HS biết cách làm một bài văn nghị luận văn học dựa trên một tác phẩm truyện, có năng lực cảm thụ, giải thích, chứng minh, đánh giá khái quát làm rõ ý kiến văn học.

– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, lập luận chặt chẽ, có cảm xúc.

II/ Yêu cầu về nội dung: Về cơ bản thể hiện được những ý sau:

  • Mở bài:

– Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm và vấn đề cần nghị luận.

  • Thân bài:

1. Tình huống truyện:

– Hai cha con gặp nhau sau tám năm xa cách, nhưng thật bất ngờ bé Thu lại không nhận cha. Đến lúc em nhận ra và biểu lộ tình cảm mãnh liệt thì ông Sáu  lại phải đi chiến đấu.

– Ở khu căn cứ ông Sáu dồn tất cả tình yêu thương và nỗi mong nhớ con vào việc làm cây lược ngà để tặng con như lời hứa, nhưng ông đã hi sinh khi chưa kịp trao cho con món quà đầy ý nghĩa và thiêng liêng ấy.

* Nhận xét: Tình huống truyện đầy bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí. Qua đó thể hiện hoàn cảnh éo le trong chiến tranh, đồng thời để nhân vật bộc lộ được tình cảm cha con sâu nặng, thiêng liêng, cảm động.

2. Tình cảm cha con:

a/ Tình cảm của người con đối với cha:

– Khi bé Thu chưa nhận cha: đối xử xa lạ, ngờ vực, lạnh nhạt, có lúc phản ứng rất quyết liệt, gay gắt.

– Khi bé Thu nhận ra cha: nghe lời bà ngoại giải thích em ân hận, biểu lộ tình yêu cha cuống quýt, mãnh liệt, đầy cảm động.

* Đánh giá: Thái độ và hành động của bé Thu ở cả hai thời điểm là không đáng trách mà rất đáng thương, đáng nhận được sự đồng cảm.Đó là cách biểu lộ tình yêu thương ba tuyệt đối của một đứa trẻ có cá tính, có tình yêu Ba sâu sắc, mãnh liệt mà cũng rất hồn nhiên, trong sáng.

b/ Tình cảm của người cha đối với con:

– Khi về thăm nhà: nóng vội, khao khát được gặp con, dành hết tình yêu thương, sự quan tâm, chăm sóc cho con mà không được đền đáp nên ông rất đau khổ và bất lực.

– Khi trở lại chiến trường: ông day dứt, ân hận và dồn hết nỗi nhớ, tình yêu thương con vào việc làm cây  lược ngà cho con. Trước lúc hi sinh lời trao gửi cuối cùng ông nhờ người bạn trao tận tay cho con gái cây lược ấy.

* Đánh giá: Tình cảm cha con ở người chiến sĩ cách mạng trong hoàn cảnh đau thương, mất mát đầy éo le của chiến tranh thật cao đẹp và cảm động biết nhường nào.

3. Đánh giá chung:

– Khẳng định giá trị đặc sắc của tình huống truyện góp phần làm nổi bật ý nghĩa chủ đề tác phẩm: tình cha con sâu nặng, thiêng liêng, thắm thiết trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh.

– Từ đó gợi trong lòng người đọc nỗi xúc động thấm thía vê những đau thương mất mát, những cảnh ngộ éo le mà con người phải gánh chịu do chiến tranh.

  • Kết bài:

– Khẳng định vấn đề nghị luận.


ĐỀ SỐ 13.

Bàn về truyện ngắn, nhà văn Nguyễn Kiên cho rằng “ một truyện ngắn hay vừa là chứng tích của một thời, vừa là hiện thân cho chân lí giản dị của mọi thời

Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê (Ngữ Văn 9, tập 2, NXB Giáo dục Việt Nam), hãy làm sáng tỏ điều đó.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I/ Yêu cầu về kĩ năng:

– Thí sinh biết cách làm một bài nghị luận văn học.

– Bài viết có kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, lí lẽ và dẫn chứng thuyết phục, viết có cảm xúc, biết vận dụng linh hoạt các thao tác nghị luận, không mắc các loại lỗi.

II/ Yêu cầu về kiến thức:

– Thí sinh có thể có nhiều cách trình bày và lí giài khác nhau, song cần đảm bào các ý cơ bản sau:

  • Mở bài:

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

– Giới thiệu nhận định: Mối quan hệ giữa nhận định với “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê

  • Thân bài:

1. Giải thích nhận định:

– Nhận định bày tỏ quan niệm, yêu cầu đối với một truyện ngắn hay: Truyện ngắn hay là truyện ngắn để lại những ấn tượng sâu đậm về giá trị nội dung, nghệ thuật và tạo được những suy nghĩ sâu sắc trong lòng bạn đọc.

Là chứng tích của một thời: phản ánh chân thực hiện thực thời đại, đặt ra những vấn đề quan trọng, bức thiết của cuộc sống, con người đương thời (bản chất hiện thực, số phận con người, nỗi trăn trở nhân sinh…).

+ Là hiện thân của một chân lí giản dị của mọi thời: tác phẩm đặt ra, chạm tới được những chân lí giản dị – những vấn đề bình dị nhưng đúng đắn, là cốt lõi, bản chất, mang tính quy luật phổ quát, lâu dài của nhân sinh muôn thuở.

– Như vậy nhận định khẳng định tiêu chuẩn một tác phẩm truyện ngắn hay là những tác phẩm hài hòa hai giá trị: vừa soi bóng thời đại, ghi dấu những vấn đề lớn, cốt lõi của thời đại – vừa có ý nghĩa lâu dài, chạm đến những chân lí bình thường, phổ quát, muôn đời..

2. Làm sáng tỏ nhận định:

Đây là nhận định đúng đắn, sâu sắc, đặt ra yêu cầu tất yếu đối với một tác phẩm có giá trị và sức sống lâu dài.

– Đặc trưng về đối tượng phản ánh của văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng là khám phá, miêu tả, soi bóng thời đại mà nó ra đời: hiện thực cuộc sống, đời sống con người, đặt ra những vấn đề nhân sinh phong phú, phức tạp…

– Đặc trưng của truyện ngắn: thể loại tự sự cỡ nhỏ, dung lượng ngắn, thường chỉ kể về một tình huống đặc biệt của đời sống, với số lượng không nhiều các nhân vật, tình tiết, chi tiết, qua đó gửi gắm những thông điệp tư tưởng, tình cảm của tác giả.

– Truyện ngắn hay phải là những tác phẩm kết tinh hài hòa hai giá trị:

+ Là chứng tích của một thời: tác phẩm phải phản ánh được bức tranh sâu rộng về hiện thực thời đại, xây dựng được những chân dung nhân vật vừa chân thực vừa điển hình của thời đại, đặt ra được những vấn đề cốt lõi, quan trọng, bức thiết nhất đương thời. “Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời” (Tô Hoài)

+ Là hiện thân của một chân lí giản dị của mọi thời: khi tác phẩm chạm đến được chiều sâu của hiện thực, đặt ra được một hoặc nhiều vấn đề tuy giản dị, bình thường nhưng là bản chất, cốt lõi, có tính quy luật, là chân lí phổ quát muôn đời. Khi đó, tác phẩm là kết quả của sự gắn bó, trăn trở sâu sắc với thời đại và nhân sinh, thực sự có giá trị và sức sống lâu dài.

Giá trị và sức sống ấy chỉ có được khi tác phẩm có chất lượng nghệ thuật cao: tuy dung lượng ngắn, tình huống độc đáo, nhân vật không nhiều, chi tiết cô đúc … nhưng có độ dồn nén, hàm súc, khả năng khái quát, điển hình.

3. Chứng minh qua tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê.

a. Khái quát về tác giả, tác phẩm.

b. Chứng minh:

* Luận điểm 1: Truyện ngắn hay là những chứng tích một thời.

– Truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê là chứng tích của khí thế và hiện thực cuộc chiến đấu chống Mĩ của bộ đội ta, đặc biệt trên tuyến đường Trường Sơn.

– Hiện thực hoàn cảnh sống và chiến đấu của những nữ thanh niên xung phong trong tổ trinh sát mặt đường.

– Khí thế hào hùng của những nữ thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.

– Hiện thực cuộc chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn vô cùng khốc liệt.

– Truyện đã phản ánh hiện thực cuộc chiến đấu chống Mĩ gian khổ, ác liệt với nhiều mất mát hy sinh nhưng vô cùng oanh liệt của quân dân ta.

(Học sinh lấy dẫn chứng trong tác phẩm phân tích, chứng minh)

* Luận điểm 2: Truyện ngắn hay còn là hiện thân của một chân lý giản dị của mọi thời: không khó khắn, gian khổ hay sức mạnh bom đạn nào có thể hủy diệt vẻ đẹp trong phẩm chất và tâm hồn của con người.

– Vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, mơ mộng, đáng yêu.

– Vẻ đẹp của tình đồng đội keo sơn, gắn bó.

– Vẻ đẹp của tinh thần trách nhiệm cao, dũng cảm, không sợ hy sinh, gian khổ.

Chính những vẻ đẹp ấy đã tạo sức mạnh  cho họ trên tuyến đầu chiến trường, làm nên vẻ đẹp của thế hệ Việt Nam thời chống Mĩ.

(Học sinh lấy dẫn chứng trong tác phẩm phân tích, chứng minh)

* Luận điểm 3: Để thể hiện những giá trị ấy phải là một hình thức nghệ thuật độc đáo.

– Ngôi kể thứ nhất, người kể chuyện là Phương Định, tạo tính khách quan, sinh động, chân thực.

– Ngôn ngữ trần thuật, câu văn ngắn, nhịp điệu dồn dập thể hiện không khí ác liệt của chiến trường.

– Nghệ thuật miêu tả nhân vật đặc biệt là ngòi bút phân tích tâm lý.

4. Đánh giá:

– Truyện ngắn đã tái hiện hiện thực cuộc chiến đấu gian khổ, khốc liệt thời chống Mĩ trên tuyến đường Trường Sơn nhưng cũng làm ngời sáng một chân lý của mọi thời đại đó là vẻ đẹp của con người, của thế hệ trẻ Việt Nam, vẻ đẹp đó không một sức mạnh nào có thể hủy diệt được.

– Bồi đắp lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm, lòng yêu mến, tự hào trước những vẻ đẹp của con người trong chiến  tranh, gợi suy nghĩ về ý thức, trách nhiệm của thế hệ trẻ hôm nay.

– Nhận định chủ yếu khẳng định giá trị, vẻ đẹp, sức sống của thể loại truyện ngắn ở phương diện ý nghĩa nội dung tư tưởng, song cũng cần nhắc tới những yêu cầu, phẩm chất về nghệ thuật của thể loại: dựng truyện, kể chuyện hấp dẫn; xây dựng nhân vật; lựa chọn sáng tạo chi tiết, giọng điệu, lời văn…

– Ý kiến được nêu cũng gợi nhắc những đòi hỏi, yêu cầu:

+ Đối với người sáng tác: phải gắn bó, hiểu biết sâu sắc, trăn trở và nói lên những vấn đề thiết cốt nhất của thời đại để tác phẩm của mình thực sự là chứng tích của một thời; đồng thời đào sâu vào những vấn đề bản chất, chân lí của nhân sinh để tác phẩm có ý nghĩa và sức sống lâu dài, vượt tầm thời đại.

+ Đối với người đọc: tiếp nhận, trân trọng giá trị của những tác phẩm hay giúp ta hiểu sâu rộng hơn về cuộc sống, con người một thời và thấy được ý nghĩa của tác phẩm với muôn đời, muôn người, trong đó có chúng ta và thời đại mình đang sống.

  • Kết bài:

– Đánh giá lại vấn đề.

– Khẳng định sự thành công của tác phẩm.


ĐỀ SỐ 14.

“Niềm vui của nhà văn chân chính là niềm vui của người dẫn đường đến xứ sở cái đẹp”. (Pautopxki)

Em hiểu như thế nào về ý kiến trên? Hãy viết về xứ sở cái đẹp mà Lê Minh Khuê mang đến cho bạn đọc qua truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi.

GỢI Ý LÀM BÀI.

  • Mở bài:

– Giới thiệu khái quát về sứ mệnh cao cả của nhà văn chân chính.

– Trích dẫn ý kiến của K. Pautopxki và giới hạn phạm vi dẫn chứng: Tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi” (Lê Minh Khuê).

  • Thân bài:

1. Giải thích

– “Nhà văn chân chính”: Nhà văn có thái độ nghiêm túc trong lao động và sáng tạo nghệ thuật; có lương tâm, có trách nhiệm với nghề; tạo ra tác phẩm văn chương có giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật đặc sắc.

– “Người dẫn đường”: Là người định hướng tư tưởng, cảm xúc cho bạn đọc.

– “Xứ sở cái đẹp”: Là vẻ đẹp của một tác phẩm văn học được thể hiện ở hai phương diện nội dung và hình thức.

+ Vẻ đẹp nội dung là vẻ đẹp muôn hình muôn vẻ của cuộc đời mà nhà văn phản ánh trong tác phẩm. Đó là vẻ đẹp trong tự nhiên, trong con người, trong lao động, chiến đấu… mà nhà văn mang tới cho người đọc.

+ Vẻ đẹp hình thức là khả năng xây dựng được những hình tượng nghệ thuật sinh động, độc đáo, hấp dẫn, là khả năng kết cấu chặt chẽ, xây dựng tình huống hợp lí, khả năng sử dụng ngôn từ điêu luyện…

Ý kiến nhấn mạnh vai trò của nhà văn trong việc dẫn dắt, định hướng và bồi đắp tư tưởng, cảm xúc thẩm mĩ cho bạn đọc khi tiếp cận một tác phẩm văn chương.

2. Bàn luận:

– Con người luôn có nhu cầu cảm thụ, thưởng thức cái đẹp.

– Thiên chức cao cả của nhà văn là thông qua tác phẩm của mình để hướng con người tới các giá trị chân – thiện – mĩ. Nhà văn bằng năng lực của mình đã đưa cái đẹp vào tác phẩm một cách nghệ thuật, giúp người đọc vừa cảm nhận được cái đẹp cuộc đời, vừa cảm nhận được cái đẹp của chính tác phẩm.

– Giá trị thẩm mĩ là một trong ba giá trị cơ bản của văn học, là khả năng văn học có thể đem đến cho con người những rung động trước cái đẹp.

3. Chứng minh: “Xứ sở cái đẹp” mà Lê Minh Khuê mang đến cho bạn đọc qua truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi”.

a.  “Xứ sở cái đẹp” trong truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi được thể hiện ở phương diện nội dung: Đó là vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Mĩ qua hình ảnh ba nữ trinh sát mặt đường.

* Hoàn cảnh sống và chiến đấu:

– Sống và làm việc dưới chân một cao điểm, trên tuyến đường trọng điểm của Trường Sơn, giữa mênh mông khói bụi và bom đạn hủy diệt của kẻ thù : Đường bị đánh lở loét, hai bên đường không có lá xanh, những thân cây bị tước khô cháy ; đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay ầm ì…

→ Tác giả liệt kê, miêu tả chân thực đã tái hiện được hiện thực khốc liệt, tính chất ác liệt của cuộc chiến, đó là sự dã man, tàn bạo của kẻ thù; tàn phá thiên nhiên nặng nề, hủy diệt cả sự sống.

– Công việc vô cùng hiểm nguy: Đo khối lượng đất đá, đếm bom chưa nổ, nếu cần thì phá bom. Phá bom một ngày năm lần, ít thì ba lần. Trong lúc đơn vị thường ra đường vào lúc mặt trời lặn và làm việc có khi suốt đêm thì các cô, tổ trinh sát mặt đường, phải chạy trên cao điểm cả ban ngày, dưới cái nóng trên ba mươi độ, thần chết rình rập xung quanh.

– Phải đối diện với thần chết từng phút, từng giờ: thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhip điệu, chân chạy mà vẫn biết rằng khắp chung quanh có nhiều quả bom chưa nổ.

→ Nhiệm vụ công việc của họ rất quan trọng và đầy gian khổ, ác liệt, luôn luôn phải đối mặt với hiểm nguy và cái chết, đó cũng là hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn những năm đánh Mỹ.

* Vẻ đẹp của ba cô gái thanh niên xung phong :

** Vẻ đẹp chung:

– Họ có lí tưởng sống cao đẹp:

+ Rời ghế nhà trường phổ thông, gác lại bao ước mơ, hoài bão của mình, ba nữ thanh niên xung phong ra mặt trận, cùng nhiều thanh niên xung phong khác: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước / Mà lòng phơi phới dậy tương lai” để giành độc lập, tự do của Tổ quốc.

+ Họ thuộc tổ Trinh sát mặt đường ở trên cao điểm – cái tên gợi bao khát khao cống hiến.

→ Lí tưởng sống của họ cũng là của cả thế hệ trẻ thời đại ấy, sẵn sàng tình nguyện đến những nơi khó khăn ác liệt nhất, nhiều thử thách nhất, sẵn sàng hi sinh cho Tổ quốc: “Đâu cần thanh niên có/ Đâu khó có thanh niên”. Họ có lòng yêu nước cháy bỏng, nhiệt huyết sôi sục.

– Họ là là những cô gái kiên cường, dũng cảm và có tinh thần trách nhiệm với công việc:

+ Sẵn sàng nhận nhiệm vụ, không hề e ngại, run sợ, chùn bước trước hiểm nguy: Phương Định sẵn sàng nhận nhiệm vụ phá bom dù trước đó bị thương và vết thương chưa lành miệng. Một ngày chúng tôi phá bom ba- năm lần. Quen rồi. Tôi, một quả……dưới chân cái hầm ba-ri-e cũ…

→ Những câu văn ngắn, dạng câu đặc biệt là những thông báo giản dị, thản nhiên. Các cô đi làm nhiệm vụ đặc biệt hiểm nguy, đi vào chỗ chết, chia nhau cái chết mà bình tĩnh đến lạ thường.

+ Bình tĩnh, dũng cảm trong công việc: Đến gần quả bom, không đi khom, đào đất dưới vỏ quả bom còn nóng, bỏ thuốc mìn, châm ngòi

+ Cố gắng hoàn thành công việc, không ngại hy sinh: phải nhanh hơn chút nữa. Liệu mìn có nổ, bom có nổ không? Làm thế nào để châm mìn lần thứ hai? … thoáng nghĩ đến cái chết (nhưng chỉ là mờ nhạt, thoáng qua).

Nghệ thuật miêu tả nhân vật: đặt nhân vật trong tình huống cụ thể: đối mặt với quả bom có thể nổ bất cứ lúc nào – đối mặt với thần chết. Sử dụng một loạt động từ chỉ hành động gợi tả những hành động chính xác, nhanh nhẹn, thuần thục, khéo léo, khẩn trương, đồng thời miêu tả cụ thể chân thực những trạng thái cảm xúc của nhân vật như lo lắng, căng thẳng, bình tĩnh… Mục đích hoàn thành nhiệm vụ luôn được họ đặt lên trên hết, sự từng trải và lòng gan dạ đã giúp họ chiến thắng nỗi sợ hãi của bản thân, không ngại hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ.

– Họ có tình đồng chí đồng đội cao đẹp:

+ Họ quan tâm, chăm sóc, lo lắng cho nhau; thấu hiểu và tôn trọng sở thích của nhau:

  • Phương Định: Lo lắng cho chị Thao và Nho lên cao điểm chưa về đến nỗi “nói như gắt vào máy” khi đại đội trưởng hỏi tình hình. Phương Định hiểu chị Thao và Nho như hiểu về những chị em ruột thịt. Với Nho, cô em út của tổ trinh sát thì Phương Định rất muốn bế trên tay: Trông nó nhẹ mát như một que kem trắng. Biết bao trìu mến, yêu thương trong cái nhìn ấy. Khi Nho bị thương, cô vỗ về và chăm sóc như một người y tá: moi đất, bế Nho đặt lên đùi, rửa cho Nho bằng nước đun sôi trên bếp than, tiêm cho Nho, rồi pha sữa trong cái ca sắt… Đặc biệt, cô dành tình yêu và niềm cảm phục cho tất cả những chiến sĩ mà cô gặp ngày đêm trên con đường ra mặt trận. Với cô những người đẹp nhất, thông minh, cam đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục có ngôi sao trên mũ.
  • Chị Thao: cuống cuồng khi Nho bị thương, giành khó khăn về mình (Phương Định bị thương, chị Thao phân công Phương Định ở nhà trực máy, còn mình cùng Nho đi trinh sát …)
  • Nho: thấu hiểu đồng đội, bị thương cũng không kêu ca, biết trấn an tinh thần của đồng đội…

→ Tình đồng chí đồng đội của họ thật thiêng liêng, cao cả và đáng quý. Chính điều đó đã tiếp thêm sức mạnh để các cô hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.

– Họ là những cô gái lạc quan, trẻ trung, trong sáng, mơ mộng:

+ Trước khó khăn, họ vẫn đùa vui, tếu táo: trên cao điểm về, khói bom nhem nhuốc, khi cười chỉ thấy hai hàm răng trắng lóa, gọi nhau là những con quỷ mắt đen… Phương Định thích hát, chị Thao thích chép bài hát…, với họ “tiếng hát át tiếng bom”…

+ Họ thích làm đẹp cho cuộc sống của mình, ngay cả trong hoàn cảnh chiến trường ác liệt: Nho và chị Thao thích thêu thùa, Chị Thao tỉa lông mày nhỏ như que tăm, Phương Định thích ngắm mình trong gương, ngồi bó gối mơ màng, thích hát…

+ Cả ba đều hồn nhiên tươi trẻ: vui thích cuống cuồng khi cơn mưa đá đến bất ngờ, tiếc nuối khi cơn mưa qua nhanh…

** Nét đẹp riêng:

– Nho: Là em út, tính nết trẻ con, thích ăn kẹo, có dáng vẻ bé nhỏ, nhẹ nhàng, xinh đẹp mát mẻ như một que kem trắng nhưng rất bản lĩnh, rắn rỏi.

– Chị Thao: Là người thích làm đẹp, ở chị có những nét tính cách tưởng trái ngược nhau: Thích chép bài hát, chép cả bài do Phương Định bịa ra nhưng lại không hát trôi chảy bài nào; dũng cảm, táo bạo, bản lĩnh, kiên quyết trong chiến đấu nhưng lại sợ máu, sợ vắt…

– Phương Định:

+ Là cô gái xinh đẹp, duyên dáng nhưng không biểu lộ tình cảm, tỏ ra kín đáo trước đám đông, tưởng như kiêu kì nhưng lại tạo nên một sức hút tự nhiên.

