Đoạn trích: Lục Vân Tiên gặp nạn (trích truyện thơ Nôm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu) – SGK Ngữ văn 9, tập 1

luc-van-tien-gap-nan-sgk-ngu-van-9-tap-1

Lục Vân Tiên gặp nạn
(trích truyện thơ Nôm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu)

Văn bản.

Đêm khuya lặng lẽ như tờ,
Nghinh ngang[1] sao mọc mịt mờ sương bay.
Trịnh Hâm khi ấy ra tay,
Vân Tiên bị ngã xô ngay xuống vời[2].
Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,
Cho người thức dậy lấy lời phui pha[3].
Trong thuyền ai nấy kêu la,
Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng.
Vân Tiên mình luỵ[4] giữa dòng,
Giao long[5] dìu đỡ vào trong bãi rày.
Vừa may trời đã sáng ngày,
Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ.
Hối con vầy lửa[6] một giờ,
Ông hơ bụng dạ, mụ hơ mặt mày.
Vân Tiên vừa ấm chơn tay,
Ngẩn ngơ hồn phách như say mới rồi.
Ngỡ thân mình phải nước trôi,
Hay đâu còn hãy đặng ngồi dương gian.
Ngư ông khi ấy hỏi han,
Vân Tiên thưa hết mọi đàng gần xa.
Ngư rằng: “Người ở cùng ta,
Hôm mai hẩm hút[7] với già cho vui”.
Tiên rằng: “Ông lấy chi nuôi,
Thân tôi như thể trái mùi[8] trên cây.
Nay đà trôi nổi đến đây,
Không chi báo đáp mình này trơ trơ”.
Ngư rằng: “Lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn?
Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Rày voi mai vịnh vui vầy,
Ngày kia hứng gió đêm này chơi trăng.
Một mình thong thả làm ăn,
Khoẻ quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm.
Nghêu ngao nay chích[9] mai đầm,

Một bầu trời đất vui thầm ai hay.
Kinh luân[10] đã sẵn trong tay,
Thung dung dưới thế vui say trong trời.
Thuyền nan một chiếc ở đời,
Tắm mưa chải gió[11] trong vời Hàn Giang”.

Chú thích.

[1] Nghinh ngang: nghênh ngang. Do cách phát âm của người Nam Bộ, trong đoạn thơ này có nhiều từ như thế, chẳng hạn: phui pha (phôi pha), chơn tay (chân tay), đàng (đường), nầy (này), nhơn nghĩa (nhân nghĩa),…
[2] Vời: khoảng nước rộng.
[3] Phui pha (phôi pha): phai nhạt đi, mất vẻ tưới thắm, đẹp đẽ. Dùng từ phui pha ý tác giả muốn nói Trịnh Hâm kiếm lời nói lấp liếm, làm cho nhẹ chuyện đi, khiến không ai để ý mà truy cứu nữa.
[4] Luỵ: chịu lấy hậu quả việc làm của người khác, ở đây ý nói bị hại.
[5] Giao long: con rồng nước, hay gây sóng dữ. Ở vùng sông Cửu Long, cá sấu cũng gọi là giao long. Để cho giao long cứu Vân Tiên, ý tác giả muốn nói: Vân Tiên là người hiền đức mà bị hãm hại, ngay đến giao long là loài hung dữ mà cũng phải cảm thương mà giúp đỡ.
[6] Vầy lửa: đốt lửa, nhóm lửa.
[7] Hẩm hút (từ cổ): chỉ những thức ăn đạm bạc của người nghèo (hẩm: hư hỏng, biến chất, biến màu; hút: chỉ gạo không trắng). Ở đây ông Ngư ngỏ ý mời Vân Tiên ở lại nhà mình, cùng chia sẻ rau, cháo…
[8] Trái mùi: trái cây quá chín, đã nẫu, ý nói trái cây chín nẫu tất phải rụng, mình bệnh tật nhiều, không biết chết khi nào, sẽ phụ công ông Ngư.
[9] Chích: cái hồ, cái đầm.
[10] Kinh luân: khi làm tơ, kéo từng mối chia ra gọi là kinh, so các sợi mà hợp lại gọi là luân, nghĩa bóng chỉ tài sửa sang, sắp đặt, tổ chức, cai trị nước. Ý ông Ngư muốn nói: ông cũng là người có tài kinh luân, nhưng muốn sống ẩn dật với nghề chài lưới, và trong nghề chài lưới ông cũng chẳng thua kém gì những người có tài trị nước.
[11] Tắm mưa chải gió: tắm mình bằng mưa, chải đầu bằng gió, ý nói nghề chài lưới quen xông pha mưa gió, sống tự do giữa thiên nhiên.

