Lập dàn ý cho bài văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm – SGK Ngữ văn 8, tập 1

lap-dan-y-cho-bai-van-tu-su-ket-hop-voi-mieu-ta-va-bieu-cam-sgk-ngu-van-8-tap-1

Lập dàn ý cho bài văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm

I – DÀN Ý CỦA BÀI VĂN TỰ SỰ

1. Tìm hiểu dàn ý của bài văn tự sự

Đọc bài văn sau rồi thực hiện các yêu cầu bên dưới.

MÓN QUÀ SINH NHẬT

Nhân kỉ niệm ngày sinh năm nay của tôi, bạn bè đến chơi vui vẻ quá. Suốt cả buổi sáng, nhà tôi tấp nập kẻ ra, người vào, tiếng cười nói ríu ra ríu rít không ngớt. Hai chiếc bình cắm đầy hoa. Hoa hồng bạch, hoa hồng nhung, hoa cẩm chướng, hoa mặt trời, lại có những bông hoa cỏ nhỏ xíu màu tím nhạt mà tôi rất thích nữa. Các bạn tôi ngồi chật cả nhà, bao nhiêu ghế mượn thêm của cô Ba nhà bên cũng vẫn không đủ, có chỗ hai bạn phải ngồi chung một ghế, chật chội nhưng mà vui. Nhiều bạn còn mang cả quà đến tặng tôi nữa. Tôi nhận được nhiều thứ quá: nào cặp tóc, nào sổ, nào khăn mùi soa,… bao nhiêu thứ bày la liệt trên bàn.

Vui thì vui thật, nhưng tôi vẫn cứ bồn chồn không yên. Không hiểu sao cái Trinh, đứa bạn thân nhất của tôi, giờ này vẫn chưa đến. Chẳng lẽ nó lại quên ngày vui của tôi? Không, con bé vốn chu đáo lắm kia mà! Bạn bè đã bắt đầu ra về lác đác, tôi cũng bồn chồn. Tôi không trách Trinh nữa mà bắt đầu lo. Hay là… Trinh đã gặp tai nạn gì giữa đường chăng?

Tôi đang đăm chiêu nghĩ ngợi, chợt cái Thanh reo lên:
– Kia rồi! Chị Trinh kia rồi!

Tôi quay phắt ra cửa, nhìn thấy Trinh đang tươi cười đi vào sân. Tôi chạy ào ra, xô đổ cả ghế. Thấy Trinh bình thường, tự nhiên tôi thấy tủi thân và giận Trinh. Tôi trách:
– Sao bây giờ mới đến? Tưởng quên người ta rồi? Ghét!

Trinh cười lỏn lẻn, đầu hơi nghiêng nghiêng trông thật hiền lành. Nhìn nét cười ấy không thể nào mà giận cho được. Tôi phát vào lưng trinh một phát rõ đau, rồi hỏi:
– Xe đâu không dắt vào, lại để ngoài cổng à?

Trinh vẫn cười không ra tiếng, lắc đầu hất lọn tóc nặng ra sau, nói nhỏ như người có lỗi:
– Xe sáng nay anh Toàn đi sớm.

– Thế đi bộ xuống đây à?

Trinh không trả lời, chỉ mỉm cười gật đầu.

Tôi giận mình quá, thế mà cứ trách Trinh mãi. Đi bộ thảo nào bây giờ mới đến. Nhà Trinh mãi bên Quãng Bá, xuống đây cũng phải đến năm, sáu cây số, chứ có gần gì.

Tôi kéo Trinh vào ngồi giữa bạn bè. Trinh mở chiếc lẵng mây nhỏ, thận trọng lấy ra mấy bông hồng vàng. Tất cả đều sửng sốt reo lên. Cái Thanh vội cầm chiếc cốc đi múc nước. Mấy bạn khác cũng xúm lại trầm trồ nhìn ngắm. Trinh lại khẽ nâng lên một cành ổi. Còn nguyên cả lá và lúc lỉu đến năm, sáu quả tròn to, láng bóng. Lại những tiếng xuýt xoa bàn tán. Trinh cười quay sang tôi:
– Trang còn nhớ chùm ổi này không? Không à? Quả của cây ổi găng góc ao đấy!