+ Là cô gái Hà Nội, vào chiến trường ba năm, hay hoài niệm về quê hương, mẹ, mái trường…

+ Là cô gái hồn nhiên mơ mộng với nhiều nét tính cách thể hiện rất rõ ràng: thích hát, thuộc nhiều bài hát, say sưa tận hưởng cơn mưa hồn nhiên như chưa hề nghe thấy tiếng bom đạn nổ.

→ Họ là hình ảnh tiêu biểu cho vẻ đẹp của tuổi trẻ Việt Nam thời chống Mĩ. Vẻ đẹp đó khơi gợi những rung động thẩm mĩ, bồi đắp tình cảm con người. Tác phẩm đã gợi lên trong người đọc sự yêu mến, ngưỡng mộ, cảm phục trước vẻ đẹp của những cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Đó là tấm gương cho thế hệ trẻ hôm nay soi vào để hoàn thiện bản thân và sống có trách nhiệm hơn với cuộc đời.

b. “Xứ sở cái đẹp” trong truyện ngắn Những ngôi sao xa xôi được thể hiện ở phương diện nghệ thuật:

– Cốt truyện đơn giản, hấp dẫn. Tác giả thành công trong việc tạo dựng được rõ nét khung cảnh và không khí ở một trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn bằng nột vài nét miêu tả không rườm rà.

– Truyện kể theo ngôi thứ nhất – nhân vật Phương Định, tác giả đã diễn tả tự nhiên, sinh động những tâm trạng, cảm xúc, ý nghĩ của những cô gái ở giữa chiến trường, luôn đối mặt với cái chết mà vẫn sống hồn nhiên, lạc quan, giàu tình cảm mà không ít mơ mộng. Truyện kể tự nhiên, lôi cuốn người đọc. Nhân vật bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ của mình nên truyện kể khai thác được chiều sâu tâm lí nhân vật.

– Truyện kể chắt lọc, chân thực, sinh động. Hình ảnh Phương Định và những nữ trinh sát mặt đường như ở ngoài đời thực của chiến trường bước vào trong tác phẩm.

– Ngôn ngữ và giọng điệu: Ngôn ngữ trần thuật phù hợp với nhân vật kể chuyện – cô gái người Hà Nội – tạo cho tác phẩm có giọng điệu và ngôn ngữ tự nhiên gần với khẩu ngữ, trẻ trung và có chất nữ tính, vui tươi, hóm hỉnh.

– Xây dựng nhân vật qua miêu tả tâm lí, ngoại hình, cử chỉ, hành động để bộc lộ tích cách và phẩm chất.

– Lời kể chuyện thường dùng câu ngắn, nhịp nhanh tạo được không khí khẩn trương trong hoàn cảnh chiến trường. Ở những đoạn hồi tưởng, nhịp kể chậm lại, gợi nhớ những kỉ niệm của tuổi niên thiếu hồn nhiên, vô tư và không khí thanh bình trước chiến tranh.

3. Đánh giá.

– Nhận định của Pautopxki là một ý kiến xác đáng khi khẳng định sứ mệnh cao cả của nhà văn trong việc truyền tải cái đẹp của cuộc sống đến với người đọc. Điều này không chỉ đúng với tác phẩm Những ngôi sao xa xôi mà còn đúng với văn học và nghệ thuật nói chung.

– Nhà văn phải thâm nhập thực tế, trau dồi vốn sống, vốn hiểu biết và tài năng nghệ thuật để có thể tái hiện cái đẹp chân thực của đời sống trong tác phẩm của mình.

– Ý kiến cũng là một định hướng ý nghĩa cho việc chọn lọc và tiếp nhận văn chương của người đọc.

  • Kết bài:

– Khẳng định lại vấn đề nghị luận.

– Liên hệ bản thân.


ĐỀ SỐ 15.

“Càng từng trải chiến tranh, càng chứng kiến nhiều hơn sức mạnh hủy diệt , sức mạnh biến tất cả thành tro bụi của nó, Kiên càng tin rằng chiến tranh không tiêu diệt được cái gì hết. Tất cả vẫn còn lại đó, vẫn y nguyên” (Bảo Ninh – Nỗi buồn chiến tranh, NXB Văn học 2006, Tr.279)

Từ những chiêm nghiệm trên, hãy nói về những điều “chiến tranh không tiêu diệt được” trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê (SGK Ngữ văn 9, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam 2017).

GỢI Ý LÀM BÀI.

  • Mở bài:

Lê Minh Khuê thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Tác giả tham gia thanh niên xung phong và bắt đầu sáng tác vào đầu những năm 70 của thế kỷ XX. Lê Minh Khuê thành công ở thể loại truyện ngắn. Sáng tác của Lê Minh Khuê cuốn hút người đọc nhờ lối viết giản dị, tự nhiên, lối kể chuyện sinh động, khả năng phân tích tâm lí nhân vật chân thực, tinh tế. Truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” được viết năm 1971, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt.

– Giới thiệu vấn đề cần nghị luận. Trích dẫn nhận định.

  • Thân bài

1. Giải thích ý kiến:

– “Sức mạnh hủy diệt”: được hiểu là những tội ác do kẻ thù gây ra, những bom đạn, vũ khí do kẻ thù dội xuống.

– “Sức mạnh biến tất cả thành tro bụi của nó”: chiến tranh tàn phá mọi thứ trở nên hoang tàn, đổ nát, hủy hoại cuộc sống con người

– “Tất cả vẫn còn lại đó, vẫn y nguyên”: được hiểu là sức mạnh, tinh thần dân tộc vẫn còn mãi.

Chiến tranh với những thứ vũ khí có sức tàn phá lớn có thể gây ra đau thương, mất mát nhưng thực tế lại không hủy diệt được gì, đó là: dũng cảm, lòng yêu nước, tinh thần lạc quan của thế hệ trẻ

2. Phân tích, chứng minh:

a. Điều không thể hủy diệt được Những ngôi sao xa xôi chính là tinh thần lạc quan, sôi nổi, tinh nghịch, trẻ trung của những người lính:

– Nét nổi bật và cũng là điểm hấp dẫn nhất ở ba cô gái chính là vẻ đẹp của một tâm hồn trong sáng, hồn nhiên và mơ mộng, đáng yêu:

+ Họ gọi nhau một cách tinh nghịch “những con quỷ mắt đen”.

+ Nơi chiến trường bom đạn, chị Thao vẫn rất đáng yêu: Áo lót của chị cái nào cũng thêu chỉ màu. Chị lại hay tỉa đôi lông mày của mình, tỉa nhỏ như cái tăm…

+ Sau những giây phút căng thẳng ở cao điểm, xong việc là Phương Định thở phào chạy vào hang, là sà ngay vào một thế giới khác: nằm dài trên nền ẩm, lười biếng nheo mắt nghe ca nhạc từ cái đài bán dẫn nhỏ, có thể nghe, có thể nghĩ ngợi lung tung… Phương Định mê hát và thích nhiều bài hát: những bài hành khúc bộ đội hay hát trên những ngả đường mặt trận; thích dân ca quan họ mềm mại, dịu dàng; thích Ca-chiu-sa của hồng quân Liên Xô; thích ngồi bó gối mơ màng trước lời bài hát dân ca Ý trữ tình… Thích hát, Phương Định còn bịa ra lời mà hát, ngồi dựa vào thành đá và khe khẽ hát. Rõ ràng, thích hát là nét tâm lí của thời đại – cái thời tiếng hát át tiếng bom, nhưng đây cũng là nét cá tính ở Phương Định hé lộ vẻ đẹp phong phú của tâm hồn. Trong tiếng hát, có ý thức về lý tưởng, có khao khát về quê hương, tình yêu của tuổi trẻ và có cả khát vọng được trở về cuộc sống thanh bình.

+ Vẻ đẹp tâm hồn Phương Định ngời sáng nhất khi cơn mưa đá bất ngờ ập đến: Mưa đá! Cha mẹ ơi! Mưa đá! Chỉ một trận mưa đá vụt đi qua cũng đánh thức ở Phương Định rất nhiều kỉ niệm và nỗi nhớ về thành phố, quê hương, về gia đình, về tuổi thơ thanh bình của mình. Sau cái say sưa của niềm vui con trẻ là nỗi nhớ da diết khôn nguôi. Nhớ rất nhiều: nhớ mẹ, cái cửa sổ ngôi nhà, những ngôi sao to trên bầu trời thành phố, cái cây, vòm trời của nhà hát, bà bán kém và đám trẻ háo húc vây quanh; con đường nhựa sau cơn mưa, những ngọn đèn trên quảng trường lung linh như những ngôi sao trong truyện cổ tích nói về xứ sở thần tiên… Tất cả vừa rõ ràng, vừa mờ ảo; vừa đồng hiện, vừa vụt hiện trong tâm trí; vừa gần gũi, vừa xa xôi. Những hoài niệm làm dịu cơn khát – những nỗi nhớ cháy lòng, những hi vọng xa xôi. Tất cả ào đến, xoáy mạnh cũng mãnh liệt, dữ dội như cơn mưa đá. Tất cả làm thành hành trang tâm hồn của cô thanh niên xung phong, tiếp cho cô sức mạnh, thắp cho cô niềm tin và tỏa sáng vẻ đẹp của người chiến sĩ Trường Sơn, của những ngôi sao xa xôi.

b. Chiến tranh không thể hủy diệt được tình đồng chí, đồng đội gắn bó khăng khít của người lính.

– Ở họ có tình đồng đội keo sơn, gắn bó:

+ Sự nể phục, kính trọng của Phương Định với những chiến sĩ mà họ gặp trên đường ra trận.

+ Hiểu sở thích của đồng đội: Chị Thao thích ghi bài hát, thích tỉa lông mày nhỏ như que tăm nhưng lại rất sợ máu và vắt; Nho thích thêu thùa…

+ Luôn quan tâm, yêu thương, giúp đỡ nhau: Phương Định lo lắng, bồn chồn khi chờ Thao và Nho đi trinh sát trên cao điểm; sự lo lắng, cử chỉ chăm sóc tận tình của Phương Định, sự luống cuống của chị Thao khi Nho bị thương…

c. Cuối cùng chiến tranh không hủy diệt được lòng dũng cảm, nghị lực phi thường và lòng yêu nước nồng nàn của những người lính.

– Có tinh thần trách nhiệm cao với nhiệm vụ:

+ Có lệnh là họ lên đường, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ phá bom mở đường cho những đoàn xe nối đuôi nhau ra tiền tuyến và về đích an toàn.

+ Trong khi phá bom họ chỉ quan tâm đến một điều duy nhất: Liệu mìn có nổ? bom có nổ, nếu không thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai. Như vậy, với họ nhiệm vụ còn quan trọng hơn tính mạng bản thân.

– Gan dạ, dũng cảm, không sợ hy sinh:

+ Cuộc sống trong bom đạn chiến tranh cái chết có thể ập đến bất cứ lúc nào, song họ chưa bao giờ thấy ám ảnh, chưa bao giờ phải trằn trọc đêm đêm, cái chết đối với họ là một khái niệm rất mờ nhạt, không cụ thể.

+ Chị Thao rất gan dạ, ai cũng phải phát bực về sự bình tĩnh đến lạ của chị khi đối mặt với hiểm nguy.

+ Khi Nho bị thương, máu thấm ra đỏ đất, vẫn bình tĩnh không một tiếng kêu, không cho ai được khóc, không cho ai gọi về đơn vị…

+ Đặc biệt Phương Định bình tĩnh gan, không hề e ngại, run sợ, chùn bước trước nhiệm vụ: bình tĩnh đến gần quả bom, không đi khom, đào đất dưới quả bom, bỏ thuốc mìn, châm ngòi, thoáng nghĩ đến cái chết nhưng chỉ là ý nghĩ thoáng qua. Chính lòng gan dạ, dũng cảm giúp Phương Định vượt lên tất cả để hoàn thành nhiệm vụ.

3. Đánh giá, mở rộng:

– Nghệ thuật: “Những ngôi sao xa xôi:” chuyện kể sinh động, chân thực, tự nhiên theo ngôi kể thứ nhất. Tình huống truyện bất ngờ tạo sự hấp dẫn. Miêu tả nhân vật sinh động thông qua ngoại hình, lời nói, hành động

– Nội dung: Tác phẩm đã tái hiện chân thực cuộc sống đầy khó khăn nơi chiến trường, nhưng đồng thời ánh lên vẻ đẹp ngời sáng của thế hệ trẻ Trường Sơn trong kháng chiến chống Mỹ, đó là lòng dũng cảm, tình đồng đội keo sơn và lòng yêu nước nồng nàn. Những tình cảm đẹp đẽ đó, bom đạn chiến tranh không thể xóa nhòa, vui lấp.

– Mở rộng: Hình ảnh người lính qua một số tác phẩm khác: Đồng chí (Chính Hữu), Bài thơ tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật), Tây Tiến (Quang Dũng), Đất nước (Nguyễn Đình Thi), (Tố Hữu), Cá nước Nhớ (Hồng Nguyên),……

  • Kết bài:

– Khẳng định lại vấn đề cần nghị luận là hoàn toàn đúng.

– Liên hệ bản thân.


ĐỀ SỐ 16.

Vẻ đẹp trong lối sống, tâm hồn của nhân vật anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long và nhân vật Phương Định trong “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê.

GỢI Ý LÀM BÀI.

I. Yêu cầu về kĩ năng:

– Đảm bảo một văn bản nghị luận có bố cục rõ ràng, hợp lí; tổ chức sắp xếp hệ thống các ý một cách lôgic, lập luận chặt chẽ; diễn đạt trôi chảy, mạch lạc; chữ viết rõ ràng, cẩn thận; không mắc lỗi dùng từ cơ bản…

– Phải huy động những hiểu biết về văn học, đời sống, kĩ năng tạo lập văn bản và khả năng bày tỏ thái độ, chủ kiến của mình để làm bài.

– Có thể làm bài theo nhiều cách khác nhau nhưng phải có lí lẽ và căn cứ xác đáng, phải có thái độ chân thành nghiêm túc, phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội.

II. Yêu cầu về kiến thức: HS có thể khai thác vấn đề theo nhiều hướng, nhưng cần làm rõ các ý cơ bản sau:

  • Mở bài:

– Giới thiệu sơ lược về đề tài viết về những con người sống, cống hiến cho đất nước trong văn học.

– Nêu tên 2 tác giả và 2 tác phẩm cùng những vẻ đẹp của anh thanh niên và Phương Định.

  • Thân bài:

1. Vẻ đẹp của 2 nhân vật trong hai tác phẩm:

a. Vẻ đẹp trong cách sống:

– Nhân vật anh thanh niên trong “Lặng lẽ Sa Pa”.

+ Hoàn cảnh sống và làm việc : một mình trên núi cao, quanh năm suốt tháng giữa cỏ cây và mây núi Sa Pa. Công việc là đo gió, đo mưa đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất…

+ Anh đã làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, cụ thể, tỉ mỉ, chính xác, đúng giờ ốp thì dù cho mưa tuyết, giá lạnh thế nào anh cũng trở dậy ra ngoài trời làm việc đúng giờ quy định.

+ Anh đã vượt qua sự cô đơn vắng vẻ quanh năm suốt tháng trên đỉnh núi cao không một bóng người.

+ Sự cởi mở chân thành, quý trọng mọi người, khao khát được gặp gỡ, trò chuyện với mọi người.

+ Tổ chức sắp xếp cuộc sống của mình một cách ngăn nắp, chủ động: trồng hoa, nuôi gà, tự học…

– Cô thanh niên xung phong Phương Định trong “Những ngôi sao xa xôi”:

+ Hoàn cảnh sống và chiến đấu: ở trên cao điểm giữa một vùng trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn, nơi tập trung nhất bom đạn và sự nguy hiểm, ác liệt. Công việc đặc biệt nguy hiểm: Chạy trên cao điểm giữa ban ngày, phơi mình trong vùng máy bay địch bị bắn phá, ước lượng khối lượng đất đá, đếm bom, phá bom.

+ Yêu mến đồng đội, yêu mến và cảm phục tất cả những chiến sĩ mà cô gặp trên tuyến đường Trường Sơn.

+ Có những đức tính đáng quý, có tinh thần trách nhiệm với công việc, bình tĩnh, tự tin, dũng cảm…

b Vẻ đẹp tâm hồn:

– Anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa:

+ Anh ý thức về công việc của mình và lòng yêu nghề khiến anh thấy được công việc thầm lặng ấy có ích cho cuộc sống, cho mọi người.

+ Anh đã có suy nghĩ thật đúng và sâu sắc về công việc đối với cuộc sống con người.

+ Khiêm tốn thành thực cảm thấy công việc và những đóng góp của mình rất nhỏ bé.

+ Cảm thấy cuộc sống không cô đơn buồn tẻ vì có một nguồn vui, đó là niềm vui đọc sách mà lúc nào anh cũng thấy như có bạn để trò chuyện.

Là người nhân hậu, chân thành, giản dị.

– Cô thanh niên Phương Định trong “Những ngôi sao xa xôi”:

+ Có thời học sinh hồn nhiên vô tư, vào chiến trường vẫn giữ được sự hồn nhiên.

+ Là cô gái nhạy cảm, mơ mộng, thích hát, tinh tế, quan tâm và tự hào về vẻ đẹp của mình.

+ Kín đáo trong tình cảm và tự trọng về bản thân mình.

Các tác giả miêu tả sinh động, chân thực tâm lí nhân vật làm hiện lên một thế giới tâm hồn phong phú, trong sáng và đẹp đẽ cao thượng của nhân vật ngay trong hoàn cảnh chiến đấu đầy hi sinh gian khổ.

  • Kết bài:

– Hai tác phẩm đều khám phá, phát hiện ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam trong lao động và trong chiến đấu.

– Liên hệ với người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn qua bài “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật

– Vẻ đẹp của các nhân vật đều mang màu sắc lí tưởng, họ là hình ảnh của con người Việt Nam mang vẻ đẹp của thời kì lịch sử gian khổ hào hùng và lãng mạn của dân tộc.

– Liên hệ với lối sống, tâm hồn của thanh niên trong giai đoạn hiện nay.


ĐỀ SỐ 17.

“Càng từng trải chiến tranh, càng chứng kiến nhiều hơn sức mạnh hủy diệt, sức mạnh biến tất cả thành tro bụi của nó, Kiên càng tin rằng chiến tranh không tiêu diệt được cái gì hết. Tất cả vẫn còn lại đó, vẫn y nguyên.” (Bảo Ninh – Nỗi buồn chiến tranh, NXB Văn học 2006, Tr.279)

Từ những chiêm nghiệm trên, hãy nói về những điều “chiến tranh không tiêu diệt được” trong bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật (SGK Ngữ văn 9, Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017) và truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê (SGK Ngữ văn 9, Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam 2017).

GỢI Ý LÀM BÀI.

  • Mở bài: 

– Tác giả Phạm Tiến Duật: Là nhà thơ khoác áo lính, một gương mặt tiêu biểu cho thế hệ thơ trẻ kháng chiến chống Mĩ. Hình tượng trung tâm trong thơ ông là người lính và cô thanh niên xung phong. Nghệ thuật: giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” Viết năm 1969, được in trong “Vầng trăng quầng lửa”. Đoạn trích là ba khổ thơ cuối bài, thể hiện tình đồng đội keo sơn, gắn bó và ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước của những người lính.

– Tác giả Lê Minh Khuê: Thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Tác giả tham gia thanh niên xung phong và bắt đầu sáng tác vào đầu những năm 70. Lê Minh Khuê thành công ở thể loại truyện ngắn. Trong chiến tranh, hầu hết sáng tác tập trung viết về cuộc sống, chiến đấu của tuổi trẻ ở tuyến đường Trường Sơn. Sau 1975, sáng tác của Lê Minh Khuê bám sát những chuyển biến của đời sống xã hội và con người trên tinh thần đổi mới. Sáng tác của Lê Minh Khuê cuốn hút người đọc nhờ lối viết giản dị, tự nhiên, lối kể chuyện sinh động, khả năng phân tích tâm lí nhân vật chân thực, tinh tế. “Những ngôi sao xa xôi” được viết năm 1971, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt.

  • Thân bài:

1. Giải thích nhận định:

“Càng từng trải chiến tranh, càng chứng kiến nhiều hơn sức mạnh hủy diệt, sức mạnh biến tất cả thành tro bụi của nó, Kiên càng tin rằng chiến tranh không tiêu diệt được cái gì hết. Tất cả vẫn còn lại đó, y nguyên”.

→ Chiến tranh với những thứ vũ khí có sức tàn phá lớn, nó hủy diệt mọi thứ mà thực tế lại không hủy diệt được gì, đó là: đau thương, mất mát và hơn cả nó không thể hủy diệt sự dũng cảm, lòng yêu nước của thế hệ trẻ

2. Làm sáng tỏ nhận định.

a. Chiến tranh không thể tiêu diệt được sự sôi nổi, trẻ trung, nhiệt huyết của tuổi trẻ:

* Bài thơ về tiểu đội xe không kính:

– Tinh thần lạc quan, sôi nổi, tinh nghịch, trẻ trung

+ Giọng thơ têu nhộn, hài hước: “Không có”, “ừ thì có”.

+ Hiện thực: gió, bụi, mưa vốn khắc nghiệt bỗng mờ đi dưới sắc thái tươi vui, hóm hỉnh.

+ Cái nhìn lạc quan, mưa ngừng, miệng cười ha ha, trời xanh thêm.

– Tâm hồn lãng mạn:

+ Cảm nhận thiên nhiên như một người bạn nồng hậu, phóng khoáng: sao trời, cánh chim.

+ Như nhìn thấy “trời xanh thêm” phía cuối con đường. Họ lái chiếc xe không kính đến một chân trời đẹp đẽ.

* Những ngôi sao xa xôi:

– Họ là ba cô gái trẻ có nội tâm phong phú. Ở họ có những nét chung của cô gái hay mơ mộng, dễ xúc động, dễ vui, dễ buồn.

– Họ cũng rất nữ tính, thích làm đẹp dù ở chiến trường khói lửa. Nho thích thêu thùa, Thao chăm chép bài hát, Phương Định thích ngắm mình trong gương, ngồi bó gối mơ màng và thích hát.