Đoạn này nằm ở phần thứ hai của truyện. Vân Tiên và tiểu đồng đang bơ vơ nơi đất khách quê người thì gặp Trịnh Hâm đi thi trở về. Vốn đã có lòng đố kị, ganh ghét tài năng của Vân Tiên, trịnh Hâm lợi dụng cơ hội để hãm hại chàng. Hắn lừa tiểu đồng vào rừng trói lại rồi giả bộ đưa Vân Tiên xuống thuyền, hứa sẽ dẫn về quê nhà. Đợi đến đêm khuya vắng vẻ, hắn mới thực hiện hành động tội ác của mình.

I. Đọc hiểu văn bản.

Câu 1: Chủ đề của đoạn trích.

Câu 2. Hãy phân tích tâm địa độc ác của Trịnh Hâm qua hành động hãm hại bạn mình là Lục Vân Tiên. Em có nhận xét gì về giá trị nghệ thuật của đoạn thơ tự sự này?

Câu 3: Cái thiện được thể hiện thế nào qua đoạn trích?

Câu 4: Hãy chọn câu thơ mà em cho là hay nhất trong đoạn thơ rồi trình bày những cảm nhận của em về cảm xúc tác giả và ngôn ngữ miêu tả, biểu cảm trong những câu ấy.

II. Luyện tập

Trong truyện Lục Vân Tiên còn có những nhân vật nào có thể xếp vào cùng một loại với ông Ngư ở đoạn trích này? Họ có những đặc điểm chung gì? Tác giả muốn gửi gắm ý tưởng gì thông qua các nhân vật ấy?


* Soạn bài:

Lục Vân Tiên gặp nạn
(trích truyện thơ Nôm Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu)

Câu 1:

Chủ đề ở đoạn thơ này là sự đối nghịch giữa thiện và ác, tác giả thể hiện niềm tin vào những điều tốt đẹp ở đời.

– Cái ác: Do ganh ghét, đố kỵ tài năng của Lục Vân Tiên nên khi Vân Tiên đang bơ vơ nơi đất khách quê người lại tàn tật, Trịnh Hâm đã trở thành một kẻ độc ác, nhẫn tâm hãm hại Lục Vân Tiên ngay cả khi Vân Tiên đã không còn có thé đe dọa đến bước đường công danh của hắn.

– Cái thiện: Vân Tiên được ông Ngư cứu. Đó là việc làm nhân đức cùng cuộc sống trong sạch, nhân cách cao cả của ông Ngư.

Câu 2.

– Hành động độc ác, bất nhân, bất nghĩa:

+ Độc ác, bất nhân vì hắn dang tâm hãm hại một con người tội nghiệp, đang cơn hoạn nạn, không nơi nương tựa, không có gì để chông đỡ.

+ Bất nghĩa vì Vân Tiên vốn là bạn của hắn, từng “trà rượu” và làm thơ với nhau, lại đã có lời nhờ cậy: “tình trước ngãi sau – Có thương xin khá giúp nhau phen này”, và hắn cũng từng hứa hẹn: “Người lành nỡ bỏ người đau sao đành”.

– Hành động có toan tính, có âm mưu, kế hoạch sắp đặt khá kĩ lưỡng, chặt chẽ.

+ Thời gian gây tội ác: giữa đêm khuya, khi mọi người đã yên ngủ trên thuyền.

+ Không gian: giữa khoảng trời nước mênh mông (giữa vời “mịt mờ sương bay).

+ Người bị xô ngã xuống “vời” thì bất ngờ không kêu lên một tiếng. Đến lúc biết không ai còn có thể cứu được Vân hắn mới “giả tiếng kêu trời”, la lối um sùm lên, rồi “lấy lời phôi pha” kể bịa đặt để che lấp tội ác của mình. Kẻ tội phạm, nhờ gian ngoa xảo quyệt đã phủi sạch tay, không mảy may cắn rứt lương tâm.

→ Chỉ có tám dòng thơ để kể về một tội ác tày trời và lột tả tâm một kẻ bất nghĩa, bất nhân. Nguyễn Đình Chiểu đã thành công ở sắp xếp các tình tiết hợp lý, diễn biến hoạt động nhanh gọn, lời thơ vẫn giữ được vẻ mộc mạc, giản dị vốn có của tác phấm.

Câu 3:

– Cảnh ông Ngư vớt Vân Tiên lên và cả gia đình chạy chữa cho chàng một cách ân cần, chu đáo (ông, bà, con). Cả nhà dường như nhốn nháo, hối hả lo chạy chữa đế cứu sống Vân Tiên.

– Tấm lòng bao dung, nhân ái, hào hiệp của ông Ngư: Sau khi sống Vân Tiên, biết tình cảnh khốn khó của chàng, ông Ngư sẵn lò cưu mang chàng, dù chỉ là chia sẻ một cuộc sôang đói nghèo “hẩm hút tương rau, nhưng chắc chắn sẽ đầm ấm tình người “Hôm mai hẩm hút với già cho vui”. Ông cũng chẳng hề tính toán đến cái ơn cứu mạng Vân Tiên.