Tôi “à” lên một tiếng, mi mắt bỗng nong nóng và sống mũi cay xộc. Tôi nhớ ra rồi. Lâu lắm, từ mấy tháng trước, lúc ổi đang ra hoa, rôi có lên nhà Trinh chơi. Trinh dẫn tôi vào vườn, đến góc bờ ao, Trinh nói nhỏ, vẻ bí mật:
– Trang! Trang! Lại đây tớ cho xem cái này, hay lắm!

Trinh lom khom, luồn qua những cành ổi la đà gần sát mặt đất, rẽ lối cho tôi luồn theo. Đến góc ao, Trinh vít một cành ổi xa nhất, thích thú chỉ cho tôi xem một chùm hoa trắng muốt. Trinh thì thào:
– Cậu xem có thích không? Cả một chùm mọc sát nhau nhé! Cây ổi này là giống ổi găng ngon nhất vườn đấy. Quả to, cùi dày, ăn giòn và thơm chẳng kém gì lê. Tớ phát hiện ra chùm hoa này, tuyệt không? Một, hai, ba… sáu, bảy, tám,… phải hơn chục hoa là ít. Mà lại nở chụm vào một đầu cành mới thích chứ!

Thấy tôi chăm chú nhìn cành hoa ổi, Trinh nói tiếp:
– Tớ đang có một “âm mưu” này, Trang ạ. Rất thú vị nhé!

Tôi gặng hỏi mãi, Trinh cũng không chịu nói. Trinh bảo chưa muốn nói bây giờ vì muốn dành cho tôi một sự bất ngờ. Và bây giờ thì chùm ổi đã chín vàng trên hai bàn tay tôi. Nâng chùm ổi trên tay, giọng tôi run run:
– Cái “âm mưu” Trinh nói dạo ấy là chuyện này đây phải không?

Trinh vẫn lặng lẽ cười, chỉ gật đầu không nói.

Cảm ơn Trinh quá. Món quà sinh nhật Trinh mang đến cho mình mới quý giá làm sao! Nó không phải món quà mua vội vàng trên vỉa hè, trong cửa hiệu, chỉ cốt bỏ tiền ra là mua được, mà nó là cả một tấm lòng trân trọng của Trinh. Trinh đã ấp ủ, nâng niu, hằng nghĩ đến suốt bao ngày nay. Trinh đã săn sóc chùm ổi ấy, để mắt đến nó, từ khi nó chỉ mới là những chiếc nụ nhỏ xíu, rồi nở hoa, rồi kết quả. Trinh đã mong ngày, mong đêm, tìm mọi cách giữ chùm quả ấy lại nguyên vẹn để hôm nay có được chùm quả vàng tươi thơm mát này…

(Theo Trần Hoài Dương, Những ngôi sao trong mưa)

Yêu cầu:

a) Bài văn trên có thể chia làm ba phần: Mở bài, Thân bài, Kết bài. Hãy chỉ ra ba phần đó và nêu nội dung khái quát của mỗi phần.

b) Lần lượt tìm và chỉ ra các yếu tố sau:

– Truyện kể về việc gì? Ai là người kể chuyện (ở ngôi thứ mấy)?
– Câu chuyện xảy ra ở đâu? Vào lúc nào? Trong hoàn cảnh nào?
– Chuyện xảy ra với ai? Có những nhân vật nào? Ai là nhân vật chính? Tính cách của mỗi nhân vật ra sao?
– Câu chuyện diễn ra như thế nào? (Mở đầu nêu vấn đề gì? Đỉnh điểm câu chuyện ở đâu? Kết thúc ở chỗ nào? Điều gì đã tạo nên sự bất ngờ?)
– Các yếu tố miêu tả, biểu cảm được kết hợp và thể hiện ở những chỗ nào trong truyện? Nêu tác dụng của những yếu tố miêu tả và biểu cảm này.