– Cuộc sống ở chiến trường rất khó khăn nhưng họ vẫn luôn bình tĩnh, lạc quan, yêu đời. Trong hang vẫn vang lên tiếng hát của ba cô gái và những dự định về tương lai. Chiến tranh bom đạn không thể phá đi được những giây phút mơ mộng ấy. Đó còn là thời gian để nhớ về gia đình, về những kỉ niệm, là niềm vui của Nho và Phương Định khi thấy những cơn mưa đá.

b. Chiến tranh không thể tiêu diệt được tình đồng đội gắn bó khăng khít:

* Bài thơ về tiểu đội xe không kính:

– Tình đồng đội sâu nặng:

+ Cử chỉ đơn sơ: “bắt tay” những người lính lái xe Trường Sơn đã chia sẻ cho nhau niềm tự hào, kiêu hãnh, đã bộc lộ sự đồng cảm sâu sắc, là lời động viên thầm lặng mà nồng nhiệt.

+ Sự gắn bó, đầm ấm, thân thương như trong một gia đình. Đây là những khoảnh khắc binh yên, hạnh phúc hiếm hoi trong cuộc đời người lính. Họ được quây quần bên nồi cơm nấu vội, được sống với những tình cảm êm đềm, ấm áp nhất.

– Bữa cơm thời chiến đã xóa mọi khoảng cách giữa họ khiến họ có cảm giác gần gũi như ruột thịt.

* Những ngôi sao xa xôi:

– Tình đồng đội keo sơn, gắn bó:

+ Tình cảm ấy nằm trong sự chân thành, dứt khoát khi ai cũng muốn giành phần nguy hiểm, gian khổ về mình. Phương Định lo lắng, bồn chồn khi chờ Thao và Nho đi trinh sát trên cao điểm với nỗi lo lắng hai bạn không về

+ Tình cảm ấy nằm trong sự lo lắng, cử chỉ chăm sóc khi Nho bị thương, Phương Định tận tình cứu chữa, chị Thao luống cuống không cầm được nước mắt.

+ Tình cảm ấy còn được thể hiện trong sự nể phục, kính trọng những chiến sĩ mà họ gặp trên đường.

c. Chiến tranh không thể tiêu diệt được lòng dũng cảm, sẵn sàng hi sinh và lòng yêu nước nồng nàn:

* Bài thơ về tiểu đội xe không kính:

– Phong thái ung dung, hiên ngang, dũng cảm:

+ Đảo ngữ tô đậm sự ung dung, bình thản, điềm tĩnh đến kì lạ.

+ Điệp từ “nhìn”, thủ pháp liệt kê và lối miêu tả nhìn thẳng, không né tránh gian khổ, hy sinh, sẵn sàng đối mặt với gian nan, thử thách.

– Vẻ đẹp của lí tưởng cách mạng:

+ Vì miền Nam, vì một ngày chiến thắng không xa, nước nhà độc lập, đất nước thống nhất hai miền.

+ “Trái tim”: Hoán dụ cho tất cả con người với sức lực, tâm huyết dành trọn cho đất nước. Đồng thời cũng là hình ảnh ẩn dụ cho tinh thần trách nhiệm, ý chí chiến đấu.

→ Tiêu biểu cho vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ, là một biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời chống Mĩ.

* Những ngôi sao xa xôi:

– Có tinh thần trách nhiệm cao với nhiệm vụ:

+ Có lệnh là họ lên đường, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ phá bom mở đường cho những đoàn xe nối đuôi nhau ra tiền tuyến và về đích an toàn.

+ Trong khi phá bom họ chỉ quan tâm đến một điều duy nhất: Liệu bom có nổ không, nếu không thì làm cách nào để bom nổ. Như vậy, với họ nhiệm vụ còn quan trọng hơn tính mạng bản thân.

– Gan dạ, dũng cảm, không sợ hy sinh:

+ Cuộc sống trong bom đạn chiến tranh cái chết có thể ập đến bất cứ lúc nào, song họ chưa bao giờ thấy ám ảnh, chưa bao giờ phải trằn trọc đêm đêm, cái chết đối với họ là một khái niệm rất mờ nhạt, không cụ thể.

+ Lòng dũng cảm còn thể hiện qua sự kiên cường trong chiến đấu: Chị Thao rất gan dạ, ai cũng phải phát bực về cái tính bình tĩnh đến lạ của chị. Nho khi máu thấm ra đỏ đất, vẫn bình tĩnh không một tiếng kêu, không cho ai được khóc, không cho ai gọi về đơn vị. Phương Định bình tĩnh gan dạ, nhất định không chịu đi khom.

3. Nhận xét, đánh giá:

– Cả hai tác phẩm đã tái hiện chân thực cuộc sống đầy khó khăn nơi chiến trường, nhưng đồng thời làm ánh lên vẻ đẹp phẩm chất ngời sáng đó là lòng dũng cảm, tình đồng đội keo sơn và lòng yêu nước nồng nàn. Những tình cảm đẹp đẽ đó, bom đạn chiến tranh mãi mãi không thể xóa nhòa, vui lấp.

– Ngôn ngữ giản dị, trong sáng, giàu cảm xúc.

  • Kết bài:

– Khẳng định vấn đề. 


ĐỀ SỐ 14

Cùng viết về tình cha con nhưng hai tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao và Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng lại có những khám phá sáng tạo riêng, độc đáo.

Bằng cảm nhận về tình cha con trong hai tác phẩm, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.

GỢI Ý LÀM BÀI

Yêu cầu về kĩ năng:Thí sinh biết cách làm bài văn nghị luận văn học, có năng lực cảm thụ, phân tích, so sánh tốt, kết hợp nhuần nhuyễn các thao tác lập luận. Bố cục rõ ràng, diễn đạt lưu loát; không mắc lỗi về chính tả, dùng từ và ngữ pháp.

Yêu cầu về kiến thức:Thí sinh có thể triển khai bài viết theo nhiều cách khác nhau, nhưng cần đảm bảo những nội dung cơ bản sau:

Mở bài:

– Dẫn dắt vấn đề: Có thể đi từ tình cha con trong văn học.

– Nêu vấn đề: Cùng viết về tình cha con nhưng hai tác phẩm Lão Hạc của Nam Cao và Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng lại có những khám phá sáng tạo riêng, độc đáo.

2/ Thân bài:

 2.1. Cảm nhận về tình cha con qua hai tác phẩm

 2.1. 1.Tình cha con trong “Lão Hạc”

– Giới thiệu khái quát về nhân vật lão Hạc.

– Tình thương của lão Hạc dành cho con bộc lộ qua nhiều chi tiết:

+Lão luôn day dứt vì không có tiền cưới vợ cho con. Bao tình thương yêu, lão gửi gắm qua con chó Vàng- kỉ vật duy nhất còn lại của đứa con. Cách lão gọi “cậu Vàng”, cách lão chăm sóc, trò chuyện, cưng nựng…con chó Vàng, nỗi đau đớn khi lão phải bán đi con chó cho ta thấy rõ điều đó.

+ Ở nhà, tuy sức tàn lực kiệt nhưng lão vẫn cố gắng bòn vườn, tích cóp tiền cho con về cưới vợ và có chút vốn làm ăn. Lão thà chịu đói khổ chứ nhất quyết không tiêu vào số tiền dành dụm của con.

+ Lão thà chết chứ nhất định không chịu bán mảnh vườn của con.

=> Lão Hạc là một người cha rất mực thương con, hết lòng vì con.

2.1.2. Tình cha con trong “Chiếc lược ngà”

– Giới thiệu khái quát về nhân vật ông Sáu, bé Thu

– Biểu hiện tình cha con của ông Sáu:

+ Khi ở chiến trường, ông Sáu mong mỏi đến cháy lòng được gặp con.

+ Khi mới gặp lại con, ông vô cùng xúc động (chú ý phân tích những chi tiết về hành động, ngoại hình, tâm trạng…).

+ Cố tìm cách gần gũi, làm thân, chăm sóc con trong những ngày nghỉ phép mà không được, ông Sáu vô cùng khổ tâm, day dứt.

+ Khi con cất tiếng gọi ba, ông Sáu xúc động rơi nước mắt. Người cha ấy đã mang vào chiến trường một mong ước giản dị của con: “Ba về! Ba mua cho con một cây lược nghe ba”.

+ Ở chiến trường, ông dồn hết tâm huyết để làm cho con một cây lược. Khi kiếm được khúc ngà, mặt ông “hớn hở như đứa trẻ được quà”, những lúc rỗi, ông “ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng, tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc”. Khi chiếc lược đã hoàn thành, ông tỉ mẩn gò công khắc từng nét chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Nâng niu, trân trọng như một vật báu, ông thường xuyên “lấy cây lược ra ngắm nghía rồi mài lên tóc cho cây lược thêm bóng mượt”. Có thể nói, lòng yêu con đã biến người chiến sĩ thành một nghệ nhân sáng tạo ra một tác phẩm thiêng liêng, cao quý. Cây lược ngà đã kết tinh trong nó tình phụ tử mộc mạc mà đằm thắm, đơn sơ mà thật kì diệu.

+ Kỉ vật thiêng liêng chưa kịp trao thì ông Sáu đã hi sinh. Tàn lực cuối cùng ông dồn lên đôi mắt và đưa tay vào túi, móc cây lược ra đưa cho người bạn chiến đấu thân thiết nhất, như muốn nói, như muốn chuyển giao sự sống, chuyển giao ước nguyện cuối cùng của người cha cho người đồng chí: hãy tiếp tục làm tròn bổn phận của một người cha, hãy gìn giữ mãi tình cha con ruột thịt. Ông Sáu đã hi sinh, nhưng tình cha con không bao giờ chết. Chiến tranh khốc liệt có thể cướp đi sinh mạng, nhưng không thể cướp đi tình cha con cao quý, sâu nặng. Nó sẽ sống mãi trong chiếc lược ngà mà ông đã kì công làm cho con.

– Tình cha con của bé Thu:

+ Đằng sau sự bướng bỉnh, cương quyết không nhận cha của bé Thu ẩn chứa một tình yêu cha tha thiết, một niềm kiêu hãnh rất đỗi trẻ thơ: tin rằng cha của em rất đẹp. Em chỉ yêu cha khi tin chắc đó là cha của mình.

+ Tâm trạng ân hận của em khi biết rõ sự thật qua lời kể của bà ngoại.

+ Đỉnh cao của tình cha con là buổi sáng tiễn đưa ông Sáu lên đường (chú ý phân tích những chi tiết về vẻ ngoài, hành động, tiếng thét xé lòng…của bé Thu).

2.2. Điểm gặp gỡ và sự sáng tạo trong cách thể hiện tình cha con của hai tác phẩm

2.2.1. Điểm gặp gỡ

– Hai người cha, hai thời đại, hai cảnh ngộ khác nhau nhưng họ có chung một phẩm chất: yêu thương con nhất mực. Lão Hạc quyên sinh để dành lại mảnh vườn cho con. Ông Sáu dồn tình yêu thương vào việc làm chiếc lược ngà. Cả hai nhân vật đều là biểu tượng sáng ngời cho tình phụ tử sâu nặng: dành cho con tất cả, thậm chí sẵn sàng hi sinh tất thảy vì con.

– Để khắc họa tình cha con, cả hai tác phẩm đều xây dựng được những chi tiết nghệ thuật đặc sắc, tình huống truyện độc đáo, miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế.

2.2.2. Điểm độc đáo, sáng tạo

– Ở “Lão Hạc”, Nam Cao khám phá tình cha con của người nông dân Bắc Bộ trước Cách mạng tháng 8 trước thử thách khốc liệt của cái đói và miếng ăn, của cảnh ngộ khốn cùng, qua đó, tác giả thể hiện niềm tin bất diệt vào vẻ đẹp, bản chất lương thiện của họ.

– Ở “Chiếc lược ngà”, Nguyễn Quang Sáng khắc sâu chủ đề về tình cha con của người chiến sĩ cách mạng miền Nam trong thử thách khốc liệt của chiến tranh trên cả hai phương diện: tình cha với con và ngược lại, từ đó cho người đọc thấy những nỗi đau tột cùng mà chiến tranh gây ra cho cuộc sống con người.

– Cùng viết về tình cha con nhưng ở “Lão Hạc”, Nam Cao chọn nhân vật tôi – ông giáo là người trần thuật lại câu chuyện. Nhân vật tôi mang hình bóng cái tôi của tác giả đã đi từ dửng dưng, nghi ngờ đến ngạc nhiên, thấu hiểu. Có lúc, tác giả còn xen vào những lời bình luận trữ tình ngoại đề. Giọng điệu trần thuật của tác phẩm , do đó, cũng mang tính chất đa thanh: vừa dửng dưng lạnh lùng, vừa đằm thắm yêu thương, vừa xót xa bi phẫn… Hành trình nhận thức của nhân vật tôi cũng chính là hành trình mà người đọc khám phá những vẻ đẹp nhân cách cao cả của lão Hạc.

– Trong khi đó, ở “Chiếc lược ngà”, Nguyễn Quang Sáng để nhân vật tôi là người bạn chiến đấu lâu năm với ông Sáu kể lại câu chuyện cảm động về tình cha con. Do đó, câu chuyện được kể lại bằng giọng điệu thân mật, dân dã, thể hiện sự cảm thông, thấu hiểu của tình bạn, tình đồng chí, giàu tính nhân văn.

– Truyện ngắn của Nguyễn Quang Sáng thấm đẫm chất Nam Bộ. Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật rất tinh tế, đặc biệt là tâm lí của trẻ thơ. Truyện của Nam Cao giàu chất trữ tình và triết lí.

3/ Kết bài:

– Cùng viết về tình cha con nhưng hai tác phẩm có những sáng tạo độc đáo trên là do: bản chất của văn học (phải không ngừng sáng tạo), do sự khác biệt của thời đại, mục đích sáng tác, đặc điểm sáng tác của hai tác giả.

– Ý nghĩa của sự tương đồng và khác biệt trong việc thể hiện tình cha con ở hai tác phẩm:

+ Sự tương đồng: góp phần làm nên chất nhân bản, nhân văn của văn học.

+ Sự khác biệt làm nên vẻ đẹp phong phú, đa dạng của văn học.

– Thành công của hai tác phẩm là xây dựng được hình tượng những người cha mẫu mực. Trong tình cảnh éo le, tình cha con càng thắm thiết, sâu nặng, để lại trong lòng người đọc những xúc động sâu xa, những giá trị nhân bản đẹp đẽ, thiêng liêng.

– Bài học cho người sáng tác và tiếp nhận.


ĐỀ SỐ 22

Tại Đại hội lần thứ IX Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam ngày 09/01/2016, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu:

“Mỗi tác phẩm văn học, nghệ thuật thực sự có giá trị, phải có sức lay động công chúng, độc giả bằng trách nhiệm, tấm lòng, trái tim của người nghệ sĩ … Mỗi văn nghệ sĩ cần bám sát hiện thực cuộc sống để sáng tạo, làm sao cho mỗi tác phẩm của mình phản ánh chân thực cuộc sống, làm cho người đọc sau khi gấp sách lại đều cảm thấy mạch đời đập dưới bìa sách đóng như mạch máu đập dưới làn da”.

Em hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua việc phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng, em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.

GỢI Ý LÀM BÀI

Yêu cầu về kĩ năng:Nắm vững kỹ năng làm bài văn nghị luận văn học. Bố cục hợp lí, lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, dẫn chứng tiêu biểu. Diễn đạt, hành văn trong sáng, lời văn đẹp, ấn tượng.

Yêu cầu về kiến thức:Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo các nội dung cơ bản sau:

1/ Mở bài: Dẫn dắt vấn đề, ý kiến của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng:

“Mỗi tác phẩm văn học, nghệ thuật thực sự có giá trị, phải có sức lay động công chúng, độc giả bằng trách nhiệm, tấm lòng, trái tim của người nghệ sĩ … Mỗi văn nghệ sĩ cần bám sát hiện thực cuộc sống để sáng tạo, làm sao cho mỗi tác phẩm của mình phản ánh chân thực cuộc sống, làm cho người đọc sau khi gấp sách lại đều cảm thấy mạch đời đập dưới bìa sách đóng như mạch máu đập dưới làn da”.

2/ Thân bài:

2.1. Giải thích ý kiến của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

– Mỗi tác phẩm văn học, nghệ thuật thực sự có giá trị, phải có sức lay động công chúng: Tác phẩm văn học, nghệ thuật chỉ thực sự có giá trị khi nó làm cho người đọc thấy rung cảm, xúc động và đánh thức ở họ những tư tưởng, tình cảm cao đẹp.

– Trách nhiệm, tấm lòng, trái tim của người nghệ sĩ: Quý trọng nghề nghiệp và có bản lĩnh của người sáng tạo, có tình cảm nhân văn cao đẹp đặc biệt là tình thương yêu con người => những phẩm chất cần có của người nghệ sĩ.

– Mỗi văn nghệ sĩ cần bám sát hiện thực cuộc sống để sáng tạo, làm sao cho mỗi tác phẩm của mình phản ánh chân thực cuộc sống: Nhiệm vụ của nhà văn là phải sáng tạo nên những tác phẩm văn học có giá trị hiện thực.

– Làm cho người đọc sau khi gấp sách lại đều cảm thấy mạch đời đập dưới bìa sách đóng như mạch máu đập dưới làn da: Bạn đọc sau khi thưởng thức tác phẩm có những rung cảm sâu sắc với những vấn đề của hiện thực cuộc sống được nhà văn phản ánh trong tác phẩm. => Ý kiến trên đã khẳng định vai trò và nhiệm vụ quan trọng của nhà văn trong quá trình sáng tạo nghệ thuật nhằm tạo ra những tác phẩm văn học có sức lay động lòng người và mang giá trị hiện thực sâu sắc.

2.2. Phân tích tác phẩm Chiếc lược ngà để làm sáng tỏ ý kiến trên.

Truyện ngắn Chiếc lược ngà (1966) là một tác phẩm có giá trị, có sức lay động trái tim độc giả.

* Nhà văn đã thể hiện một cách cảm động tình cha con thắm thiết, sâu nặng trong hoàn cảnh chiến tranh.

– Tình cảm mãnh liệt của bé Thu với cha: Bé Thu là con gái đầu lòng cũng là đứa con duy nhất của ông Sáu. Em sống thiếu vắng người cha từ khi chưa đầy một tuổi. Sau hơn bảy năm xa cách, cha con mới được gặp lại. Tình thương cha của bé bộc lộ qua hai tình huống:

+ Tình huống thứ nhất: Thái độ và hành động của bé Thu trước khi nhận ông Sáu là cha.

+ Tình huống thứ hai: Thái độ và hành động của bé Thu khi nhận ông Sáu là cha.

– Tình cha con sâu nặng và cao đẹp của ông Sáu: Ông Sáu là người cha có tình thương con rất sâu nặng. Tình thương ấy bộc lộ qua hai tình huống:

+ Tình huống thứ nhất: Tình cảm của ông Sáu khi gặp lại con sau hơn bảy năm xa cách (Thí sinh phân tích tình cảm của ông Sáu dành cho con khi xuồng cập bến, trong những ngày nghỉ phép, lúc chia tay).

+ Tình huống thứ hai: Tình yêu con tha thiết của ông còn được thể hiện rất sâu sắc khi ông ở khu căn cứ: Day dứt ân hận vì đã đánh con, nhớ lời dặn của con ông dồn hết tâm trí và công sức để làm chiếc lược ngà, chiếc lược trở thành vật thiêng liêng đối với ông Sáu, trước lúc hi sinh ông đã nhờ người bạn chiến đấu của mình trao lại chiếc lược ngà cho con gái…

* Truyện ngắn Chiếc lược ngà là một tác phẩm có giá trị còn bởi từ khi ra đời cho đến nay các thế hệ độc giả vẫn không thôi hành trình đồng sáng tạo với nhà văn. Tác phẩm đã góp phần không nhỏ trong việc nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ và đánh thức ở nhiều thế hệ học sinh những phẩm chất, tình cảm cao đẹp: Thí sinh nêu được một (một số) ý kiến của độc giả bàn về sức sống của tác phẩm Chiếc lược ngà.

Ví dụ:

– Ngày ấy, mình đang là cậu học sinh cấp 3, đã từng đọc truyện ngắn “Chiếc lược ngà”, rất ấn tượng với văn phong Nam bộ, với cuộc kháng chiến vừa qua, thể hiện trong truyện ngắn này. (nhà văn Bùi Anh Tấn)

– Bông cẩm thạch vẫn tươi Mùa gió chướng/Người quê hương luôn nhớ Chiếc lược ngà. (Câu đối tại đám tang nhà văn ngày 13/2/2014)

– Điều duy nhất mà chúng tôi muốn nói trước khi đọc Chiếc lược ngà, đây là một tác phẩm viết về chiến tranh. Vì vậy, người đọc cần đặt mình trong bối cảnh của câu chuyện. Và hãy đừng quên rằng đã một thời Việt Nam chìm trong tiếng súng. Lịch sử sẽ phán xét về cuộc chiến tranh này. Nhưng giá trị nghệ thuật và lịch sử của những tác phẩm văn học thì luôn vĩnh hằng với thời gian. (Trần Thanh Phong)

Tác phẩm “Chiếc lược ngà” có giá trị hiện thực, khiến độc giả sau khi gấp sách lại vẫn cảm nhận được cuộc sống, không khí nóng bỏng của thời đại như đang diễn ra trước mắt.

– Phản ánh chân thực cuộc sống, cuộc chiến đấu của con người Nam Bộ trong kháng chiến chống Mĩ.

– Hiện thực về những tội ác mà đế quốc Mĩ đã gây ra cho đồng bào Nam Bộ nói riêng và nhân dân ta nói chung.

– Hiện thực về vẻ đẹp con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ: tình yêu quê hương đất nước, tình cảm gia đình, tình đồng đội…

=> Giúp độc giả hiểu hơn về cuộc chiến tranh và con người Việt Nam trong chiến tranh.

Nguyễn Quang Sáng đã sáng tạo nên truyện ngắn có giá trị này bằng trách nhiệm, tấm lòng, trái tim của người nghệ sĩ.

* Trách nhiệm của nhà văn Nguyễn Quang Sáng:

– Sáng tạo hình thức nghệ thuật phù hợp với nội dung tác phẩm: Xây dựng tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên, hợp lí; xây dựng cốt truyện khá chặt chẽ, lựa chọn nhân vật kể chuyện thích hợp; miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế và sâu sắc, nhất là đối với nhân vật bé Thu; ngôn ngữ truyện mang đậm chất địa phương Nam Bộ.

– Đóng góp mới mẻ: Trong khi các nhà văn cùng thời thường viết về những con người lí tưởng hiện ra giữa chiến trường lửa đạn thì nhà văn lại hướng ngòi bút của mình ca ngợi tình cảm cha con trong chiến tranh đầy cảm động.