– Cuộc sống lao động của ông Ngư: Đây là một cuộc sống trong sạch, ngoài vòng danh lợi ô trọc; một cuộc sống tự do phóng khoáng giữa trời cao rộng, hòa nhập bầu bạn với thiên nhiên, thảnh thơi giữa sông nước, gió trăng, và do thế cũng đầy ắp niềm vui, bởi con người lao động tự do, tự làm chủ mình, có thể ứng phó với mọi tình thế. Cuộc sống hoàn toàn xa lạ với những toan tính nhỏ nhen, ích kỷ, mưu danh, tư lợi, sẵn sàng chà đạp lên cả đạo đức, nhân nghĩa…

– Gửi gắm khát vọng vào niềm tin về cái thiện, vào con người động bình thường. Từng trải đời, Nguyễn Đình Chiểu hiểu rất rõ cái xấu, cái ác thường lẩn khuất sau những mũ cao, áo dài của bọn người có địa vị cao sang (như Thái sư đương trào, Võ Công, Trịnh Hâm, Kiệm…) nhưng vẫn còn những cái tốt đẹp, đáng kính trọng, đáng khát, tồn tại bền vững nơi những con người nghèo khổ mà nhân hậu, vị tha, trọng nghĩa khinh tài (những ông Ngư, ông Tiều, chú tiểu đồng, bà dệt vải trong rừng,…).

Cảm nhận: Đối lập với tính ích kỉ, nhỏ nhen đến độc ác của Trịnh Hâm là tấm lòng bao dung nhân ái, hào hiệp của ông Ngư. Sau khi cứu sống Vân Tiên, biết tình cảnh khốn khổ của chàng, ông Ngư sẵn lòng cưu mang chàng, dù chỉ là chia sẻ một cuộc sống đói nghèo hẩm hút, tương rau, nhưng đầm ấm tình người. Ông cũng chẳng hề tính toán đến cái ơn cứu mạng mà Vân Tiên chẳng thể báo đáp: “Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn”

Cuộc sống lao động của ông Ngư cũng được miêu tả rất đẹp. Đó là một cuộc sống của người dân chài bình thường trên sống nước được thi vị hoá phần nào trở nên thơ mộng hơn; một cuộc sống trong sạch ngoài vòng danh lợi ô trọc, một cuộc sống tự do phóng khoáng giữa đất trời cao rộng, hoà nhập bầu bạn với thiên nhiên, thảnh thơi giữa sống nước, gió trăng và do thế cũng đầy ắp niềm vui bởi con người lao động tự do, tự làm chủ mình, có thể ứng phó với mọi tình thế. Cuộc sống ấy hoàn toàn xa lạ với những toan tính nhỏ nhen, ích kỉ mưu danh, trục lơi, sẵn sàng chà đạp lên cả đạo đức nhân nghĩa.

Nguyễn Đình Chiểu đã gửi gắm khát vọng vào niềm tin về cái thiện, vào con người lao động bình thường qua việc làm nhân đức và nhân đạo cao cả của Ngư ông.

Câu 4:

“Ngư rằng: Lòng lão chẳng mơ,
Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang”.

Đoạn thơ có ý tứ phóng khoáng mà sâu xa, lời lẽ thanh thoát, uyển chuyển, hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm. Một khoảng thiên nhiên cao rộng, khoáng đạt được mở ra với những doi, vịnh, chích, đầm, bầu trời, đất, gió, trăng,… Con người hòa nhập trong cái thế giới thiên nhiên ấy, không chút cách biệt hứng gió, chơi trăng, tắm mưa, chải gió… và niềm vui sống cũng dường như đầy ắp cái “cõi thế’’ của con người ấy (tác giả dùng rất nhiều từ chỉ trạng thái tâm hồn thanh thản, vui sống ấy: vui vầy, thong thả, nghêu ngao, vui thầm, thung dung, vui say…). Có cảm giác như chính Nguyễn Đình Chiểu đang nhập thân vào nhân vật để nói lên khát vọng sống và niềm tin yêu cuộc đời của mình.

Luyện tập

Trong truyện Lục Vân Tiên còn có những nhân vật nào có thể xếp vào cùng một loại với ông Ngư ở đoạn trích này? Họ có những đặc điểm chung gì? Tác giả muốn gửi gắm ý tưởng gì thông qua các nhân vật ấy?

+ Trong Truyện Lục Vân Tiên, những nhân vật có thể xếp vào cùng một loại với ông Ngư là: giao long, Du thần, ông Tiều, Hớn Minh.

+ Những nhân vật ấy đều là những người có nhân cách cao cả, có lòng tốt, sẵn sàng cứu giúp người khác trong cơn hoạn nạn.

+ Thông qua những nhân vật này, tác giả gửi gắm tư tưởng nhân đạo, niềm tin vào công lý và chính nghĩa, niềm tin vào tấm lòng nhân ái của con người trong cuộc sống.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.