c) Những nội dung trên (câu b) được tác giả kể theo thứ tự nào? (Tuần tự theo thời gian trước – sau hay có gì đảo ngược, từ hiện tại nhớ về quá khứ)

2. Dàn ý của một bài văn tự sự

a) Mở bài:

Thường giới thiệu sự việc, nhân vật và tình huống xảy ra câu chuyện. (cũng có khi nêu kết quả của sự việc, số phận nhân vật trước).

b) Thân bài:

Kể lại diễn biến câu chuyện theo một trình tự nhất định. (Trả lời các câu hỏi: câu chuyện đã diễn ra ở đâu? Khi nào? Với ai? Như thế nào?…)
Trong khi kể, người viết thường kết hợp miêu tả sự việc, con người và thể hiện tình cảm, thái độ của mình trước sự việc và con người được miêu tả.

c) Kết bài:
Thường nêu kết cục và cảm nghĩ của người trong cuộc (người kể chuyện hay một nhân vật nào đó).

* Ghi nhớ: Dàn ý của bài văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm chủ yếu vẫn là dàn ý của bài văn tự sự có bố cục ba phần (Mở bài, Thân bài và Kết bài). Tuy vậy, trong từng phần, cần đưa các nội dung miêu tả và biểu cảm để dàn ý được hoàn chỉnh hơn.

II – LUYỆN TẬP

1. Từ văn bản Cô bé bán diêm, hãy lập ra một dàn ý cơ bản theo gợi ý sau:

a) Mở bài

Giới thiệu ai? Trong hoàn cảnh nào?

b) Thân bài

Nêu các sự việc chính xảy ra với nhân vật theo trật tự thời gian (lúc đầu, sau đó, tiếp theo) và kết quả (Mấy lần quẹt diêm? Mỗi lần diễn ra thế nào và kết quả ra sao?). Trong khi nêu các sự việc chính, chỉ ra các yếu tố miêu tả và biểu cảm được sử dụng trong đó.

c) Kết bài

Kết cục số phận của nhân vật thế nào và cảm nghĩ của người kể ra sao?

2. Lập dàn ý cho đề bài: “Hãy kể về một kỉ niệm với người bạn tuổi thơ khiến em xúc động và nhớ mãi”.


* Soạn bài:

Lập dàn ý cho bài văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm

Câu 1: Phân tích bố cục của bài văn sau, khái quát nội dung của từng phần:

MÓN QUÀ SINH NHẬT

– Mở bài (từ đầu cho đến “bày la liệt trên bàn”): cảnh buổi lễ sinh nhật.

– Thân bài (từ “Vui thì vui thật” cho đến “chỉ gật đầu không nói”): món quà sinh nhật của Trinh tặng Trang.

– Kết bài (đoạn còn lại): cảm nghĩ của Trang về món quà sinh nhật.

Câu 2: Tìm hiểu câu chuyện theo gợi ý sau:

Truyện kể về “món quà sinh nhật” do “tôi” tên là Trang kể ở ngôi thứ nhất.

– Câu chuyện xảy ra ở nhà Trang vào buổi sáng, trong hoàn cảnh bạn bè họp mặt kỉ niệm sinh nhật của Trang.

– Chuyện xảy ra trong đám bạn bè, với ba nhân vật: Thanh, Trinh và Trang. Nhân vật chính là Trinh (Trinh tạo ra sự bất ngờ trong câu chuyện). Mỗi nhân vật mang một tính cách: Trang thì sôi nổi, vội vàng, còn Trinh thì vui vẻ, điềm tĩnh…

– Câu chuyện diễn ra rất thú vị, có sự vui vẻ, nhưng bồn chồn chờ đợi. Điểm đỉnh câu chuyện ở việc chờ đợi Trinh đến và kết thúc khi món quà mừng sinh nhật của Trinh được “trình diện”. Câu chuyện kết thúc khi Trang hiểu ý nghĩa món quà sinh nhật mà Trinh tặng cho và hết sức bất ngờ vì nó là dấu ấn một kỉ niệm đẹp của hai người trong vườn cây ổi.