– Làm tròn sứ mệnh của một nhà văn trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh: Nhà văn là chiến sĩ, trực tiếp cầm súng chiến đấu và viết nên tác phẩm từ những trải nghiệm thực tế của mình.

* Tấm lòng, trái tim của nhà văn Nguyễn Quang Sáng:

– Ông rất am hiểu tâm lí trẻ thơ, có tấm lòng yêu mến, trân trọng những tình cảm trẻ thơ. Trân trọng và ngợi ca những tình cảm cao đẹp của con người Việt Nam trong chiến tranh. Căm ghét chiến tranh bởi chiến tranh đã gây ra bao đau khổ, mất mát cho con người…

– Viết truyện ngắn này tác giả muốn khẳng định: Điều còn lại mà chiến tranh không thể lấy đi là vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam (lòng yêu nước nồng nàn, lí tưởng sống, chiến đấu giải phóng miền Nam thống nhất đất nước; tình đồng chí; tình cảm gia đình, tình cha con thắm thiết, sâu nặng, bất tử) mà bom đạn quân thù không thể nào tàn phá được. “Câu chuyện viết về tình cha con của những người kháng chiến, những người cách mạng. Nhưng đó cũng là tình phụ tử muôn đời. Truyện không dài, tình tiết không li kì, tư tưởng cũng không phức tạp. Nó chân thực và giản dị, vì thế mà cảm động. Ấy là cốt cách của một truyện hay”. (Chu Văn Sơn ).

Kết bài

– Ý kiến của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hoàn toàn đúng đắn và có thể được coi là ngọn nến soi đường cho các văn nghệ sĩ hôm nay và mai sau.

– Bằng trách nhiệm, tấm lòng, trái tim của người cầm bút và những nhận thức về thực tế cuộc sống, Nguyễn Quang Sáng đã làm nên một Chiếc lược ngà có sức lay động bạn đọc nhiều thế hệ, có giá trị hiện thực sâu sắc.

– Bạn đọc phải biết trân trọng sản phẩm sáng tạo của nhà văn, có tình yêu tha thiết với cái đẹp, không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết, tích lũy kinh nghiệm tiếp nhận, chủ động và sáng tạo khi tiếp nhận tác phẩm … để có những phát hiện mới về tác phẩm trên tầm cao của kiến thức, của tình yêu, say mê và rung cảm mãnh liệt đối với văn chương, đáp ứng được mong mỏi của các nhà văn “Viết ngắn thôi, nhưng cuộc sống phải dài!” (Nguyễn Minh Châu).


ĐỀ SỐ 49

Lặng lẽ Sa Pa”- Một bài ca ca ngợi những con người có lẽ sống cao đẹp đang lặng lẽ quên mình cống hiến cho Tổ quốc. Em hãy viết một bài văn nghị luận để làm sáng tỏ nhận định trên.

 GỢI Ý LÀM BÀI

I/  Yêu cầu về kĩ năng:

 Học sinh phải xác định được đây là kiểu bài nghị luận văn học nhằm làm sáng tỏ một nhận định.

– Bố cục phải rõ ràng, chặt chẽ, văn phong trôi chảy và có chất văn.

II/ Yêu cầu về kiến thức:

Mở bài

– Dẫn dắt vấn đề một cách trôi chảy, ấn tượng, khái quát được vẻ đẹp chung của những con người thầm lặng cống hiến

Thân bài

– Làm sáng tỏ vẻ đẹp của từng con người trong sự thầm lặng cống hiến

+ Anh thanh niên là một con người yêu nghề, có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc khi thấy công việc của mình gắn liền với công việc của nhiều người khác; Anh biết quan tâm đến mọi người, sống chân thành ,cởi mở, khiêm tốn…

+ Ông kĩ sư vườn rau âm thầm tìm xem cách ong thụ phấn để rồi tự tay mình thụ phấn để cho rau su hào được nhiều hơn, ngon hơn …

+Người cán bộ nghiên cứu sét cũng sẵn sàng hi sinh hạnh phúc riêng tư của đời mình, 11 năm mà không dám xa cơ quan một ngày, mải mê trên hành trình đi tìm bản đồ sét cho đất nước…

+ Họ là những con người luôn tự hỏi mình đã làm gì cho Tổ quốc, hi sinh quyền lợi của cái riêng mà vì cái chung, vì độc lập tự do vì hạnh phúc của nhân dân

– Khái quát vấn đề và liên hệ bản thân.

Kết bài

– Nêu cảm nghĩ của bản thân về những con người lao động thầm lặng.


ĐỀ SỐ 51

Đại văn hào Andersen có câu nói nổi tiếng: “Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng câu chuyện do chính cuộc sống viết ra”. Và chúng ta thấy rằng tác phẩm “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng chính là một câu chuyện cổ tích giữa đời thường, một truyện cổ tích hiện đại.

Qua câu nói của Andersen và hiểu biết về tác phẩm “Chiếc lược ngà”, hãy viết bài văn phân tích và nêu lên suy nghĩ của bản thân về câu chuyện cổ tích từ hiện thực cuộc đời ấy.

GỢI Ý LÀM BÀI

Yêu cầu về kĩ năng

HS biết cách làm một bài văn nghị luận văn học; bố cục hợp lí, lập luận chặt chẽ, văn viết mạch lạc, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp.

Yêu cầu về kiến thức

HS có thể triển khai nghị luận theo nhiều cách khác nhau, nhưng cần nổi bật các ý sau:

1/ Mở bài:  Giới thiệu vấn đề, dấn câu nói của Đại văn hào Andersen có câu nói nổi tiếng: “Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng câu chuyện do chính cuộc sống viết ra”.

2/ Thân bài:

a) Câu nói của Andersen: “Không có câu chuyện cổ tích nào đẹp bằng câu chuyện do chính cuộc sống viết ra”

– Cuộc sống đã thử thách cũng như tiếp thêm, làm tăng thêm tình yêu của những con người trong chính cuộc sống ấy, đó là những tình cảm cao quý: tình phụ tử, tình mẫu tử, tình bà cháu,…

– Những câu chuyện “cổ tích” trong cuộc sống đẹp không phải vì có sự xuất hiện của hình ảnh ông bụt, bà tiên, phép màu nhiệm,… như trong truyện cổ tích, mà nó đẹp nhờ những tình cảm thật sự giữa con người với con người, từ đó nuôi dưỡng trong tâm hồn mỗi con người ta những vẻ đẹp, những vẻ đẹp rất riêng và vô cùng thiêng liêng, cao quý.

b) Tình cảm của cha con ông Sáu đẹp như bức tranh cổ tích trong sự thử thách của chiến tranh:

– Chiến tranh đã chia cắt gia đình ông Sáu. Bé Thu lớn lên trong sự yêu thương của má, nhưng em chưa từng gặp ba, em chỉ biết ba qua tấm hình chụp chung với má.

– Chiến tranh vẫn không cắt được tình phụ tử thiêng liêng:

+ Bé Thu rất thương ba của mình: (HS phân tích, đưa dẫn chứng chứng minh cụ thể)

+ Ông Sáu luôn dành cho bé Thu một tình yêu thương đặc biệt: (HS phân tích, đưa dẫn chứng chứng minh cụ thể)

=> Chiến tranh chính là hiện thực đã góp phần tạo nên và nâng cao tình phụ tử thiêng liêng, cao quý của ông Sáu và bé Thu.

c) Suy nghĩ về câu chuyện cổ tích trong chiến tranh:

– Câu chuyện cổ tích về tình cha con được miêu tả cảm động ở hai phía: người cha, người cán bộ cách mạng và đứa con gái nhỏ.

– Đó là một tình cảm muôn thuở, có tính nhân bản và bền vững thể hiện trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh và trong cuộc sống nhiều gian khổ, hi sinh của người cán bộ cách mạng.

3/ Kết bài:


ĐỀ SỐ 53

“Một tác phẩm để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc chính là xây dựng thành công tình huống truyện và nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật”.Bằng những hiểu biết của em về văn bản Làng của nhà văn Kim Lân, hãy làm sáng tỏ nhận định trên.GỢI Ý LÀM BÀII. Về hình thức– Đảm bảo bố cục ba phần của bài văn nghị luận văn học.- Bài viết mạch lạc, lập luận thuyết phục, lời văn trong sáng, giàu hình ảnh, kết hợp các phương pháp lập luận giải thích, chứng minh (chủ yếu) với đánh giá tổng hợp vấn đề, khả năng cảm thụ, khám phá tình huống truyện và nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật hấp dẫn.II. Về nội dung1/ Mở bài: Nêu được vấn đề cần nghị luận.2/ Thân bài:2.1. Giải thích khái niệm:– Tình huống truyện lặ kiện, sự việc, hoàn cảnh xảy ra hết sức bất ngờ, gay cấn. Tác giả đặt nhân vật vào sự kiện đó nhằm bộc lộ mối quan hệ, bộc lộ khả năng ứng xử, thử thách phẩm chất, tính cách nhân vật, đưa câu chuyện lên cao trào và thể hiện chủ đề, nội dung tư tưởng tác phẩm. – Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật: là thủ pháp tái hiện những ý nghĩ, cảm xúc diễn biến tâm trạng, tâm lý của nhân vật. Thủ pháp này là yếu tố quan trọng để tạo nên một nhân vật sống động, hấp dẫn. 2.2. Lập luận Chứng minh sự thành công tình huống truyện và nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật trong tác phẩm làng:– Tình huống bất ngờ khi ông Hai nghe tin cả làng theo giặc giữa lúc tâm trạng phơi phới nghe tin thắng trận, giữa lúc ông đang ngóng vọng, tự hào về làng.(0.25đ)- Tâm trạng đau xót, tủi hổ dằn vặt, day dứt, lo lắng, bế tắc, tuyệt vọng. Từ chỗ yêu làng trở nên thù làng. Đặt nhân vật vào tình huống đầy căng thẳng, thử thách nhà văn muốn bộc lộ các mối quan hệ riêng chung trong con người của nhân vật. Đưa nhân vật lên cao trào để nhân vật tự bộc lộ cách ứng xử, phẩm chất, tính cách, lòng yêu làng, yêu nước thiết tha(1.5đ)- Nghệ thuật miêu tả nội tâm nhiều chiều, những cảm xúc, những diễn biến tâm trạng qua các mối quan hệ, qua các sự việc, tình huống nhỏ, qua trạng thái cảm xúc trực tiếp, qua đối thoại và độc thoại nội tâm(2.5đ)=> Tình huống được giải quyết thông qua diễn biến tâm trạng nhân vật sinh động. Một người nông dân mộc mạc, giản dị cùng tình yêu làng yêu nước chân chất thật thà song để lại ấn tượng vô cùng sâu sắc, lớn lao. Đây cũng là bức thông điệp về tình yêu làng xóm, yêu quê hương đất nước cho mỗi người.(1đ)

3/ Kết bài: Khẳng định vấn đề nghị luận.


ĐỀ SỐ 54

Thái độ và hành động của hai nhân vật anh thanh niên làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trong ( Lặng lẽ Sa Pa – Nguyễn Thành Long) và anh chiến sĩ lái xe trong (Bài thơ về tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật) gợi cho em suy nghĩ gì về tuổi trẻ ngày nay.GỢI Ý LÀM BÀII/ Hình thức: Vận dụng nhuần nhuyễn các phương thức biểu đạt, các phép lập luận đã học. Văn viết mạch lạc, trong sáng, có cảm xúc, ít mắc lỗi diễn đạt.II/ Về nội dung: Bài làm có thể có những bố cục khác nhau nhưng phải đúng kiểu văn bản nghị luận; các ý trình bày có thể không giống nhau nhưng trên cơ sở hiểu được hai văn bản “Lặng lẽ Sa Pa” và “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, đại thể cần nêu được các ý sau:Hai nhân vật anh thanh niên (LLSP), anh chiến sĩ (BTVTĐXKK).Người trẻ tuổi ở hai mặt khác nhau: xây dựng CNXH và chống Mỹ cứu nước.Nhiệt tình, dũng cảm thực hiện nghĩa vụ của tuổi trẻ không vụ lợi.Với ý chí và nghị lực của tuổi trẻ, với trách nhiệm và nghĩa vụ đối với đất nước họ lạc quan, yêu đời.Suy nghĩ của bản thân:Vấn đề cống hiến của tuổi trẻ. Hai nhân vật văn học đã cho thấy sự cống hiến to lớn đối với đất nước họ lạc quan, yêu đời.Trong thế kỷ XI có những yêu cầu với thế hệ trẻ giống hôm qua nhưng cũng có những yêu cầu khác (do bối cảnh lịch sử, xã hội, thời đại…).Dù hoàn cảnh nào tuổi trẻ hôm nay cũng luôn phân biệt : cống hiến và hưởng thụ mà cống hiến (trong mọi điều kiện và hoàn cảnh) là mục đích quan trọng của tuổi trẻ. Nét đẹp của hai nhân vật là hành trang vào đời của tuổi trẻ hôm nay


ĐỀ SỐ 65

“ Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm người dẫn đường đến xứ sở của cái đẹp”. Hãy khám phá “xứ sở của cái đẹp” qua văn bản: “ Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long ( sách giáo khoa Ngữ văn 9- tập 1).

GỢI Ý LÀM BÀI

Về kĩ năng

– Học sinh biết cách làm bài văn nghị luận văn học. Vận dụng linh hoạt các thao tác lập luận.

– Bố cục hợp lý chặt chẽ, văn viết mạch lạc, trong sáng, có cảm xúc, không mắc lỗi về chính tả, diễn đạt.

Về kiến thức

Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách khác nhau nhưng cần đảm bảo những nội dung cơ bản sau:

1/ Mở bài: Giới thiệu được vấn đề nghị luận.

2/ Thân bài:

2.1.Giải thích ý kiến

– “nhà văn chân chính”: là nhà văn luôn đặt cái đích vào con người, cuộc sống, đem ngòi bút của mình phục vụ đời sống, có ích cho con người.

– “xứ sở của cái đẹp”: đó là cái đẹp muôn hình muôn vẻ của cuộc đời mà nhà văn phản ánh trong tác phẩm, gợi những rung cảm thẩm mĩ, làm cho con người thêm mến yêu cuộc sống, thêm khao khát hướng tới những gì đẹp đẽ, tốt lành của cuộc đời.

->Niềm vui của nhà văn chân chính là được làm người dẫn đường cho bạn đọc khám phá những vẻ đẹp của cuộc sống thông qua các sáng tác văn học. Nhận định trên đã khẳng định về vai trò của nhà văn và tác phẩm với đời sống.

2.2. “Xứ sở của cái đẹp” trong văn bản: Lặng lẽ Sa Pa

Cảnh sắc thiên nhiên Sa Pa:
Nắng đốt cháy rừng cây, mạ bạc con đèo…..

– Cây hoa tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng.

-Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương, rơi xuống đường cái, luồn cả vào gầm xe.

=> Vài nét chấm phá điểm xuyết, nghệ thuật nhân hóa, so sánh

->Tác giả đã khắc họa bức tranh thiên nhiên Sa Pa với vẻ đẹp trong trẻo, thơ mộng, hữu tình. Miêu tả bức tranh thiên nhiên bằng ngôn ngữ trong sáng, mỗi chữ, mỗi câu như có đường nét,hình khối, sắc màu. Văn xuôi truyện ngắn mà giàu nhịp điệu mang âm hưởng một bài thơ về thiên nhiên đất nước.

Vẻ đẹp con người:

b.1. Nhân vật anh thanh niên:

*Hoàn cảnh sống và làm việc:

-Lật từng trang văn của Nguyễn Thành Long, ta thấy anh thanh niên 27 tuổi sống và làm việc một mình trên đỉnh núi cao 2600m, quanh năm làm bạn với mây mù và cây cỏ.

– Anh làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu . Công việc của anh là “đo gió, đo mưa, đo nắng,tính mây và đo chấn động mặt đất, dự báo thời tiết hằng ngày để phục vụ sản xuất và phục vụ chiến đấu”. Một công việc gian khó nhưng đòi hỏi sự chính xác, tỉ mỉ và tinh thần trách nhiệm cao. “Nửa đêm dù mưa tuyết, gió lạnh, đúng giờ ốp thì cũng phải trở dậy ra ngoài trời làm việc”.

– Hoàn cảnh sống khắc nghiệt vô cùng bởi sự heo hút, vắng vẻ; cuộc sống và công việc có phần đơn điệu, giản đơn…là thử thách thực sự đối với tuổi trẻ vốn sung sức và khát khao trời rộng, khát khao hành động. Nhưng cái gian khổ nhất đối với chàng trai trẻ ấy là phải vượt qua sự cô đơn, vắng vẻ quanh năm suốt tháng ở nơi núi cao không một bóng người. Cô đơn đến mức “thèm người”, phải lăn cây chặn đường dừng xe khách qua núi để được gặp gỡ, trò chuyện.

– Và anh đã vượt qua hoàn cảnh bằng những suy nghĩ rất đẹp,giản dị mà sâu sắc

*Vẻ đẹp trong tính cách người thanh niên.

– Anh hiểu rằng, công việc mình làm tuy nhỏ bé nhưng liên quan đến công việc chung của đất nước, của mọi người.

– Làm việc một mình trên đỉnh núi cao,không có ai giám sát,thúc giục anh vẫn luôn tự giác, tận tụy. Suốt mấy năm ròng rã ghi và báo “ốp”đúng giờ.

– Phải ghi và báo về nhà trong mưa tuyết lạnh cóng, gió lớn và đêm tối lúc 1h sáng, anh vẫn không ngần ngại.

-Và anh đã sống thật hạnh phúc khi được biết do kịp thời phát hiện đám mây khô mà anh đã góp phần vào chiến thắng của không quân ta trên bầu trời Hàm Rồng.

– Anh yêu công việc của mình, anh kể về nó một cách say sưa và tự hào.Với anh, công việc là niềm vui, là lẽ sống. Hãy nghe anh tâm sự với ông họa sĩ:“[…] khi ta làm việc, ta với công việc là đôi,sao gọi là một mình được? Huống chi công việc của cháu gắn liền với việc của bao anh em đồng chí dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất”. Qua lời anh kể và lời bộc bạch này, ta hiểu rằng anh đã thực sự tìm thấy niềm vui và hạnh phúc trong công việc thầm lặng giữa Sa Pa và sương mù bao phủ.

*Anh biết tạo ra một cuộc sống nền nếp văn minh và thơ mộng:

– Sống một mình trên đỉnh núi cao, anh đã chủ động sắp xếp cho mình một cuộc sống ngăn nắp: “một căn nhà ba gian, sạch sẽ, với bàn ghế, sổ sách, biểu đồ, thống kê, máy bộ đàm”.Cuộc sống riêng của anh “thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con,một chiếc bàn học, một giá sách”.

– Ngoài công việc, anh còn trồng hoa, nuôi gà, làm cho cuộc sống của mình thêm thi vị, phong phú về vật chất và tinh thần.

– Cuộc sống của anh không cô đơn, buồn tẻ vì anh có một nguồn vui đó là đọc sách. Anh coi sách như một người bạn để trò chuyện, để thanh lọc tâm hồn. Sách là nhịp cầu kết nối với thế giới nhộn nhịp bên ngoài. (khi bác lái xe đưa gói sách cho anh, anh“mừng quýnh” như bắt được vàng)

*Sự chân thành, cởi mở và lòng hiếu khách:

Sống trong hoàn cảnh như thế sẽ có người dần thu mình lại trong nỗi cô đơn.Nhưng anh thanh niên này thật đáng yêu ở nỗi “ thèm người”,lòng hiếu khách đến nồng nhiệt và sự quan tâm đến người khác một cách chu đáo.
Biểu hiện:

-Tình thân với bác lái xe, thái độ ân cần chu đáo, tặng củ tam thất cho vợ bác vừa mới ốm dậy.

-Vui sướng cuống cuồng khi có khách đến thăm nhà.

-Anh đón tiếp khách nồng nhiệt, ân cần chu đáo : hái một bó hoa rực rỡ sắc màu tặng người con gái chưa hề quen biết: “Anh con trai, rất tự nhiên như với một người bạn đã quen thân, trao bó hoa đã cắt cho người con gái,và cũng rất tự nhiên, cô đỡ lấy”, pha nước chè cho ông họa sĩ.

-Anh trò chuyện cởi mở với ông họa sĩ và cô kĩ sư về công việc, cuộc sống của mình, của bạn bè nơi Sa Pa lặng lẽ.

-Đếm từng phút vì sợ hết mất ba mươi phút gặp gỡ vô cùng quý báu.

-Lưu luyến với khách khi chia tay, xúc động đến nỗi phải “quay mặt đi” và ấn vào tay ông hoạ sĩ già cái làn trứng làm quà, không dám tiễn khách ra xe dù chưa đến giờ “ốp”

-> Tất cả không chỉ chứng tỏ tấm lòng hiếu khách của người thanh niên mà còn thể hiện sự cởi mở, chân thành, nhiệt tình đáng quí.

*Sự khiêm tốn,thành thật:

– Anh còn là người rất khiêm tốn, thành thực cảm thấy công việc và những lời giới thiệu nhiệt tình của bác lái xe là chưa xứng đáng, đóng góp của mình chỉ là bình thường nhỏ bé, anh vẫn còn thua ông bố vì chưa được đi bộ đội, trực tiếp ra chiến trường đánh giặc. Khi ông hoạ sĩ kí hoạ chân dung,anh từ chối, e ngại và nhiệt tình giới thiệu những người khác đáng vẽ hơn anh nhiều (ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa, anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét…)

b.2 Nhân vật ông họa sĩ:

– Tuy không dùng cách kể ở ngôi thứ nhất nhưng hầu như người kể chuyện đã nhập vào cái nhìn và suy nghĩ của nhân vật ông họa sĩ để quan sát và miêu tả từ cảnh thiên nhiên đến nhân vật chính của chuyện. Từ đó, gửi gắm suy nghĩ về con người, về nghệ thuật.

-Ngay từ những phút ban đầu gặp gỡ anh thanh niên, bằng sự từng trải nghề nghiệp và niềm khao khát của người nghệ sĩ đi tìm đối tượng của nghệ thuật, ông đã xúc động và bối rối.