– Các yếu tố miêu tả, biểu cảm đã đưa người ngọc vào một tâm trạng chờ đợi của Trang đối với Trinh để rồi sau đó thấy tấm lòng rất đáng quý của bạn. Yếu tố miêu tả và biểu cảm có tác dụng nâng ý nghĩa món quà sinh nhật lên thành một kỉ niệm, đầy ấn tượng. “Nó không phải là món quà mua vội vàng trên vỉa hè, trong cửa hiệu, chỉ cốt bỏ tiền ra là mua được, mà nó là cả một tấm lòng trân trọng của Trinh; Trinh đã ấp ủ, nâng niu, hằng nghĩ đến suốt bao ngày nay”.

Câu 3: Nhận xét về thứ tự kể của văn bản Món quà sinh nhật.

Câu chuyện về món quà sinh nhật được kể lồng vào câu chuyện sinh nhật như thế nào? Người kể chỉ kể chuyện hiện tại hay còn kể chuyện đã xảy ra trong quá khứ?

Câu 4: Dàn ý của một bài văn tự sự có kết hợp với miêu tả và biểu cảm.

Gợi ý: Bài văn tự sự bố cục thành ba phần.

Phần Mở bài có nhiệm vụ giới thiệu sự việc, nhân vật và tình huống xảy ra câu chuyện; có khi, kết cục của câu chuyện được kể ngay ở phần Mở bài, sau đó mới kể ngược lại diễn biến.

Phần Thân bài có nhiệm vụ kể lại diễn biến câu chuyện theo một trình tự nào đó, nội dung của phần này hướng tới trả lời những câu hỏi như:

– Chuyện xảy ra ở đâu?

– Vào thời điểm nào?

– Chuyện xảy ra với ai?

– Chuyện xảy ra như thế nào?…

– Yếu tố miêu tả được sử dụng kết hợp khi kể về người, vật, khung cảnh,… Yếu tố biểu cảm được sử dụng để bày tỏ tình cảm, thái độ của người kể đối với đối tượng được kể hoặc của nhân vật đối với nhân vật.

Phần Kết bài có nhiệm vụ nêu kết cục của câu chuyện và suy nghĩ, tâm trạng của người kể hoặc nhân vật.

II. Rèn luyện kĩ năng

Câu 1: Tóm tắt dàn ý của văn bản Cô bé bán diêm.

Gợi ý: Đọc lại văn bản và tóm tắt dàn ý theo bố cục ba phần. Đoạn lược dẫn ở phần đầu đoạn trích xem như phần Mở bài. Lưu ý tóm tắt diễn biến câu chuyện theo mỗi lần quẹt diêm của cô bé bán diêm.

Câu 2: Nhận xét về việc sử dụng kết hợp giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm trong văn bản Cô bé bán diêm.

Gợi ý: Miêu tả và biểu cảm có tác dụng như thế nào trong việc tạo ra sức truyền cảm của lời kể? Lòng thương cảm của tác giả được thể hiện như thế nào?

– Cảm nghĩ về người bà của cô bé bán diêm?

– Cảm giác rét buốt được gợi tả ra sao?

– Hình ảnh những que diêm và niềm mơ ước của cô bé?

– Sự đối lập giữa mơ ước và thực tại?

– Hình ảnh cô bé ở cuối đoạn trích?

Câu 3: Cho đề bài: “Một kỉ niệm xúc động và nhớ mãi với một người bạn lúc tuổi thơ”. Hãy lập dàn ý trong đó có chỉ rõ việc sử dụng yếu tố miêu tả và biểu cảm.

Gợi ý: Trước hết, phải tưởng tượng ra toàn bộ diễn biến của câu chuyện. Sau đó mới triển khai lập ý theo bố cục của bài văn. Có thể kể như câu chuyện đang diễn ra hoặc kể bắt đầu từ hiện tại mà nhớ về tuổi ấu thơ. Việc lựa chọn cách kể, trình tự kể sẽ quy định dàn ý.