-Ông muốn ghi lại hình ảnh anh thanh niên bằng nét bút kí họa và “người con trai ấy đáng yêu thật nhưng làm cho ông nhọc quá”. Những xúccảm và suy tư của nhân vật ông họa sĩ về người thanh niên và về những điều khác nữa được gợi lên từ câu chuyện của anh làm cho chân dung nhân vật chính thêm sáng đẹp và tạo nên chiều sâu tư tưởng.

b.3. Nhân vật cô kĩ sư

– Đây là cô gái dám rời Hà Nội, bỏ lại sau lưng “mối tình đầu nhạt nhẽo” để lên công tác ở miền cao Tây Bắc. Cuộc gặp gỡ bất ngờ với anh thanh niên, những điều anh nói, câu chuyện anh kể về những người khác đã khiến cô “bàng hoàng”, “cô hiểu thêm cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của người thanh niên, về cái thế giới những con người như anh mà anh kể, và về con đường cô đang đi tới”. Nhờ cái “bàng hoàng” ấy, cô mới nhận ra mối tình của mình bấy lâu nay nhạt nhẽo biết bao, cuộc sống của mình lâu nay tầm thường biết bao, thế giới của mình lâu nay nhỏ bé biết bao ! Khoảnh khắc bàng hoàng ấy chính là sự bừng dậy của những tình cảm lớn lao, cao đẹp khi người ta bắt gặp được những ánh sáng đẹp đẽ toả ra từ cuộc sống, từ tâm hồn người khác.

-Cùng với sự bàng hoàng ấy là “một ấn tượng hàm ơn khó tả dạt lên trong lòng cô gái. Không phải chỉ vì bó hoa rất to sẽ đi theo cô trong chuyến đi thứ nhất ra đời. Mà vì một bó hoa nào khác nữa, bó hoa của những háo hức và mơ mộng ngẫu nhiên anh cho thêm cô”. Cuộc gặp gỡ đã khơi lên trong tâm tư cô gái trẻ những tình cảm và suy nghĩ mới mẻ, cao đẹp về con người, về cuộc sống. Qua tâm tư của cô gái, ta nhận ra vẻ đẹp và sức ảnh hưởng của nhân vật anh thanh niên.

b.4 Bác lái xe:

– Bác lái xe là nhân vật xuất từ đầu truyện, nhưng cũng kịp thể hiện những nét đẹp trong tính cách. Là người rất yêu công việc, suốt 30 năm trong nghề lái xe mà vẫn luôn giữ được tính cởi mở, niềm nở có trách nhiệm với công việc, nhạy cảm trước vẻ đẹp của thiên nhiên và con người. Bác lái xe làcầu nối giữa anh thanh niên và cuộc đời ( mua sách cho anh, dừng xe dưới chân đồi để anh trò chuyện, giới thiệu những người bạn mới cho anh). Bác lái xe cũng là người dẫn dắt truyện, kích thích sự tò mò của ông họa sĩ và cô kĩ sư về anh thanh niên – người cô độc nhất thế gian, người rất “thèm người”

=> Qua cảm xúc,suy nghĩ và thái độ cảm mến của bác lái xe, cô kĩ sư, ông họa sĩ, hình ảnh anh thanh niên được hiện ra càng rõ nét và đẹp hơn. Chủ đề của tác phẩm mở rộng thêm và gợi ra nhiều ý nghĩa. Bức chân dung nhân vật chính như được soi rọi nhiều luồn gánh sáng khiến nó thêm rạng rỡ và ánh lên nhiều màu sắc.

b.5 Trong tác phẩm, còn có những nhân vật không xuất hiện trực tiếp mà chỉ xuất hiện gián tiếp qua câu kể của anh thanh niên cũng góp phần thể hiện chủ đề của tác phẩm.

-Anh bạn đồng nghiệp lặng lẽ cống hiến trên đỉnh Phan-xi-păng cao 3142 mét.

– Ông kĩ sư vườn rau Sa Pa hết lòng với công việc. Kiên trì, bền bỉ, làm việc trong âm thầm lặng lẽ “ngày này sang ngày khác”. Ông ngồi im trong vườn su hào rình xem cách ong lấy phấn, thụ phận cho hoa su hào. Và tự ông đi thụ phấn cho từng cây su hào để củ su hào nhân dân toàn miền Bắc ăn được to hơn, ngọt hơn. Ông kĩ sư làm cho anh thanh niên cảm thấy cuộc đời đẹp quá! Công việc thầm lặng ấy chỉ những con người nơi mảnh đất Sa Pa mói hiểu hết được ý nghĩa của nó.

-Anh cán bộ nghiên cứu bản đồ sét. Anh luôn ở trong tư thế sẵn sằng suốt ngày chờ sét “nửa đêm mưa gió,rét buốt,mặc, cứ nghe sét là choáng choàng chạy ra”. Anh đã hi sinh hạnh phúc cá nhân vì niềm đam mê công việc để khai thác “của chìm nông, của chìm sâu” dưới lòng đất làm giàu cho Tổ quốc.

– Ông bố anh thanh niên xung phong đi bộ đội.

=>Dù không xuất hiện trực tiếp trong truyện mà chỉ gián tiếp qua lời kể của anh thanh niên,song họ hiện lên với những nét tuyệt đẹp trong tâm hồn và cách sống. Họ là những người say mê công việc. Vì công việc làm giàu cho đất nước, họ sẵn sàn ghi sinh tuổi thanh xuân, hạnh phúc và tình cảm gia đình.

3/ Kết bài: Khẳng định vấn đề nghị luận.


ĐỀ SỐ 79

Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, tình yêu làng của nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “ Làng” được nhà văn Kim Lân viết lại thật chân thành và cảm động.

Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, tình yêu làng của những người con yêu quê hương được thể hiện như thế nào? Hãy viết bài văn nghị luận nêu suy nghĩ về tình cảm thiêng liêng đó?

GỢI Ý LÀM BÀI

Yêu cầu về kĩ năng:

– Có kĩ năng nghị luận về một vấn đề văn học, có lí lẽ thuyết phục và thể hiện được suy nghĩ cá nhân về tình yêu làng trong cuộc sống hiện đại.

– Bố cục hợp lí, rõ ràng, diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.

– Văn viết trong sáng, có cảm xúc.

Yêu cầu về nội dung:

1/ Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận.

2/ Thân bài:

* Tình yêu làng của ông Hai trọng truyện ngắn “ Làng”:

– Ông Hai có tình yêu làng thật đặc biệt:

+ Ông rất tự hào về ngôi làng của mình, đi đến đâu ông cũng khoe làng ( dẫn chứng)

+ Trong thời gian tản cư nghe tin làng theo giặc ông đau khổ tận cùng, khi nghe tin cải chính ông vui sướng vô cùng ( dẫn chứng)

– Tình yêu làng của ông Hai giản dị mà sâu sắc, gắn bó với tình yêu nước.

* Suy nghĩ về tình yêu làng trong cuộc sống hiện tại:

– Có điểm giống với ông Hai: yêu mến, tự hào về làng quê của mình

– Nhưng cũng có điểm khác:

+ Người dân hôm nay không phải chiến đấu với giặc để bảo vệ làng quê của mình

+ Sống trong hòa bình, độc lập, người dẫn đã hăng hái phát triển kinh tế, tích cực tham gia các hoạt động….làm thay đổi diện mạo quê hương ( dẫn chứng)

+ Có những người xa quê vẫn nhớ về quê hương, bản quán, họ vẫn hướng về quê bằng tình yêu và bằng cả những hành động thiết thực như quyên góp, công đức để xây dựng làng xã….. ( dẫn chứng)

– Tuy nhiên tình yêu làng ở một số người bị phai nhạt: khinh miệt  làng quê nghèo đói, tự bỏ quê hương, không nhớ tới quê hương dẫu đã thành đạt ….-> đáng lên án.

=> Đánh giá chung: Dẫu ở thời đại nào, tình yêu làng cũng là một biểu hiện giản dị mà sâu sắc của tình yêu đất nước.

3/ Kết bài: Khẳng định vấn đề nghị luận.

———————————————————————

 

ĐỀ SỐ 80

Hình ảnh con người Việt Nam trong chiến tranh qua hai truyện ngắn “ Làng “( của Kim Lân) và “ Chiếc lược ngà “ ( của Nguyễn Quang Sáng).

GỢI Ý LÀM BÀI

Yêu cầu về kĩ năng:

– Có kĩ năng nghị luận về một vấn đề văn học, có lí lẽ thuyết phục và thể hiện được suy nghĩ cá nhân về hình ảnh con người Việt Nam trong chiến tranh qua hai truyện ngắn “ Làng “( của Kim Lân) và “ Chiếc lược ngà “

– Bố cục hợp lí, rõ ràng, diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.

– Văn viết trong sáng, có cảm xúc.

Yêu cầu về nội dung:

1/ Mở bài:

– Giới thiệu về truyền thống yêu nước, yêu làng quê của dân tộc VN.

– Giới thiệu hai tác phẩm: “ Làng “ ( Kim Lân ) và “ Chiếc lược ngà “ ( Nguyễn Quang Sáng ) à viết về hình ảnh con người Việt Nam và tình cảm của họ trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt.

– Nhận xét chung về phẩm chất, tình cảm, vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam trong hoàn cảnh chiến tranh được thể hiện qua hai tác phẩm trên.

2/ Thân bài:

(Có thể phân tích lần lượt từng tác phẩm hoặc gộp chung )

2.1. Con người Việt Nam hiện lên trong truyện ngắn “Láng ” của nhà văn Kim Lân ( với nhân vật chính: Ông Hai)

– Yêu làng, tự hào về làng mình giàu đẹp. Say mê kể về làng – khoe làng một cách say mê, náo nức lạ thường.

– Yêu làng, ông Hai tự hào về những thành tích trong khánh chiến của làng, tự hào về tinh thần chiến đấu dũng cảm của làng ông trong chiến tranh.

– Khi xa làng đi tản cư, ông băn khoăn, ray rứt, tiếc nuối về những ngày tham gia chiến đấu cùng anh em đồng chí ở lại làng. Luôn quan tâm theo dõi tin tức của làng mình và mong ước được trở lại làng chiến đấu cùng anh em đồng chí.

– Khi nghe tin “ Làng ông theo Tây “àÔng đau xót, tuỉ hổ, dằn vặt , rồi dẫn đến tuyệt vọng khi mụ chủ nhà có ý đuổi gia đình ông đi, không cho ở nữa, vì gia đình ông là người làng theo Tây, việt gian bán nước(được miêu tả qua những diễn biến tâm lí phức tạp).

– Khi nghe tin “làng ông theo giặc ” được cải chính, ông mừng rỡ đi khoe với nhiều người, đến nhiều gia đình khoe làng ông chiến đấu kiên cường, rằng làng ông không phải theo Tây, rằng nhà ông bị giặc Tây đốt nhẵn…

è Tóm lại, ở Ông Hai ,tình yêu làng quê hoà quyện, gắn chặt với tình yêu đất nước, thống nhất với tình cảm kháng chiến. Ông Hai là một điển hình cho những người nông dân sống mộc mạc, chân chất nhưng tâm hồn chứa đựng biết bao tình cảm đáng trân trọng: yêu làng quê, yêu đất nước, ủng hộ công cuộc kháng chiến của cả dân tộc. Tình cảm gắn bó với làng quê bộc lộ và trỗi dậy trong hoàn cảnh chiến tranh thật đặc biệt . Và họ luôn đặt quyền lợi của gia đình, tình yêu làng dưới tình yêu đất nước và quan trọng hơn bao giờ hết đối với họ là góp phần cho cuộc kháng chiến của dân tộc mau chóng đi đến thắng lợi.

2.2. Hình ảnh con người Việt Nam trong chiến tranh qua tác phẩm “ Chiếc lược ngà”:

– Nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của đất nước, họ rời xa làng quê, rời xa người thân để ra đi, mang theo cả những tâm tư nỗi niềm, những nguyện ước đang canh cánh bên lòng. Anh Sáu ra đi khi con còn rất nhỏ. Tình cha con bị chia cắt bỡi chiến tranh ác liệt.

– Chính hoàn cảnh chiến tranh nghiệt ngã đã gây nên những bi kịch trong tình cha con của Anh Sáu, mà anh là người phải chấp nhận những đớn đau. Anh Sáu về phép mấy ngỳa nhưng đứa con gái yêu quý của Ông ( Bé Thu ) không nhận cha. Bom đạn, khói lửa của chiến tranh đã làm thay đổi một  phần trên nét mặt của người cha, làm cho Bé Thu không nhận ra được, vì không giống với người trong tấm ảnh . Thật cảm động , khi mà Bé Thu nhận ra cha thì đó cũng là lúc Anh Sáu phải ra đi… Chiến tranh không những gây nên những vết thương trên thân thể người lính mà còn gây nên cả những vết thương trong trái tim của họ.Dù đau đớn, nhưng họ vẫn hướng về phía trước, về cuộc chiến đấu, vầ Tổ quốc thân yêu…

– Khi con đã trưởng thành, đã hiểu ra được ý nghĩa của cuộc chiến đấu của thế hệ cha anh và sẵn sàng chờ đợi ngày chiến thắng để được đoàn tụ gia đình, thì đó chính là lúc người cha mãi mãi nằm lại nơi chiến trường xa xôi. Chiến tranh đã gây chia cắt và mất mát trong cuộc sống gia đình, trong tình cha con. Thế nhưng họ vẫn vượt qua để phụng sự Tổ quốc . Họ đã sống vì Tổ quốc, vì nhân dân mà quên mình…

3/ Kết bài: Tóm lại, hình ảnh con người Việt Nam trong hoàn cảnh chiến tranh thật đẹp đẽ. Dù trong hoàn cảnh đen tối như thế nào, họ vẫn vươn lên , vẫn hướng về Tổ quốc thân yêu với một tình yêu thiêng liêng ,cao cả…

————————————————————————

ĐỀ SỐ 81

Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân gợi cho em những suy nghĩ gì về những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp?

GỢI Ý LÀM BÀI

Yêu cầu về kĩ năng:

– Có kĩ năng nghị luận về một vấn đề văn học, có lí lẽ thuyết phục.

– Bố cục hợp lí, rõ ràng, diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.

– Văn viết trong sáng, có cảm xúc.

Yêu cầu về nội dung:

1/ Mở bài:  Nêu vấn đề nghị luận: Những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp mà tiêu biểu là nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng”.

 Ví dụ: Kim Lân là nhà văn am hiểu cuộc sống nông thôn và người dân Miền Bắc. Ông có sở trường viết truyện ngắn và truyện của ông thường viết về đề tài nông dân.  Truyện ngắn “Làng” được ông sáng tác trong lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang bùng nổ trên quy mô toàn quốc. Đây là một tác phẩm xuất sắc thể hiện thành công hình ảnh người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến mà tình yêu làng quê đã hoà nhập tròng lòng yêu nước và tinh thần của người dân kháng chiến. Nhân vật ông Hai trong truyện có những nét tình cảm cao đẹp và đáng quý đó.

2/ Thân bài:

Luận điểm 1 :  Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi đi tản cư.

–  Cũng như bao con người Việt Nam khác ông Hai cũng có một quê hương để yêu thương, gắn bó. Làng chợ Dầu luôn là niềm tự hào, kiêu hãnh của ông. Kháng chiến bùng nổ, người dân phải dời làng đi sơ tán, ông Hai cũng theo dòng người ấy sơ tán đến một miền quê xa xôi, hẻo lánh. Ông Hai thực sự buồn khi phải xa làng.  Ở nơi tản cư, lòng ông đau đáu nhớ quê, cứ “ nghĩ về những ngày làm việc cùng anh em”, ông nhớ làng quá.

– Ông Hai luôn khoe và tự hào về cái làng Dầu không chỉ vì nó đẹp mà còn bởi nó tham gia vào cuộc chiến đấu chung của dân tộc.

–  Ông luôn  tìm cách nghe tin tức về kháng chiến “chẳng sót một câu nào”. Nghe được nhiều tin hay , những tin chiến thắng của quân ta,  ruột gan ông cứ múa cả lên, náo nức, bao nhiêu ý nghĩ vui thích chen chúc trong đầu óc.

Luận điểm 2: Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi nghe tin làng theo giặc:

(Nhưng khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc thì bao nhiêu tình cảm tốt đẹp ấy trong ông Hai bỗng nhiên biến thành những nỗi lo âu, dằn vặt)

–  Khi nghe tin quá đột ngột, ông Hai sững sờ, xấu hổ và uất ức: “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được”. Khi trấn tĩnh lại được phần nào, ông còn cố chưa tin cái tin ấy”. Nhưng rồi những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên” làm ông không thể không tin. Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ tan tành trước cái tin sét đánh ấy. Cái mà ông yêu quý nhất nay cũng đã lại quay lưng lại với ông. Không chỉ xấu hổ trước bà con mà ông cũng tự thấy  ông mất đi hạnh phúc của riêng ông, cuộc đời ông cũng như chết mất một nửa.

–  Từ lúc ấy trong tâm trí ông Hai chỉ còn có cái tin dữ ấy xâm chiếm, nó thành một nỗi ám ảnh day dứt. Ông tìm cách lảng tránh những lời bàn tán và cúi gằm mặt xuống ra về. Nghe tiếng chửi bọn Việt gian, ông “cúi gằm mặt mà đi”, về đến nhà ông nằm vật ra giường, rồi tủi thân nhìn đàn con, “nước mắt ông lão cứ giàn ra”. Bao nhiêu câu hỏi dồn về xoắn xuýt, bủa vây làm tâm trạng ông rối bời trong cơn đau đớn, hụt hẫng đến mê dại, dữ dằn và gay gắt.. Ông cảm thấy như chính ông mang nỗi nhục của một tên bán nước theo giặc, cả các con ông cũng sẽ mang nỗi nhục ấy.

–  Suốt mấy ngày ông không dám đi đâu. Ông quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng tình hình bên ngoài. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ây”. Thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam –nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi!”

–  Nhưng chính lúc này, tình cảm đẹp trong con người ông Hai lại càng được bộc lộ rõ hơn bao giờ hết. Những đau đớn, dằn vặt, sự hổ thẹn đến tột cùng đã đẩy ông Hai vào một tình huống phải lựa chọn. Quê hương và Tổ Quốc, bên nào nặng hơn? Quê hương đáng yêu, đang tự hào… Nhưng giờ đây…. dường như mới chỉ nghĩ tới đó, lòng ông Hai đã nghẹn đắng lại. Tình yêu quê hương và tình yêu tổ quốc xung đột dữ dội trong lòng ông. Một ý nghĩ tiêu cực thoáng qua trong đầu: Hay là quay về làng. Nhưng rồi ông cảm thấy “rợn cả người”. Ông đã từng nhớ làng da diết, từng ao ước được trở về làng. Nhưng “vừa chớm nghĩ, lập tức ông lão phản đối ngay” bởi vì “về làng tức là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ”. Cuối cùng ông đã quyết định: “không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Như vậy,tình yêu làng dẫu có thiết tha, mãnh liệt đến đâu, cũng không thể mạnh hơn tình yêu đất nước.

–  Chuẩn mực cho tình yêu và niềm tự hào về quê hương, đối với ông Hai lúc bấy giờ là cuộc kháng chiến. Tuy đau xót tưởng chừng bế tắc nhưng trong cõi thẳm sâu của tấm lòng, người nông dân ấy vẫn hướng về kháng chiến, vẫn tin ở những điều tốt đẹp, cố giữ cho tâm hồn không vẩn đục, để đón đợi một điều gì đỡ đau đớn, tuyệt vọng hơn.

+ Khi tâm sự với đứa con nhỏ còn rất ngây thơ, nghe con nói: “Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”, nước mắt ông Hai cứ giàn ra, chảy ròng ròng trên hai má, giọng ông như nghẹn lại: “ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ?”.  Phải chăng, trong tâm hồn người nông dân chất phác ấy vẫn không phút nào nguôi ngoai nỗi nhớ quê hương, yêu quê hương và nỗi đau đớn khi nghe tin quê hương rời xa công việc chiến đấu chung của đất nước bấy giờ? Tâm sự với đứa con, ông Hai muốn bảo con nhớ câu “nhà ta ở làng chợ Dầu”. Đồng thời ông nhắc con- cũng là tự nhắc mình “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh”. Tấm lòng thuỷ chung với kháng chiến, với cách mạng thật sâu nặng, bền vững và thiêng liêng: “Cái lòng bố con ông là như thế đấy, có bao giờ đám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ đám đơn sai”.

Luận điểm 3: Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai khi nghe tin làng được cải chính.

–  Đến khi biết đích xác làng Dầu yêu quý của ông không phải là làng Việt gian, nỗi vui mừng của ông Hai thật là vô bờ bến: “Ông cứ múa tay lên mà khoe cái tin ấy với mọi người”, mặt ông “tươi vui, rạng rỡ hẳn lên”. Đối với người nông dân, căn nhà là cơ nghiệp của cả một cuộc đời, vậy mà ông sung sướng hể hả loan báo cho mọi người biết cái tin “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ” một cách tự hào như một niềm hạnh phúc thực sự của mình. Đó là nỗi lòng sung sướng trào ra hồn nhiên như không thể kìm nén được của người dân quê khi được biết làng mình là làng yêu nước dẫu cho nhà mình bị giặc đốt. Tình yêu làng của ông Hai  thật là sâu sắc và cảm động.

– So với lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao trước cách mạng tháng Tám, rõ ràng ta thấy ông Hai có những điểm tiến bộ vượt bậc trong nhận thức, tâm hồn, tình cảm và tính cách. Đó chính là nhờ vào đường lối giác ngộ cách mạng của Đảng, Bác Hồ mà học có được. Lão Hạc và ông Hai có những điểm tính cách khác nhau nhưng họ vẫn có những phẩm chất của những người nông dân giống nhau, đều hiền lành, chất phác, lương thiện. Khi cách mạng tháng Tám thành công đã đem đến sự đổi đời cho mỗi người nông dân. Từ một thân phận nô lệ phụ thuộc họ trở thành một người tự do làm chủ cuộc đời, làm chủ đất nước. Từ đó đã củng cố và làm nền tảng vững chắc cho tình yêu quê hương, đất nước, trở thành một tình cảm vững bền, thiêng liêng sâu nặng, nồng cháy. =>  Trong hoàn cảnh toàn dân đang hướng tới cuộc kháng chiến chống pháp, bảo vệ độc lập dân tộc, ông Hai đã biết đặt tình yêu đất nước lên trên tình yêu cá nhân của mình với làng chợ Dầu, ông dành tất cả cho cách mạng. Đó chính là nét đẹp trong con người ông Hai nói riêng và người nông dân Việt Nam nói chung.