* Bài ghi:

Lập dàn ý cho bài văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm

I – DÀN Ý CỦA BÀI VĂN TỰ SỰ

1. Tìm hiểu dàn ý của bài văn tự sự.

* Xét văn bản SGK.

a. Bố cục văn bản:

– Mở bài (từ đầu cho đến “bày la liệt trên bàn”): cảnh buổi lễ sinh nhật.

– Thân bài (từ “Vui thì vui thật” cho đến “chỉ gật đầu không nói”): món quà sinh nhật của Trinh tặng Trang.

– Kết bài (đoạn còn lại): cảm nghĩ của Trang về món quà sinh nhật.

b.

– Truyện kể về “món quà sinh nhật” do “tôi” tên là Trang kể ở ngôi thứ nhất.

– Câu chuyện xảy ra ở nhà Trang vào buổi sáng, trong hoàn cảnh bạn bè họp mặt kỉ niệm sinh nhật của Trang.

– Chuyện xảy ra trong đám bạn bè, với ba nhân vật: Thanh, Trinh và Trang. Nhân vật chính là Trinh (Trinh tạo ra sự bất ngờ trong câu chuyện). Mỗi nhân vật mang một tính cách: Trang thì sôi nổi, vội vàng, còn Trinh thì vui vẻ, điềm tĩnh…

– Câu chuyện diễn ra rất thú vị, có sự vui vẻ, nhưng bồn chồn chờ đợi.

– Các yếu tố miêu tả, biểu cảm đã đưa người ngọc vào một tâm trạng chờ đợi của Trang đối với Trinh để rồi sau đó thấy tấm lòng rất đáng quý của bạn.

c. Những nội dung của ý (b) được tác giả kể theo trình tự thời gian của buổi sinh nhật và sự hồi tưởng đưa trở ngược quá khứ.

2. Dàn ý của một bài văn tự sự

a) Mở bài:

Thường giới thiệu sự việc, nhân vật và tình huống xảy ra câu chuyện. (cũng có khi nêu kết quả của sự việc, số phận nhân vật trước).

b) Thân bài:

Kể lại diễn biến câu chuyện theo một trình tự nhất định. (Trả lời các câu hỏi: câu chuyện đã diễn ra ở đâu? Khi nào? Với ai? Như thế nào?…)

Trong khi kể, người viết thường kết hợp miêu tả sự việc, con người và thể hiện tình cảm, thái độ của mình trước sự việc và con người được miêu tả.

c) Kết bài:

Thường nêu kết cục và cảm nghĩ của người trong cuộc (người kể chuyện hay một nhân vật nào đó).

* Ghi nhớ: Dàn ý của bài văn tự sự kết hợp với miêu tả và biểu cảm chủ yếu vẫn là dàn ý của bài văn tự sự có bố cục ba phần (Mở bài, Thân bài và Kết bài). Tuy vậy, trong từng phần, cần đưa các nội dung miêu tả và biểu cảm để dàn ý được hoàn chỉnh hơn.

 

II – LUYỆN TẬP

Bài tập 1.

  • Mở bài:

Quang cảnh đêm giao thừa và gia cảnh cô bé bán diêm.

  • Thân bài: (Theo trình tự thời gian)

– Cảnh giá rét của đêm và cảnh ngộ đáng thương.

– 4 lần quẹt diêm:

+ Lần thứ nhất hiện ra một cái lò sưởi.

+ Lần thứ hai là bàn ăn thịnh soạn.

+ Lần thứ ba thấy một cây thông Nô-en.

+ Lần thứ tư được gặp người bà hiền hậu.

– Kết quả: mọi thứ hiện ra khi quẹt diêm đều là ảo ảnh.

– Các yếu tố miêu tả và biểu cảm được đan xen, mỗi lần quẹt diêm đều là ảo ảnh và cảm giác.

  • Kết bài:

Kết cục cô bé đã chết vì lạnh và đói, nhưng không ai biết về những điều kì diệu mà cô bé đã thấy.

III. Dặn dò:

– Đọc lại bài ghi và ghi nhớ.

– Lập dàn ý cho đề bài: “Hãy kể về một kỉ niệm với người bạn tuổi thơ khiến em xúc động và nhớ mãi”.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.