– Văn hào I-E- ren – bua có nói: …”Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu tổ quốc”. Ông Hai đúng là một con người như thế. Niềm vui, nỗi buồn của ông đều gắn bó với làng. Lòng yêu làng của ông chính là cội nguồn của lòng yêu nước.

Luận điểm 4:  Nghệ thuật xây dựng nhân vật ông Hai

– Nhà văn Kim Lân đã khá thành công khi xây dựng nhân vật ông Hai, một lão nông cần cù, chất phác, yêu mến, gắn bó với làng quê như máu thịt.

+  Nhà văn  đã chọn được một tình huống khá độc đáo là sự thử thách bên trong bộc lộ chiều sâu tâm trạng.

+ Tâm lý nhân vật được nhà văn miêu tả cụ thể, gợi cảm qua các diễn biến nội tâm, qua các ý nghĩ, cảm giác, hành vi, ngôn ngữ. Đặc biệt là nhà văn đã diễn tả đúng và gây được ấn tượng mạnh mẽ về sự ám ảnh, day dứt trong tâm trạng nhân vật.

VD1 (tâm trạng) : Khi nghe tin làng theo giặc thì bị dằn vặt, đau khổ : « Đã ba bốn hôm nay, ông Hai không bước chân ra đến ngoài, cả đến bên bác Thứ ông cũng không dám sang. Suốt ngày ông chỉ quanh quẩn trong cái gian nhà chật chội ấy mà nghe ngóng. …… thôi lại chuyện ấy rồi ». Khi tin đồn được cải chính thì « cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên ».

VD2 : Miêu tả đúng các « phản ứng » bằng hành động của một người nông dân hiền lành, chất phác và chưa đọc thông, viết thạo : Khi muốn biết tin tức thì : « ông cứ đứng vờ vờ xem tranh ảnh chờ người khác đọc rồi nghe lỏm ». Khi nghe tin làng theo giặc thì « ông Hai cứ cúi gằm mặt xuống mà đi » rồi « nắm chặt hai bàn tay mà rít lên : « chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này ». Khi tin đồn được cải chính thì « ông lão cứ múa tay lên mà khoe cái tin đồn ấy với mọi người.

VD3 : Ngoài ra còn phải kể đến các hành động, lời nói, suy nghĩ của nhân vật ông Hai trong mối quan hệ với các nhân vật khác như : Bà Hai, các con, mụ chủ nhà….

+ Các hình thức trần thuật (đối thoại, độc thoại….)

3/ Kết bài

– Sức hấp dẫn của hình tượng nhân vật ông Hai.

– Thành công của nhà văn khi xây dựng nhân vật ông Hai.

Ví dụ: Qua truyện ngắn “Làng”, tác giả đã khắc hoạ thành công hình tượng một người nông dân yêu làng, yêu nước hồn nhiên chất phác nhưng xúc động. Hình tượng nhân vật ông Hai vừa phản ánh chân thực những nếp cảm, nếp nghĩ của người nông dân Việt Nam trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, vừa có ý nghĩa giáo dục sâu sắc đối với nhiều thế hệ bạn đọc. Qua truyện ngắn này, ta có thể hiểu được một cách sâu sắc thêm về hình ảnh những người dân kháng chiến Việt Nam với tình yêu quê hương đất nước.

————————————————————————–

ĐỀ SỐ 82

Với truyện ngắn « Làng », Kim Lân muốn nói với chúng ta : Cách mạng và kháng chiến chẳng những không làm mất đi tình yêu làng quê truyền thống mà còn đưa đến cho tình cảm ấy những biểu hiện hoàn toàn mới mẻ.

Hãy làm rõ nhận định trên qua việc phát triển  niềm hãnh diện của ông Hai về làng chợ Dầu và nỗi đau buồn tủi hổ khi ông lầm tưởng làng ông theo giặc.

GỢI Ý LÀM BÀI

Yêu cầu về kĩ năng:

– Có kĩ năng nghị luận về một vấn đề văn học, có lí lẽ thuyết phục.

– Bố cục hợp lí, rõ ràng, diễn đạt lưu loát, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.

– Văn viết trong sáng, có cảm xúc.

Yêu cầu về nội dung:

1/ Mở bài :

– Giới thiệu ngắn gọn về tác giả và tác phẩm

– Trích dẫn ý kiến

2/ Thân bài

2.1.Tình yêu, niềm hãnh diện của ông Hai với làng chợ Dầu, một tình cảm truyền thống của người  nông dân VN.

– Ông luôn khoe làng, nhớ về làng, nhớ anh em xẻ đắp ụ, hào…. nhớ khóa bình dân học vụ ở làng….

=> Làng chợ Dầu luôn là ruột thịt, gắn bó, là nỗi nhớ của ông.

2.2.Biểu hiện mới mẻ.

– Tình yêu làng gắn bó máu thịt với cuộc kháng chiến ở làng chợ Dầu.

– Tất cả buồn vui của ông đều gắn với làng, với cách mạng. Những lời tuyên truyền của ông đều liên quan đến làng quê, đến kháng chiến, đến cách mạng.

+ Vừa nghe tin -> quay phắt lại, lắp bắp – ý nghĩ làng quê luôn thường trực, ám ảnh -> nói nhanh trong tâm trạng lo lắng.

+ Cổ nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân -> cảm giác bàng hoàng, sững sờ khi nghe tin dữ, tủi hổ đến tê dại.

+ Tin đột ngột + nỗi đau xót khiến ông Hai lặng người đi tưởng như không thở được.

=> Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể nỗi đau đớn xót xa của ông khi lầm tưởng làng ông theo tây. Càng yêu làng bao nhiêu, ông Hai càng tủi hổ bấy nhiêu trước cái tin dữ ấy.

–  ông đứng lảng ra chỗ khác, không dám nhận mình là người làng chợ Dầu. Cảm giác tủi hổ đeo bám -> ông cúi gằm mặt xuống mà đi.

– Ông lão đau khổ, nước mắt cứ giàn ra, không biết trút nỗi đua khổ vào đâu, ông đau đớn rít lên :…

– Suy nghĩ , tâm trạng chủ yếu của ông được thể hiện qua hành động, câu nói, cử chỉ – những yếu tố miêu tả bên ngoài. Có độc thoại nội tâm nhưng rất ít-> phù hợp với ông Hai,một nông dân chất phác, giản dị -> thể hiện tình cảm rất mộc mạc, giản dị, rất nông dân.

– Tin làng theo giặc cứ ám ảnh ông -> ông không dám đi đâu

–  Không có ai để thổ lộ tâm sự _ trò chuyện với đứa con để vơi bót nỗi khổ tâm, dằn vặt trong lòng ông. ông nói như để ngỏ lòng mình, như để minh oan cho lòng mình nữa, cho vơi bớt nỗi nhớ thương.

– Lời của trẻ nhỏ hay chính là tấm lòng của ông với cách mạng, với kháng chiến -> cảm động, nước mắt giàn ra, nói với con hay chính là tự nhủ lòng mình.

=> Khẳng định tình cảm sắt son của ông, của người dân làng chợ Dầu với cách mạng. ông muốn minh oan cho mình hay cho làng quê, nơi chôn rau cắt rốn của ông.

=> Kim Lân đã thể hiện hết sức mộc mạc, chân quê nhưng sâu sắc tình yêu làng quê, yêu kháng chiến, cách mạng của người nông dân.

3/ Kết bài: Khẳng định vấn đề nghị luận.

—————————————————————————

ĐỀ SỐ 83

Trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa (Nguyễn Thành Long), nhân vật người hoạ sĩ nghĩ rằng: “Ông biết rất rõ sự bất lực của nghệ thuật (…) trong cuộc hành trình vĩ đại là cuộc đời”.

Em có đồng ý với suy nghĩ trên không? Bằng những hiểu biết về mối quan hệ giữa nghệ thuật (nói chung) và văn học (nói riêng) với hiện thực cuộc sống, em hãy viết bài văn đối thoại với nhân vật người hoạ sĩ.

GỢI Ý LÀM BÀI

I/ Yêu cầu về kĩ năng

– Nắm vững phương pháp làm bài nghị luận văn học.

– Bố cục và hệ thống ý sáng rõ.

– Biết vận dụng phối hợp nhiều thao tác nghị luận. Đặc biệt nắm vững thao tác phân tích, chứng minh để làm sáng rõ vấn đề.

– Văn trôi chảy, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục. Không mắc lỗi diễn đạt; không sai lỗi chính tả, dùng từ; trình bày bài rõ ràng.

II/ Yêu cầu về nội dung

Học sinh có thể đưa ra ý kiến đồng tình, phản bác hoặc đồng tình một phần và có bổ sung các quan điểm, suy nghĩ khác. Dưới đây là một hướng làm bài:

1/ Mở bài: Gioi thiệu vấn đề.

2/ Thân bài:

2.1. Giải thích: Từ suy nghĩ của nhân vật người hoạ sĩ, học sinh có thể rút ra một trong hai nội dung sau:

+ Cuộc đời đa chiều, đa diện, vô cùng phong phú, phức tạp (cuộc hành trình vĩ đại), vì thế nghệ thuật không dễ gì phản ánh được tất cả mọi phương diện, khía cạnh của cuộc đời (sự bất lực của nghệ thuật).

(+ Nghệ thuật cũng có nhiều hạn chế trong việc tác động đến con người và cuộc sống.)

2.2. Bày tỏ suy nghĩ của bản thân:

+ Ý kiến của người hoạ sĩ khi nói về giới hạn của nghệ thuật là đúng. Là một hình thái ý thức xã hội, một sản phẩm thẩm mĩ độc đáo nảy sinh trong quá trình sáng tạo theo quy luật cái đẹp, nhiệm vụ của nghệ thuật nói chung và văn học nói riêng là phản ánh đời sống. Tuy nhiên, thực chất của việc phản ánh hiện thực là phản ánh cách nghĩ của nhà văn về hiện thực. Mặt khác, cuộc sống luôn biến đổi không ngừng, “sự thật hôm nay không thật đến ngày mai” (Xuân Diệu), mọi biểu hiện của cuộc sống là vô cùng đa dạng, khó có thể nắm bắt. Do đó chẳng dễ gì để nghệ thuật thể hiện hết mọi góc, mọi mảng, mọi màu, mọi vẻ của đời sống.

(+ Cũng vậy, do phụ thuộc vào người đọc, nghệ thuật rất khó tác động đến đời sống.)

+ Tuy nhiên với tài năng sáng tạo nghệ thuật và tâm huyết đối với cuộc đời, các nghệ sĩ vẫn không ngừng lao tâm khổ tứ để sáng tạo nên những tác phẩm vừa miêu tả sâu sắc hiện thực vừa thể hiện rõ nét tư tưỏng, tình cảm của người sáng tác. cần thấy rằng nghệ thuật tuy không tái hiện được tất cả những thứ hiện diện trong đời sống nhưng nghệ thuật vẫn khắc hoạ được bản chất của cuộc đời với những nét cốt lõi, đáng chú ý nhất.

(+ Cũng thế, qua con đường tác động đến tình cảm con người, qua bạn đọc tích cực, nghệ thuật cũng có những tác động một cách hiệu quả đến cuộc sống.)

Phân tích một số tác phẩm nghệ thuật (nói chung) và văn học (nói riêng) để đối thoại với nhân vật người hoạ sĩ về mối quan hệ giữa nghệ thuật với hiện thực cuộc sống. Cần thấy được nghệ thuật (nói chung) và văn học (nói riêng) đã giúp ta thấy được hiện thực xã hội lẫn hiện thực tâm trạng của con người. Ví dụ: Truyện Kiều cho thấy sự thối nát của xã hội phong kiến, bên cạnh đó là bi kịch và vẻ đẹp tâm hồn của nàng Kiều, Lặng lẽ Sa Pa vẽ ra không khí hăng say xây dựng đất nước và những tình cảm đẹp của con người với quê hương, với người xung quanh,…

2.3. Đánh giá, nhận xét:

+ Nhận định của nhân vật người hoạ sĩ cho thấy ý thức về những giới hạn của nghệ thuật trong việc phản ánh cuộc đời. Thế nên, mỗi nghệ sĩ phải không ngừng cố gắng rèn ngòi bút, luyện tài năng để rút ngắn những giới hạn ấy.

+ Nghệ thuật phản ánh cuộc sống chứ không phải chạy theo cuộc sống. Người nghệ sĩ nên chú ý đến chiều sâu của hiện thực được phản ánh hơn là bề rộng của hiện thực được phản ánh.

3/ Kết bài: Khẳng định vấn đề nghị luận.

——————————————————————————-

ĐỀ SỐ 84

Đọc truyện Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long, tuổi trẻ chúng ta cảm nhận được bao điều bổ ích, thú vị: cuộc đời thật đẹp và đáng yêu; chung quanh ta có biết bao con người đẹp, tâm  hồn họ, việc làm của họ làm ta cảm phục, kính yêu.

Em có suy nghĩ gì về ý kiến trên? Liên hệ với thực tế cuộc sống hiện nay.

GỢI Ý LÀM BÀI

I/ Yêu cầu về kĩ năng

– Nắm vững phương pháp làm bài nghị luận văn học.

– Bố cục và hệ thống ý sáng rõ.

– Biết vận dụng phối hợp nhiều thao tác nghị luận. Đặc biệt nắm vững thao tác phân tích, chứng minh để làm sáng rõ vấn đề.

– Văn trôi chảy, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục. Không mắc lỗi diễn đạt; không sai lỗi chính tả, dùng từ; trình bày bài rõ ràng.

II/ Yêu cầu về nội dung

1/ Mở bài:

Giới thiệu về Nguyễn Thành Long và truyện ngắn Lặng Lẽ Sa Pa.

– Bày tỏ sự tán đồng về ý kiến nêu ở đề bài.

2/ Thân bài:

– Những con người trong Lặng Lẽ Sa Pa là những con người đẹp, tâm hồn họ, việc làm của họ làm ta cảm phục, kính yêu.

+ Anh thanh niên có một hoàn cảnh sống và làm việc thật đặc biệt: một mình trên đỉnh Yên Sơn, cao 2600 mét, thách thức lớn nhất của anh đó là sự cô độc. anh yêu công việc, tự giác và có tinh thần trách nhiệm cao. Anh có những suy nghĩ sâu sắc về cuộc sống và công việc. anh tự tạo cho mình cuộc sống ngăn nắp, thú vị và chủ động. anh sống hồn nhiên, chân thực, cởi mở và khiêm tốn (dẫn chứng, phân tích)

+ Ông kĩ sư vườn rau lặng lẽ nghiên cứu cách tạo ra su hòa to hơn, ngọt hơn để phục vụ nhân dân. người cán bộ khoa học 11 năm ròng lập bản đồ sét…

+ Họ là những con người lao động bình dị, lặng lẽ, sống và cống hiến hết mình cho đất nước. nhờ có họ, chúng ta thấy cuộc đời đẹp hơn, đáng yêu hơn.

– Liên hệ với cuộc sống hiện nay: cuộc sống hiện nay thay đổi rất nhiều so với năm 1970. Thời buổi kinh tế thị trường, một bộ phận không nhỏ sống bon chen, giành giật, vun vén cá nhân…làm rạn nứt nhiều mối quan hệ tốt đẹp.

– Tuy nhiên, có rất nhiều người tốt, việc tốt đáng quý, đáng khâm phục (dẫn chứng)

3/ Kết bài:

– Rút ra bài học cho bản thân: xác định cách sống đúng đắn

– Có niềm vui, niềm tin vào cuộc đời.

——————————————————————-

ĐỀ SỐ 85

Có người nhận xét “Lặng lẽ Sa pa” là một bài thơ bằng văn xuôi ngợi ca vẻ đẹp trong sự  lặng lẽ tỏa hưong của thiên nhiên và con người.

Phân tích truyện ngắn “ Lặng lẽ sa pa” của Nguyễn Thành Long để làm rõ ý kiến trên

GỢI Ý LÀM BÀI

I/ Yêu cầu về kĩ năng

– Nắm vững phương pháp làm bài nghị luận văn học.

– Bố cục và hệ thống ý sáng rõ.

– Biết vận dụng phối hợp nhiều thao tác nghị luận. Đặc biệt nắm vững thao tác phân tích, chứng minh để làm sáng rõ vấn đề.

– Văn trôi chảy, lập luận chặt chẽ, dẫn chứng thuyết phục. Không mắc lỗi diễn đạt; không sai lỗi chính tả, dùng từ; trình bày bài rõ ràng.

II/ Yêu cầu về nội dung

1/ Mở bài: Giới thiệu được tác giả, tác phẩm và vấn đề sẽ phân tích .

2/ Thân bài:

2.1. Giải thích ngắn gọn nhận xét của đề. Bài thơ bằng văn xuôi, áng văn xuôi giàu chất thơ, ca ngợi vẻ đẹp lặng lẽ thơ mộng của thiên nhiên và con người.

2.2.Phân tích chất thơ của truyện.

  a/ Vẻ đẹp thiên nhiên SaPa

Hình ảnh mây rơi xuống đường, luồn cả vào gầm xe, khiến ta có cảm tưởng như đi trên mây.

Hình ảnh nắng chiều mạ bạc cả con đèo, đất trời như tỏa sáng.

b/ Vẻ đẹp của con người SaPa.

Nhân vật chính, anh thanh niên , và một số nhân vật phụ; ông họa sĩ, cô kĩ sư mới ra trường, ông kĩ sư chờ rét………..

Cái lặng lẽ của công việc ầm thầm ít ai biết đến trong một không gian vắng lặng.

Trong cái lặng lẽ của đất trời, công việc là những con người, những tâm hồn không lặng lẽ, vì họ đanglàm những công việc có ý nghĩa quan trọng đối với đất nước; là sự hăng say trong công việc, hiến mình cho công việc cho, đất nước, cho nhân dân.

Đó chính là vẻ đẹp tâm hồn bình dị, khiêm tốn và hồn nhiên của những con người ở SaPa.

  2.3.Đánh giá chung.

Khẳng định lại vấn đề và giá trị của tác phẩm “Lặng lẽ SaPa” là một áng thơ bằng văn xuôi ca ngợi vẻ dẹp của thiên nhiên và con người lao động, nhưng tri thức mới đang thầm lặng hiến dâng tất cả sức lực và tuổi trẻ cho nhân dân, cho đất nước

    3/ Kết bài: Khẳng định vấn đề nghị luận.


ĐỀ SỐ 38

 Có ý kiến cho rằng: “ Văn bản lặng  lẽ Sa Pa, hiện lên bên trong vẻ đẹp của núi rừng Sa Pa là những con người âm thầm lặng lẽ lao động sáng tạo dệt nên mùa xuân thắng lợi của đất nước”. Bằng sự hiểu biết về văn bản “ Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long( Ngữ văn 9- tập 1), hãy trình bày cảm nhận của em về ý kiến trên.

GỢI Ý LÀM BÀI

I.Yêu cầu về kĩ năng :

–  Học sinh biết vận dụng các kĩ năng làm bài nghị luận về một tác phẩm văn học.

– Bố cục bài văn rõ ràng, mạch lạc có đủ 3 phần mở bài – thân bài- kết bài. Luận điểm được trình bày rõ, đảm bảo tính liên kết.

– Lời văn diễn đạt trong sáng.

II . Yêu cầu về kiến thức :

1/ Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nêu được vấn đề nghị luận( ý kiến của đề bài)

2/ Thân bài

2.1. Giải thích ý kiến của đề bài:

-Lặng lẽ Sa Pa: Vẻ đẹp của núi rừng thơ mộng với nhiều hoa lá ,cây cỏ xanh tươi, đầy sức sống.

– Lặng lẽ Sa Pa: Hiện lên những con  người thầm lặng lao động sáng tạo cống hiến một phần công sức góp nên mùa xuân thắng lợi của đất nước

 2.2.Xác định được các luận điểm, vận dụng kiến thức kĩ năng để trình bày cảm nhận của mình.

  a.Hình ảnh Sa Pa với khung cảnh thơ mộng hiện ra qua nhiều chi tiết đặc sắc.

  b.Nhân vật anh thanh niên được miêu tả và bình luận qua các luận điểm:

–  Hai mươi bảy tuổi , vóc người nhỏ nhắn, nét mặt rạng rỡ, làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m, được xem là người cô độc nhất thế gian.

– Là người có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, luôn có sự sáng tạo và đem lại kết quả cao.

– Tính cách và tình cảm: Rất hiếu khách và từ tốn nhã nhặn với mọi người;khiêm tốn khi bác họa sĩ muốn vẽ mình; vô tư trong sáng trong việc thể hiện tình cảm với cô kĩ sư trẻ.

 c.Những nhân vật khác trong đoạn trích:

Bác họa sĩ, cô kĩ sư, bác kĩ sư trồng rau, anh nghiên cứu sét… những con người cần mẫn nhiệt tình , sáng tạo, đầy tinh thần trách nhiệm trong công việc .Tất cả đều đáng được ngưỡng mộ trân trọng

2.3.Tổng hợp đánh giá

– Cách kể chuyện tự nhiên linh hoạt, xây dựng tình huống hợp lí, xây dựng khái quát  tên nhân vật qua cách gọi nhưng mang ý nghĩa sâu sắc

3/ Kết bài:

– Khẳng định vẻ đẹp của người lao động và ý nghĩa của những công việc thầm lặng.

-Liên hệ.


ĐỀ SỐ 46

Nhận xét về truyện “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long, có ý kiến cho rằng: “Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của con người lao động bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ và hi sinh nhưng cũng thật trong sáng, đẹp đẽ. Từ hình ảnh những con người ấy gợi lên cho ta những suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống, của lao động tự giác, về con người và về nghệ thuật”.

Qua truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa”, em hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.

GỢI Ý LÀM BÀI

I/ Về kỹ năngHiểu đúng yêu cầu của đề bài. Biết cách làm bài văn nghị luận bố cục rõ ràng, kết cấu hợp lí. Diễn đạt tốt, không mắc các lỗi chính tả, dùng từ, ngữ pháp.

II/ Về nội dung:

Học sinh có thể sắp xếp trình bày theo nhiều cách khác nhau, có thể có những ý kiến riêng miễn sao phải phù hợp với yêu cầu của đề bài. Dù triển khai theo trình tự nào cũng cần đạt được những ý chính sau đây.

1/ Mở bài: Gioi thiệu tác giả, tác phẩm và nhận xét về truyện ngắn.

2/ Thân bài:

2.1/ Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của con người lao động bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ và  hi sinh nhưng cũng thật trong sáng, đẹp đẽ.

Qua các nhân vật với những công việc và lứa tuổi khác nhau, nhà văn muốn khái quát những phẩm chất cao đẹp của con người mới trong thời kì xây dựng Chủ nghĩa xã hội và chống Mĩ cứu nước. Họ có những suy nghĩ đúng đắn, lặng lẽ cống hiến cho tổ quốc, tâm hồn trong sáng và giàu lòng nhân ái.

a/ Vẻ đẹp cao cả chung của các nhân vật.

–  Ý thức trách nhiệm trước công việc : anh thanh niên, đồng chí cán bộ khoa học.

–  Sống có lý tưởng, sẵn sàng cống hiến : anh thanh niên, cô kỹ sư trẻ (cô kĩ sư trẻ mới ra trường lần đầu tiên xa Hà Nội, dũng cảm lên nhận công tác tại Lai Châu. Cô là lớp thanh niên thề ra trường đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì…)

– Nhận thức sâu sắc ý nghĩa công việc: anh thanh niên, ông kỹ sư vườn rau, người cán bộ nghiên cứu khoa học…

– Yêu thích, say mê công việc, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn, dám chấp nhận cuộc sống cô độc để làm việc, làm việc một cách kiên trì, tự giác bất chấp hoản cảnh : anh thanh niên, ông kỹ sư vườn rau, người cán bộ nghiên cứu khoa học.

b/ Vẻ đẹp trong cuộc sống bình thường.

Tiêu biểu là nhân vật anh thanh niên.

– Đó là con người sống, làm việc một mình trên đỉnh núi cao mà không cô đơn. Anh tổ chức sắp xếp cuộc sống của mình trên trạm khí tượng thật ngăn nắp, chủ động, giản dị (căn nhà nhỏ, giường cá nhân…). Anh sống lạc quan yêu đời- trồng hoa, nuôi gà, đọc sách.

– Đó là một người khiêm tốn: lặng lẽ hoàn thành công việc, không tự nhận thành tích về mình, luôn nhận thức được công việc của mình làm là những đóng góp nhỏ bé cho đất nước; ham mê học hỏi, phấn đấu bởi xung quanh anh có biết bao con người, bao tấm gương, bao điều đáng học ( những ông kĩ sư vườn rau, anh cán bộ nghiên cứu sét…)

– Một con người sống cởi mở, tốt bụng, luôn quan tâm đến mọi người một cách chân thành, chu đáo: việc đi tìm củ tam thất cho vợ bác lái xe, đón ông hoạ sĩ già và cô kỹ sư trẻ thân tình, nồng hậu; hồn nhiên, yêu cuộc sống: thèm người, thèm chuyện trò …

Khẳng định, khái quát: Tác phẩm thật sự là một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của người lao động bình thường mà cao cả. Họ chính là những thế hệ tiêu biểu cho lớp người mới, cho thanh niên Việt Nam thời chống Mĩ cứu nước. Tuy không trực tiếp chiến đấu, song họ đã góp phần không nhỏ để xây dựng cuộc sống mới và góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến của dân tộc. Họ nối tiếp nhau xứng đáng là chủ nhân của đất nước này.

( Học sinh có thể trình bày trên cơ sở phân tích từng nhân vật để làm nổi bật ý tưởng chung, tuy nhiên , cần tập trung vào nhân vật trung tâm là anh thanh niên)

2.2/ Tác phẩm gợi lên những suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống, của lao động tự giác về con người và về nghệ thuật.

– Cuộc sống của mỗi người chỉ thực sự ý nghĩa khi mọi việc làm , hành động của họ đều xuất phát từ tình yêu cuộc sống, yêu con người, yêu và tự hào về mảnh đất mình đang sống.

– Con người biết sống có lý tưởng, say mê với công việc, hiểu được ý nghĩa của công việc mình làm . Con người cần tự nhìn vào chính bản thân để sống tốt  đẹp hơn.

– Thông qua suy nghĩ của người hoạ sĩ : vẻ đẹp của con người và của cuộc sống chính là nguồn cảm hứng vô tận để người nghệ sĩ sáng tạo  những tác phẩm nghệ thuật có giá trị .

3/ Kết bài: Khẳng định vấn đề.


ĐỀ SỐ 93

Trong truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa, nhà văn Nguyễn Thành Long đã để cho ông hoạ sĩ nghĩ về anh thanh niên như sau:

Người con trai ấy đáng yêu thật, nhưng làm cho ông nhọc quá. Với những điều làm cho người ta suy nghĩ về anh. Và về những điều anh suy nghĩ trong cái vắng vẻ vòi vọi hai nghìn sáu trăm mét trên mặt biển, cuồn cuộn tuôn ra khi gặp người. Những điều suy nghĩ đúng đắn bao giờ cũng có những vang âm, khơi gợi bao điều suy nghĩ khác trong óc người khác, có sẵn mà chưa rõ hay chưa được đúng.

(Lặng lẽ Sa Pa – Nguyễn Thành Long)

Nêu rõ những điều anh suy nghĩ và những điều làm cho người ta suy nghĩ về anh trong truyện ngắn.

GỢI Ý LÀM BÀI

I/ Yêu cầu về kĩ năng trình bày :

Đảm bảo một văn bản nghị luận có bố cục rõ ràng, hợp lí, tổ chức sắp xếp

ý một cách lôgic, chặt chẽ, hành văn trôi chảy, mạch lạc, chữ viết rõ ràng, cẩn thận, không có quá 3 lỗi về chính tả, dùng từ, diễn đạt…

II/ Yêu cầu về kiến thức

Mở bài: Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm, đoạn trích

Nguyễn Thành Long (1925 – 1991) là cây bút chuyên về truyện ngắn và kí. Truyện của ông thường có khuynh hướng ca ngợi tình yêu Tổ quốc, nhân dân. Lặng lẽ Sa Pa được viết vào mùa hè 1970 trong chuyến đi Lào Cai, in trong tập Giữa trong xanh (1971). Với chất thơ nhẹ nhàng, trầm lắng, thiết tha, Lặng lẽ Sa Pa ca ngợi những con người sống giữa non xanh lặng lẽ nhưng vô cùng sôi nổi, hết lòng vì Tổ quốc thân yêu .

Thân bài:

2.1. Những điều anh suy nghĩ

-Anh suy nghĩ về hoàn cảnh làm việc, công việc mình làm: (Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được; công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi, cháu buồn đến chết mất). Anh đã vượt lên hoàn cảnh bằng những suy nghĩ rất đẹp, giản dị mà sâu sắc về công việc, về cuộc sống. Anh thấy được ý nghĩa cao quý trong công việc thầm lặng của mình.

-Anh thực sự cảm thấy hạnh phúc khi biết những việc mình làm đã góp một phần nhỏ giúp cho không quân bắn rơi máy bay Mĩ (từ hôm ấy cháu sống thật hạnh phúc). Điều này giúp anh hiểu được ý nghĩa lớn lao của cuộc cuộc sống.

-Anh suy nghĩ về những con người đang sống xung quanh anh: ông kĩ sư nông nghiệp cần mẫn ngày này qua ngày khác thụ phấn cho hàng vạn cây su hào với mong ước để củ su hào nhân dân toàn miền Bắc nước ta ăn được to hơn, ngọt hơn trước; anh cán bộ nghiên cứu sét mười một năm không một ngày xa cơ quan để quyết tâm hoàn thành cho được bản đồ sét. Đó là những con người làm cho anh thanh niên thấy cuộc đời đẹp quá. Và anh mơ ước được làm việc trên trạm đỉnh Phan xi phăng, nơi lí tưởng để làm công việc khí tượng.

-> Qua những suy nghĩ của anh thanh niên, nhà văn đã ca ngợi và khẳng

định vẻ đẹp của con người lao động, của lí tưởng sống dựng xây Tổ quốc.

2.2. Những điều làm cho người ta suy nghĩ về anh.

Với ông hoạ sĩ già: anh đã làm cho ông xúc động mạnh, khiến ông đi hết ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác và làm cho trái tim mệt mỏi của ông

trở nên khao khát, yêu thêm cuộc sống. Ông quyết định quay trở lại nơi này

để hoàn thành bức vẽ chân dung anh.

Với cô kĩ sư trẻ: Anh đã làm cho cô cảm động và bị cuốn hút ngay từ giây

phút đầu tiên gặp, làm cho cô hiểu thêm cuộc sống một mình dũng cảm

tuyệt đẹp của anh, hiểu thêm cái thế giới những con người như anh. Anh đã

giúp cô nhìn nhận lại bản thân mình, giúp cô yên tâm hơn về quyết định của

mình, và trên tất cả là những háo hức và mơ mộng mà anh đã trao cho cô.

Cô gái chia tay anh bằng một ấn tượng hàm ơn khó tả.

-> Qua những suy nghĩ của các nhân vật ông hoạ sĩ, cô kĩ sư, nhà văn nhấn mạnh ý nghĩa lớn lao của những công việc thầm lặng. Đó là những suy nghĩ đẹp, cách sống đẹp.

2.3. Mở rộng, nâng cao

Những điều anh suy nghĩ những điều làm cho người ta suy nghĩ về anh

chính là những suy tư trăn trở của nhà văn trước cuộc đời. Ý nghĩa ấy đượcgửi gắm qua hình thức một câu chuyện nhẹ nhàng, giầu chất thơ.

 Từ những suy nghĩ ấy, rút ra cho bản thân những bài học về cách sống cao

đẹp.

3/ Kết bài: Khẳng định vấn đề.


ĐỀ SỐ 95

“Một trong những sứ mệnh của người nghệ sĩ là phát hiện cho được cái âm thanh kì diệu của cuộc sống vốn dĩ rất đỗi bình thường”

Ý kiến trên giúp gì cho em khi lắng nghe những vang âm từ “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long (SGK Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục, 2011), từ đó rút ra thiên chức của người nghệ sĩ trong sáng tác văn chương.

GỢI Ý LÀM BÀI

I/ Yêu cầu về kĩ năng:

– Viết đúng kiểu bài nghị luận văn học.

– Lý lẽ rõ ràng, dẫn chứng xác thực.

– Văn viết giàu cảm xúc, diễn đạt trôi chảy.

– Bố cục ba phần rõ ràng, cân đối.

– Trình bày sạch đẹp; ít sai lỗi câu, từ, chính tả.

II/ Yêu cầu về kiến thức: đảm bảo được các ý sau:

Mở bài: Giới thiệu chung

– Nguyễn Thành Long (1925 – 1991) là cây bút chuyên viết truyện và kí.

– Giới thiệu về tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác: Lặng lẽ Sa Pa được viết năm 1970 trong chuyến đi thực tế Lào Cai của nhà văn. Truyện ngắn đã khắc họa thành công vẻ đẹp cuộc sống và con người, với tài năng và tấm lòng của người viết đã để lại những rung động qua nhiều thế hệ bạn đọc.

– Trích dẫn ý kiến: “Một trong những sứ mệnh của người nghệ sĩ là phát hiện cho được cái âm thanh kì diệu của cuộc sống vốn dĩ rất đỗi bình thường”

Thân bài:

2.1.  Giải thích và chứng minh vấn đề

Giải thích ý kiến:

– Sứ mệnh của người nghệ sĩ: trách nhiệm và nghĩa vụ cao cả của người sáng tạo nghệ thuật, trong  đó có nhà văn.

– Âm thanh kì diệu: những điều sâu lắng, tốt đẹp, khác lạ trong cuộc sống, trong mỗi con người mà chỉ những người nghệ sĩ có những năng lực đặc biệt mới có thể nghe thấy được.

=> Ý kiến trên là hoàn toàn đúng đắn vì nó bàn đến bản chất của sáng tạo nghệ thuật và thiên chức người cầm bút là phát hiện những điều kì diệu từ cuộc đời ở ngay cái chỗ mà không ai ngờ đến nhất.

Chứng minh vấn đề

* Vang âm từ những con người nơi “Lặng lẽ Sa Pa”:

– Vang âm ở đây là những âm thanh ngân vang kì diệu trong lòng, những suy nghĩ đúng đắn, được khơi gợi từ những điều tốt đẹp của cuộc sống con người. Nguyễn Thành Long đã trăn trở, lắng nghe và gửi gắm vào thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn của mình. Cái hay chính là tác giả đã lắng nghe được cái vang âm kì diệu đó từ trong chốn lặng lẽ, rất đỗi bình thường.

–  Đi tìm những vang âm trong Lặng lẽ Sa Pa cũng chính là tìm chất thơ của văn xuôi, vẻ đẹp độc đáo, sức quyến rũ đặc biệt của truyện ngắn này.

– Trước hết đó là vang âm dịu êm của tình người. Đó là tình huống gặp gỡ bất ngờ thú vị và đầy xúc động bởi mối duyên kì ngộ của những tấm lòng nhân ái.

+ Tình cảm yêu mến trân trọng mà bác lái xe dành cho anh thanh niên – nhân vật chính của câu chuyện: “Tôi sắp giới thiệu với bác một trong những người cô độc nhất thế gian. Thế nào bác cũng thích vẽ hắn.”

+ Tình yêu thương, quan tâm của anh thanh niên dành cho bác lái xe, cho người họa sĩ và cô kỹ sư nông nghiêp vừa quen biết,…

+ Tình cảm mến phục, trân trọng, tự hào của người họa sĩ đối với anh thanh niên, đem đến khoảnh khắc thăng hoa sáng tạo cho nhà nghệ sĩ: “người con trai ấy đáng yêu thật nhưng làm cho ông nhọc quá”.

+ Tình cảm trong sáng của cô kỹ sư nông nghiệp dành cho anh thanh niên: vừa nể phục vừa yêu mến, dẫn đến một quyết tâm lựa chọn con đường tương lai háo hức.

=> Cuộc gặp giữa các nhân vật nơi Sa Pa lặng lẽ mà ấm áp tình người. Dư âm ấm lòng này còn theo ta mãi.

–  Vang âm của khát vọng sống:

+ Điểm nhấn của “âm thanh kì diệu” nơi lặng thầm này chính là vẻ đẹp lí tưởng của anh thanh niên với khát khao mãnh liệt được cống hiến.

Là người có suy nghĩ đúng  đắn về công việc, cuộc đời và hạnh phúc. Là người chân thành, cởi mở, quý trọng mọi người. Là người có trách nhiệm trong công việc. Là người có nếp sống đẹp: ngăn nắp, có những thú vui lành mạnh để cân bằng đời sống tinh thần: đọc sách, trồng hoa,…

+ Bên cạnh đó là cái khát vọng lớn lao của ông họa sĩ già đến cuối cuộc đời vẫn mong muốn đi tìm cái đẹp thật sự cho nghệ thuật. Ông đã chớp được mẫu hình cái đẹp chính là anh thanh niên. Có thể đây sẽ là bức tranh đắt nhất trong đời nghệ sĩ của ông.

+ Đó còn là vẻ đẹp tâm hồn của cô kỹ sư nông nghiệp trẻ dám vượt qua chính mình để đi tìm một lẽ sống mới. Nỗi buồn và sự hoang mang do dự đã qua nhanh khi cô hòa vào giai điệu sống của anh thành niên và hiểu rằng sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình.

* Vang âm từ thiên nhiên đẹp đẽ.

Ngay từ khi bác lái xe giới thiệu đã vào đất Sa Pa, vang âm của sự sống đã hiện lên ngân nga nhẹ nhàng qua cảnh thiên nhiên thơ mộng. Cảnh Sa Pa hiện dần, mỗi lúc một đẹp đẽ, mơ màng. Đó là một bức họa lung linh kỳ ảo: “Nắng bây giờ bắt đầu len tới, đốt cháy rừng cây. Những cây thông chỉ cao quá đầu, rung tít trong nắng những ngón tay bằng bạc dưới cái nhìn bao che của những cây tử kinh thỉnh thoảng nhô cái đầu màu hoa cà lên trên màu xanh của rừng. Mây bị nắng xua, cuộn tròn lại từng cục, lăn trên các vòm lá ướt sương…”. Đó chính là cái dư ngân xôn xao của tâm hồn con người khi trải lòng với cảnh trí tự nhiên nơi Sa Pa. Sự sống đẹp và đáng sống, đáng yêu quá.

* Những nét nghệ thuật đặc sắc:

+ Mỗi câu, mỗi chữ trong tác phẩm có hình khối, đường nét, màu sắc … đậm chất hội họa. (Đoạn đầu của văn bản hay hình ảnh cuối cùng: “Ông xách cái làn, cô ôm bó hoa. Lúc bấy giờ nắng đã mạ bạc cả con đèo, đốt cháy rừng cây hừng hực như một bó đuốc lớn. Nắng chiếu làm cho bó hoa thêm rực rỡ”)

+ Ngôn ngữ văn xuôi giàu nhịp điệu, âm thanh êm ái mang âm hưởng của một bài thơ. Truyện có sự kết hợp tự nhiên giữa tự sự, trữ tình và bình luận.

2.2. Rút ra thiên chức của người nghệ sĩ trong sáng tác văn chương.

+ Ý kiến này bàn về thiên chức của nhà văn là đi tìm tiếng vọng của cuộc sống, nghe trong đó những giai âm rung ngân về tình yêu cuộc sống. Đó cũng là mối quan hệ đặc biệt giữa nhà văn đối với cuộc sống. Từ hiện thực tưởng như không có gì, vậy mà nghe được những điều kì diệu để người đọc đồng cảm, lắng lòng, được cảm hóa và say mê. Đó chính là phát hiện, sáng tạo xuất phát từ tấm lòng của nhà văn.

+ Ý kiến này vừa gợi ý cho người sáng tác trẻ cần có tấm lòng đam mê, vừa là cánh cửa mở cho bạn đọc đi vào thế giới nghệ thuật.

Kết bài:

– Giá trị tác phẩm: Những vang âm trong Lặng lẽ Sa Pa ngân lên từ vẻ đẹp hình ảnh những người lao động bình thường với những công việc thầm lặng mà họ đang đóng góp cho Tổ quốc.
– Khẳng định vị trí nhà văn: Những ngân vang ấy xuất phát từ những khám phá riêng, từ tình yêu cuộc sống, từ một cây bút tài hoa và giọng văn chân thành giàu sức gợi cảm của Nguyễn Thành Long. Chính những dư vang từ vùng đất lặng lẽ ấy đã khơi gợi trong lòng người đọc tình yêu con người, tình yêu một miền quê, tình yêu Tổ quốc.

—————————————————————–

ĐỀ SỐ 96

“Vượt qua bi kịch của chiến tranh, Nguyễn Quang Sáng đã cất cao bài ca thiêng liêng về tình phụ tử”.  Hãy chứng minh qua tác phẩm Chiếc lược ngà.

GỢI Ý LÀM BÀI

I/ Yêu cầu về kĩ năng:

– Viết đúng kiểu bài nghị luận văn học.

– Lý lẽ rõ ràng, dẫn chứng xác thực.

– Văn viết giàu cảm xúc, diễn đạt trôi chảy.

– Bố cục ba phần rõ ràng, cân đối.

– Trình bày sạch đẹp; ít sai lỗi câu, từ, chính tả.

II/ Yêu cầu về kiến thức: đảm bảo được các ý sau:

1/ Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, trích dẫn ý kiến.

Chiến tranh đã đi qua nhưng những dư âm của nó vẫn đọng lại mãi trong tâm hồn của mỗi người dân Việt Nam. Điều kì diệu là, khi viết về đề tài chiến tranh, người con yêu nước của Nam Bộ – Nguyễn Quang Sáng đã gạt vơi những dòng nước mắt đau thwong để sưới ấm tâm hồn người đọc bằng tình cảm phụ tử thiêng liêng, cao cả. Phải chăng chính vì thế mà khi nhận xét về truyện ngắn “Chiếc lược ngà”, có ý kiến cho rằng: “Vượt qua bi kịch của chiến tranh, Nguyễn Quang Sáng đã cất cao bài ca thiêng liêng về tình phụ tử”

2/ Thân bài 

2.1. Giải thích ý kiến:

– Nói đến bi kịch chiến tranh là nói đến những mất mát đau thương mà đồng bào ta phải gánh chịu trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Ngoài những tổn thất nặng nề về kinh tế, về của cải vật chết, chiến tranh còn để lại trong lòng mỗi người dân những vết thương không bao giờ hàn gắn nổi. Đó là những nỗi đau về thể xác, những ám ảnh về tinh thần

-Thế nhưng bằng sự trải nghiệm của cuộc đời người lính, nhà văn Nguyễn Quang Sáng đã gạt vơi những dòng nước mắt đau thương, khép lại những màn kịch đen tối của chiến tranh, đưa người đọc về với mái ấm của tình cảm gia đình qua tình phụ tử thiêng liêng cao cả. Điều kì diệu là bài ca về tình phụ tử ấy đã được Nguyễn Quang Sáng (NQS) cất cao ngay trong hoàn cảnh éo le của chiến tranh. Phải chăng điều đó thay cho một lời khẳng định đanh thép rằng: “Chiến tranh có thể phá hủy mọi thứ trên trái đất này nhưng có một sợi chỉ đỏ xuyên suốt tâm hồn con người Việt Nam mà bom đạn kẻ thù không bao giờ tàn phá nổi, ấy là tình cảm gia đình và tình yêu quê hương đất nước”

 2.2.  Chứng minh nhận định

 Vượt qua bi kịch của chiến tranh:

– Trở về với không khí của những năm cuối thập kỉ 60 của thế kỉ XX, lúc tác phẩm “Chiếc lược ngà” (CLN) ra đời, ta sẽ được cảm nhận một không khí khét nồng bom đạn của chiến tranh. Biết bao mất mát đau thương mà người dân Nam Bộ phải hứng chịu trong cuộc kháng chiến chống Mĩ. Trước hết là sự xa cách chia lìa trong mái ấm gia đình. Gia đình ông Sáu nói riêng và gia đình các đồng bào Nam Bộ nói chung phải chấp nhận cảnh biệt li đằng đẵng suốt hàng chục năm trời, bao “trụ cột” của gia đình đều phải xa nhà đi kháng chiến, để lại nỗi nhớ nhung sầu muộn cho những người ở lại quê hương.

– Bên cạnh sự chia lìa xa cách, chiến tranh còn gây ra bao nỗi đau cho con người. Ông Sáu đã từng chịu đựng nỗi đau đớn vô cùng về thể xác, khi bọm đạn đế quốc Mĩ đã cướp đi một phần trên cơ thể của ông, khiến khuôn mặt ông trở nên dị dạng. Giờ đây khi gặp lại bé Thu, ông lại chịu sự đau đớn về mặt tinh thần, vì “vết thẹo” dài trên má mà bé Thu kiên quyết không chịu nhận ông là ba.

– Nhắc đến chiến tranh, con người ta lại liên tưởng đến những cuộc chia li mãi mãi không hẹn ngày tái ngộ. Nhân vật ông Sáu trong truyện là hiện thân cho nỗi ám ảnh này. Không chỉ chịu sự đau đớn về thể xác lẫn tinh thần, trong lần trở lại chiến trưởng thé hai, khi đã làm được chiếc lược một cách tỉ mỉ nhưng chưa kịp trao cho bé Thu thì ông đã hy sinh trong trận càn của địch. Bom đạn đế quốc Mĩ đã cướp đi của bé Thu một người bố đáng yêu, cướp đi của đồng bào Nam Bộ một người con ưu tú. Đây có thể noi là đỉnh cao của bi kịch chiến tranh khiến người đọc không thể không nghẹn ngào.

2.3. Đánh giá chung:

Thế nhưng tất cả những bi kịch chiến tranh đều dễ dàng lìa xa, dễ dàng đi vào quá khứ để nhượng lại cho một tình cảm có sức lan tỏa mãnh liệt – tình phụ tử thiêng liêng. Mục đích của NQS là trong khói lửa của chiến tranh, trong cảnh ngộ éo le như thế, tình phụ tử vẫn là điểm sáng, là sợi chỉ đỏ mà bom đạn của đế quốc không thể nào dập tắt nổi. Xưa nay, văn học cổ, kim , Đông, Tây từng có những trang văn bất hủ về tình mẫu tử. Đó là trang hồi kí tuổi thơ cay đắng của Nguyên Hồng, đó là sự ngọt ngào của tình mẹ trong tập thơ “trăng non” của Ta-go… Tình phụ tử hầu như còn vắng bóng trên thi đàn văn học nhân loại. Chỉ đến khi truyện ngắn CLN của NQS ra đời, người đọc mới ngỡ ngàng cảm nhận được sự thiêng liêng cao cả, sự diệu vợi bao là của tình cha con

3/ Kết bài:

Khẳng định lại vấn đề nghị luận.

Rút ra bài học liên hệ.


ĐỀ SỐ 99

Trong một lần tâm sự về nghề, nhà văn Bùi Hiển đã rất tâm huyết bày tỏ Khát vọng qua những trang viết:

Mỗi truyện ngắn phải là một sự phát triển bất ngờ về con người.

(Theo Nhà văn nói về tác phẩm, NXB Giáo dục 2004)

Giải thích ngắn gọn ý kiến trên và làm rõ “sự phát triển bất ngờ về con người” ở một truyện ngắn Việt Nam trong chương trình Ngữ văn THCS mà em yêu thích.

GỢI Ý LÀM BÀI

I/Yêu cầu về kĩ năng:

Thí sinh biết cách làm một bài nghị luận văn học.

Bài viết có kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, lí lẽ và dẫn chứng thuyết phục, viết có cảm xúc, biết vận dụng linh hoạt các thao tác nghị luận, không mắc các loại lỗi.

II/ Yêu cầu về kiến thức:

Thí sinh có thể có nhiều cách trình bày và lí giài khác nhau, song cần đảm bào các ý cơ bản sau:

1/ Mở bài:

Giới thiệu ý kiến.

Dẫn dắt vấn đề.

2/ Thân bài:

2.1/ Giải thích ý kiến:

– Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng nhận xét: “Văn học và cuộc sống là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Thật vậy, con người là trung tâm của văn học, là đối tượng chủ yếu mà các nhà văn, nhà thơ khao khát hướng đến. Và sứ mệnh cao cả của văn chương là phản ánh một cách sinh động và trung thực về con người.

– “Mỗi truyện ngắn phải là một sự phát hiện bất ngờ về con người”:

+ “Sự phát hiện bất ngờ về con người”: đó là sự phát hiện về vẻ đẹp trong tâm hồn, trong tính cách, những phẩm chất tiềm tàng, đáng quý trong con người họ. Những vẻ đẹp ấy thường bị số phận, hoàn cảnh, vẻ bề ngoài, hoặc hiểu lầm mà che khuất.

+ Muốn phát hiện được những điều bất ngờ về con người trong truyện ngắn, nhà văn cần phải có tấm lòng đồng cảm, thấu hiểu, sẻ chia, có cái nhìn yêu mến, trân trọng, cần phải quăng mình vào trong cuộc sống để nhìn thấu những số phận cuộc đời.

+ Vẻ đẹp con người cần phải được nhìn nhận ở “bề sâu, bề sau, bề xa”, bởi ống kính máy ảnh – dù hiện đại, tinh vi đến mấy cũng không thể “chụp” nổi chiều sâu số phận con người.

=> Ý kiến của nhà văn Bùi Hiển không chỉ là một quan điểm, mà trên hết nó là một sứ mệnh cao cả, một nhiệm vụ quan trọng của văn học hướng đến con người. Văn chương trước hết là câu chuyện của con người, với muôn mặt phức tạp phong phú, với tất cả chiều sâu của nó.

2.2/ Phân tích 1 truyện ngắn để làm sáng tỏ ý kiến:

HS chọn một truyện ngắn đã học trong chương trình Ngữ văn THCS mà mình yêu thích để phân tích và phải làm nổi bật được “sự phát triển bất ngờ về con người” trong tác phẩm đó. Dưới đây là 1 ví dụ về truyện “Lão Hạc”:

a/ Giới thiệu chung:

– Nam Cao là một cái tên không thể thiếu khi nhắc tới những nhà văn hiện thực nhân đạo. Tham gia vào dòng văn học 1930-1945 tuy là muộn so với các nhà văn khác nhưng bằng cách “khơi những nguồn chưa ai khơi” Nam Cao đã ghi vào lòng độc giả những ấn tượng riêng và có một vị trí đứng vững chắc.

– “Lão Hạc” là một trong những truyện ngắn xuất sắc của Nam Cao về đề tài người nông dân trước CMT8.1945. Truyện đem đến cho ta nhiều cái nhìn bất ngờ về con người.

b/ Phân tích:

Những khám phá riêng của nhà văn về con người được thể hiện rõ nét qua nhân vật lão Hạc.

* Lão Hạc điển hình cho cuộc sống nghèo khổ của người nông dân trước CMT8.1945:

– Cuộc sống cày thuê, cuốc mướn, vợ lão vì làm nhiều, lao lực mà chết.

– Lão nghèo không có tiền cưới vợ cho con khiến con lão phẫn chí bỏ đi đồn điền cao su.

– Lão bị ốm đồng thời làng mất nghề ve sợi nên không kiếm được việc làm, sống tạm bợ ăn củ chuối quả sung qua ngày, cuối cùng phải bán con chó vàng là người bạn duy nhất của lão.

– Bán chó xong, với những day dứt lương tâm cùng những tính toán của người lương thiện, lúc tuổi già lão đã tìm đến cái chết bằng liều bả chó. Cái chết của lão phản ánh sự cùng quẫn bế tắc của người nông dân trong xã hội đương thời, việc làm, cái đói, miếng ăn đè nặng lên vai người nông dân.

* Giữa đói khổ cùng cực, lão Hạc vẫn giữ được tấm lòng lương thiện, tự trọng và tình yêu thương con sâu sắc:

– Lão yêu con với nỗi niềm day dứt của người cha chưa làm tròn bổn phận, chưa lo cưới vợ được cho con nên trong các câu chuyện với ông giáo hay cậu Vàng lão đều nhắc tới con với nỗi nhớ nhung cùng những tính toán cho con khi nó trở về.

– Lão bòn vườn, bán chó, gửi tiền và vườn nhờ hàng xóm trông nom cho con rồi ra đi chứ quyết không tiêu của con lấy một hào. Sự hi sinh của lão âm thầm mà cao thượng.

– Lão tìm đến cái chết để khẳng định nhân cách cao thượng của mình bởi lão đã từ chối sự giúp đỡ của mọi người, lão sợ sống nữa sẽ không giữ mình mà đi theo gót Binh Tư chăng ?

– Cảnh lão âu yếm con chó vàng cùng những cách chăm sóc, tâm sự của lão với nó, cảnh lão khóc như con nít khi bán nó khiến người đọc cảm động và thương cảm ngậm ngùi cho số phận của lão.

c/ Nhân vật lão Hạc mang đến cho người đọc nhiều bất ngờ, khơi dậy ở chúng ta nhiều suy ngẫm:

– Giữa đói khổ cùng cực, lão Hạc chấp nhận cái chết, không đụng đến cái vườn của con trai, lão thà chết chứ không bán rẻ lương tâm và lòng tự trọng, không chấp nhận lối sống tha hóa như Binh Tư. Ngay cả khi chết, lão cũng tự chuẩn bị tiền mai táng, quyết không phiền đến xóm làng.

– Lão thà chết để giữ tiếng thơm cho con chứ không để nó mang nỗi nhục về một người cha tha hóa.

=> Vẻ đẹp tiêu biểu của người nông dân Việt Nam trước CMT8: “đói cho sạch, rách cho thơm”. Nam Cao đã gạn đục khơi trong, phát hiện trong những cuộc đời đen tối ấy thứ ánh sáng của lương tri, của tình thương làm người ta thấy tin yêu cuộc đời hơn.

– Cái chết của lão khiến ông giáo phải thốt lên đầy chua xót: “Cuộc đời chưa hẳn đáng buồn hay vẫn đáng buồn nhưng lại đáng buồn theo một nghĩa khác”. Đó cũng là những ngậm ngùi đọng lại, trở thành ám ảnh trong lòng những người đọc hôm nay.

=> Tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc.

2.3/ Đánh giá:

– Khẳng định lại vai trò, sứ mệnh của văn học, nghệ thuật: khám phá con người, nuôi dưỡng tâm hồn con người.

– Từ đó, đề cao vai trò sáng tạo, tìm tòi của các nhà văn.

3/ Kết bài:

Đánh giá lại ý kiến.

Nêu cảm nhận, suy nghĩ của bản thân.


ĐỀ SỐ 101

Một truyện ngắn hay là truyện mà ở đó nhà văn sáng tạo được những chi tiết độc đáo. Em hãy chọn và phân tích một chi tiết trong tác phẩm Chiếc lược ngà của nhà văn Nguyễn Quang Sáng (phần trích trong Ngữ văn 9, Tập một, NXB Giáo dục 2015) mà theo em là độc đáo và có nhiều ý nghĩa trong việc làm nổi bật chủ đề tác phẩm.

GỢI Ý LÀM BÀI

I/Yêu cầu về kĩ năng:

Thí sinh biết cách làm một bài nghị luận văn học.

Bài viết có kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, lí lẽ và dẫn chứng thuyết phục, viết có cảm xúc, biết vận dụng linh hoạt các thao tác nghị luận, không mắc các loại lỗi.

II/ Yêu cầu về kiến thức:

Thí sinh có thể có nhiều cách trình bày và lí giài khác nhau, song cần đảm bào các ý cơ bản sau:

(Học sinh có thể lựa chọn chi tiết “vết thẹo”)

1/ Mở bài:

–  Nguyễn Quang Sáng là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học cách mạng Việt Nam.

–  “Chiếc lược ngà” là tác phẩm gắn liền với tên tuổi của ông. Truyện viết về tình cảm gia đình, tình cảm cha con trong chiến tranh thật cảm động mà sâu sắc.

–  Giới thiệu chi tiết “vết thẹo” trên khuôn mặt của ông Sáu.

2/ Thân bài:

2.1. Vai trò của “chi tiết” trong truyện ngắn:

Chi tiết là một trong những yếu tố nhỏ nhất tạo nên tác phẩm. Để làm nên một chi tiết có giá trị đòi hỏi nhà văn phải có sự thăng hoa về cảm hứng và tài năng nghệ thuật.

– Vai trò: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn“, tức là chi tiết giàu giá trị biểu đạt, góp phần đắc lực trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm, quan niệm nghệ thuật của mình.

2.2. Phân tích chi tiết “vết thẹo“:

– Chi tiết “vết thẹo” xuất hiện 3 lần trong tác phẩm. Lần thứ nhất, phút đầu bé Thu gặp ba; lần thứ hai, qua cuộc trò chuyện với bà ngoại; lần thứ ba, Thu nhận ra ba, hôn cùng khắp, hôn cả vết thẹo.

– Chi tiết này góp phần tạo sự hoàn chỉnh, chặt chẽ cho cốt truyện. Vết thẹo trên mặt ông Sáu là chi tiết nghệ thuật đặc sắc, nối kết các tình tiết trong truyện, tạo nên nghệ thuật thắt nút, mở nút bất ngờ, hợp lý:

+ Chỉ vì “vết thẹo” mà bé Thu không nhận ra ba, đối xử với ba một cách lạnh lùng, cự tuyệt.

+ Khi được bà ngoại giải thích về “vết thẹo” trên gương mặt ba, mối nghi ngờ của bé Thu về ông Sáu đã được giải tỏa, khiến bé Thu nhận ra ba.

+ Khi nhận ra ba, tình cảm, thái độ của em đã thay đổi hoàn toàn. Thu nhận cha, yêu cha, yêu vết thẹo, không muốn chia tay cha.

=> Như vậy, chi tiết “vết thẹo” đã tạo nên kịch tính, tình huống truyện làm nên sức hấp dẫn, lôi cuốn của tác phẩm.

* Chi tiết nghệ thuật “vết thẹo” góp phần quan trọng làm rõ vẻ đẹp của các nhân vật:

– Ông Sáu yêu nước, dũng cảm,dám chấp nhận hi sinh.

– Bé Thu có cá tính mạnh mẽ, có tình yêu thương cha sâu sắc, mãnh liệt.

* Chi tiết “vết thẹo” còn thể hiện chủ đề, nội dung tư tưởng của tác phẩm:

– Vết thẹo là chứng tích của chiến tranh, chiến tranh đã gây ra nỗi đau về thể xác và tinh thần cho con người, đã chia cắt nhiều gia đình.

– Chứng tỏ chiến tranh có thể hủy diệt tất cả nhưng không thể hủy diệt được tình cảm con người: cụ thể là tình cha con, tình phụ tử thiêng liêng, sâu nặng.

2.3/ Nhận xét, đánh giá:

– Chi tiết “vết thẹo” trong tác phẩm không chỉ đặc sắc về nội dung, mà còn độc đáo về nghệ thuật.

– Chi tiết cũng góp phần làm cho tác phẩm của Nguyễn Quang Sáng sống mãi cùng thời gian.

 3/ Kết bài:

Đánh giá lại vấn đề.

Đánh giá sự thành công của tác phẩm.

ĐỀ SỐ 102

Có người cho rằng một truyện ngắn hay vừa là chứng tích của một thời, vừa là hiện thân cho chân lí giản dị của mọi thời. .

Em hiểu ý kiến trên như thế nào ? Qua truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng, hãy làm sáng tỏ điều đó.

GỢI Ý LÀM BÀI

I/Yêu cầu về kĩ năng:

Thí sinh biết cách làm một bài nghị luận văn học.

Bài viết có kết cấu chặt chẽ, diễn đạt lưu loát, lí lẽ và dẫn chứng thuyết phục, viết có cảm xúc, biết vận dụng linh hoạt các thao tác nghị luận, không mắc các loại lỗi.

II/ Yêu cầu về kiến thức:

Thí sinh có thể có nhiều cách trình bày và lí giài khác nhau, song cần đảm bào các ý cơ bản sau:

1/ Mở bài:

– Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

– Giới thiệu nhận định->Mối quan hệ giữa nhận định với Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng.   

2/ Thân bài:

2.1. Giải thích:

– Nhận định bày tỏ quan niệm, yêu cầu đối với một truyện ngắn hay: Truyện ngắn hay là truyện ngắn để lại những ấn tượng sâu đậm về giá trị nội dung, nghệ thuật và tạo được những suy nghĩ sâu sắc trong lòng bạn đọc.

Là chứng tích của một thời: phản ánh chân thực hiện thực thời đại, đặt ra những vấn đề quan trọng, bức thiết của cuộc sống, con người đương thời (bản chất hiện thực, số phận con người, nỗi trăn trở nhân sinh…).

+ Là hiện thân của một chân lí giản dị của mọi thời: tác phẩm đặt ra, chạm tới được những chân lí giản dị – những vấn đề bình dị nhưng đúng đắn, là cốt lõi, bản chất, mang tính quy luật phổ quát, lâu dài của nhân sinh muôn thuở.

– Như vậy nhận định khẳng định tiêu chuẩn một tác phẩm truyện ngắn hay là những tác phẩm hài hòa hai giá trị: vừa soi bóng thời đại, ghi dấu những vấn đề lớn, cốt lõi của thời đại – vừa có ý nghĩa lâu dài, chạm đến những chân lí bình thường, phổ quát, muôn đời..

2.2. Bình luận:

Đây là nhận định đúng đắn, sâu sắc, đặt ra yêu cầu tất yếu đối với một tác phẩm có giá trị và sức sống lâu dài.

– Đặc trưng về đối tượng phản ánh của văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng là khám phá, miêu tả, soi bóng thời đại mà nó ra đời: hiện thực cuộc sống, đời sống con người, đặt ra những vấn đề nhân sinh phong phú, phức tạp…

– Đặc trưng của truyện ngắn: thể loại tự sự cỡ nhỏ, dung lượng ngắn, thường chỉ kể về một tình huống đặc biệt của đời sống, với số lượng không nhiều các nhân vật, tình tiết, chi tiết, qua đó gửi gắm những thông điệp tư tưởng, tình cảm của tác giả.

– Truyện ngắn hay phải là những tác phẩm kết tinh hài hòa hai giá trị:

+ Là chứng tích của một thời: tác phẩm phải phản ánh được bức tranh sâu rộng về hiện thực thời đại, xây dựng được những chân dung nhân vật vừa chân thực vừa điển hình của thời đại, đặt ra được những vấn đề cốt lõi, quan trọng, bức thiết nhất đương thời. “Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời” (Tô Hoài)

+ Là hiện thân của một chân lí giản dị của mọi thời: khi tác phẩm chạm đến được chiều sâu của hiện thực, đặt ra được một hoặc nhiều vấn đề tuy giản dị, bình thường nhưng là bản chất, cốt lõi, có tính quy luật, là chân lí phổ quát muôn đời. Khi đó, tác phẩm là kết quả của sự gắn bó, trăn trở sâu sắc với thời đại và nhân sinh, thực sự có giá trị và sức sống lâu dài.

– Giá trị và sức sống ấy chỉ có được khi tác phẩm có chất lượng nghệ thuật cao: tuy dung lượng ngắn, tình huống độc đáo, nhân vật không nhiều, chi tiết cô đúc … nhưng có độ dồn nén, hàm súc, khả năng khái quát, điển hình.

2.3. Chứng minh qua tác phẩm “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng.

Thí sinh làm sáng tỏ nhận định qua các dẫn chứng diện và điểm, trong đó đi sâu phân tích cụ thể truyện ngắn được nêu ở đề bài.

Thí sinh có thể triển khai theo nhiều cách, song cần bám sát định hướng của đề.

2.4. Bàn bạc, mở rộng vấn đề:

Nhận định chủ yếu khẳng định giá trị, vẻ đẹp, sức sống của thể loại truyện ngắn ở phương diện ý nghĩa nội dung tư tưởng, song cũng cần nhắc tới những yêu cầu, phẩm chất về nghệ thuật của thể loại: dựng truyện, kể chuyện hấp dẫn; xây dựng nhân vật; lựa chọn sáng tạo chi tiết, giọng điệu, lời văn…

– Ý kiến được nêu cũng gợi nhắc những đòi hỏi, yêu cầu:

+ Đối với người sáng tác: phải gắn bó, hiểu biết sâu sắc, trăn trở và nói lên những vấn đề thiết cốt nhất của thời đại để tác phẩm của mình thực sự là chứng tích của một thời; đồng thời đào sâu vào những vấn đề bản chất, chân lí của nhân sinh để tác phẩm có ý nghĩa và sức sống lâu dài, vượt tầm thời đại.

+ Đối với người đọc: tiếp nhận, trân trọng giá trị của những tác phẩm hay giúp ta hiểu sâu rộng hơn về cuộc sống, con người một thời và thấy được ý nghĩa của tác phẩm với muôn đời, muôn người, trong đó có chúng ta và thời đại mình đang sống.

3/ Kết bài:

– Đánh giá lại vấn đề.

– Khẳng định sự thành công của tác phẩm.

—————————————————————-

————————————————————–

ĐỀ SỐ 104

Có ý kiến cho rằng: Tác phẩm văn học giúp cho tâm hồn con người trở nên phong phú hơn, tinh tế và sâu sắc hơn. Hãy chứng minh qua một số tác phẩm văn học mà em đã học.

GỢI Ý LÀM BÀI

1. Mở bài

– Giới thiệu ý kiến

– Dẫn dắt vấn đề

Thân bài

2.1. Giải thích ý kiến 

–  Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ: tác phầm không chỉ phản ánh cuộc sống thực tại khách quan (ghi lại cái đã có rồi) mà còn là nơi thể hiện những suy nghĩ chủ quan, hay nói cách khác là tâm tư tình cảm, là tư tưởng của người nghệ sĩ. Đây chính là một điều gì mới mẻ luôn xuất hiện trong sáng tác của họ.
– Tác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng phản ánh thực tại và là nơi nhà văn nhắn gửi, thể hiện thế giới tình cảm cũng như tư tưởng, quan điểm nhân sinh của mình. Đây cũng là đặc trưng của các tác phẩm văn chương, tạo nên sức cuốn hút, sự lay động tâm hồn, là Tiếng nói của văn nghệ.

2.2. Chứng minh

– Tác phẩm văn học là nơi nhà văn nhắn gửi, thể hiện tình cảm cũng như tư tưởng, quan điểm nhân sinh của mình (muốn nói một điều gì mới mẻ):

+“Truyện Kiều” của Nguyễn Du thể hiện rõ nét sự bất bình, căm ghét đối với xã hội phong kiến, thái độ xót thương vô hạn của nhà văn đối với những người phụ nữ;

+ “Lão Hạc”, Nam Cao nói lên niềm yêu mến, cảm phục đối với những người nông dân nghèo khổ mà giữ được phẩm chất tốt đẹp;

+ “Làng” của Kim Lân chẳng những thể hiện cái nhìn yêu mến, trân trọng mà còn nói lên được sự biến chuyển trong nhận thức và tình cảm của người nông dân trong bổi đầu chống Pháp;

+ “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu gửi gắm suy nghĩ, bài học nhân sinh về cuộc đời của mỗi con người.

Kết bài

– Đánh giá chung

– Suy nghĩ của bản thân

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.