Nghị luận: Thơ ca bắt rễ ở lòng người, nở hoa nơi từ ngữ

nghi-luan-tho-ca-bat-re-o-long-nguoi-no-hoa-noi-tu-ngu

Thơ ca bắt rễ ở lòng người, nở hoa nơi từ ngữ.

  • Mở bài:

Từ xưa đến nay, từ cổ chí kim, đông sang tây, thơ không chỉ là sự lặng giữa các từ” mà là tiếng nói của tâm hồn hơn và nhịp thở con tim… Thơ làm lay động triệu triệu trái tim con người, giúp nhận loại sống phong phú và tinh tế hơn. Có thể sức mạnh ấy của thơ ca đã được khởi nguyên từ vấn đề đặt ra trong ý kiến sau: Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”.

  • Thân bài:

Nguyễn Văn Thạc cũng đã nói: “bắt đầu từ cuộc sống, từ đó sẽ nảy ra thơ”. Hiện thực cuộc sống muôn hình vạn trạng đã tác động vào giác quan của người nghệ sĩ, khiển họ phấn khích, buồn, đau, hờn giận, căm tủi… và thơ ra đời. Họ đã chọn cây đàn thi ca kì diệu để tấu lên khúc nhạc lòng với bao bao trăn trở, day dứt của minh. Bi-bơ-lây từng khẳng định: “Thơ là thư kí trung thành của trái tim”.

Đó chính là đặc trưng của thơ, bắt nguồn và đơm hoa kết trái từ cảm xúc, tình cảm con người. Làm sao có thể đến với thơ, khi con tim chai cứng, không hồn, khi trái tim không đập những nhịp đập với đồng loại, khi đôi mắt, đôi tai không lắng nghe những thanh âm của cuộc sống dội vào. Song song với cảm xúc mãnh liệt, cháy bỗng, nhà thơ phải có trong mình một tài năng văn chương để có thể giãi bày qua từ ngữ.

Nhà thơ với chất liệu từ ngữ trong tay phải viết nên tác phẩm văn chương có sức làm rung động trái tim người đọc. Ngôn ngữ thi ca phải như muối từ biển, một thứ kim loại không lẫn tạp chất thì mới có thể thể hiện trọn vẹn cảm xúc thăng hoa của người nghệ sĩ. Hành động sáng tạo trong thơ ca là một sự giải toả những cảm xúc tràn đầy trong tâm hồn nhà thơ. Lí Bạch cũng đã nói: “Trong thơ, tình là gốc, lời là ngọn ”. Vì vậy nhà văn không chỉ có một trái tim mẫn cảm, sống sâu với cuộc đời mà còn phải có một tài năng văn chương tuyệt vời.

Bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt chiếm được cảm tình của người đọc bởi người đọc thấy trong đó cả một tình yêu tha thiết, cháy bỏng của đứa cháu xa quê giành cho người và kính yêu cả một đời tần tảo hi sinh để giữ cho ngọn lửa lòng của cháu cháy mãi. Phải chăng vì thế, bài thơ đã có những lời thơ thật hay:

Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niêm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chăng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?

Ngôn ngữ thơ bình dị, biết bao mà cũng chan chứa nghĩa tình biết bao. Đứa cháu của bà giờ đây đã lớn, đã trưởng thành, được chắp cánh tay vào chân trời cao rộng. Nơi ấy “ngọn khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả”, vật, chất đầy đủ, dư dả nhưng cháy vẫn không quên bếp củi của bà, bếp củi của một thời thơ ấu. “Chẳng lúc nào quên nhắc nhở” tức là nỗi nhớ bà luôn thường trực và khôn nguôi trong tim tác giả. Ngọn lửa bà truyền cho cháu, đã sưởi ấm cháu nơi xứ Nga lạnh lẽo, là động lực để cháu bước tiếp trên những chặng đường dài và rộng của cuộc đời dù lúc đó bà không còn nữa nhưng bếp lửa vẫn cháy sáng. Hơi ấm từ ngọn lửa lan tỏa cả bài thơ. Từng lời thơ, vần thơ như từng đốm lửa nhen lên trong lòng người đọc. Tình yêu là vô hạn của nhà thơ với ngôn ngữ bình dị đã truyền cho ta ngọn lửa yêu thương, ấm nóng, thăng hoa cảm xúc cùng nhà thơ. Nếu không có một tình yêu bà cháy bỏng, một tài năng văn chương tuyệt vời thì làm sao có một “bếp lửa” làm xao động người đọc đến thế. Bởi thế, nhậ định “Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ” là hoàn toàn có lí.

“Thơ ca bắt rễ ở lòng người”, ý thơ, hình thơ trải qua sự thanh lọc của tâm hồn người nghệ sĩ, thơ “nở hoa nơi từ ngữ”. Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ ta lại thấy được cả sự say mê, ngất ngây của Thanh Hải trước cảnh đất trời vào xuân. Thiên nhiên đẹp tuyệt diệu đã chấp cánh cho tâm hồn thi nhân bay cao, ông như chìm trong men say nồng nàn của xuân:

Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời?
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.

Cử chỉ “Tôi đưa tay tôi hứng” thể hiện sự nâng niu, trân trọng của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời lúc với xuân với cảm xúc say sưa, xốn xang, rạo rực. Nhà thơ như muốn ôm trọn vào lòng tất cả sức sống của mùa xuân, của cuộc đời. Cả một bức tranh xuân như dệt bằng tơ lụa vời từng đường nét sống động hiện lên dưới ngòi bút tài hoa của nhà thơ. Bức tranh xuân ấy có sự mềm mại duyên dáng của dòng sông Hương hiền hòa, sự dịu dàng của sắc tím biếc của bông hoa vươn minh bung nở giữa dòng, có tiếng hót chim chiền chiên vang tận trời xanh. Đã thế màu sắc còn vô cùng hài hòa tươi tắn. Giữa khung cảnh bao la thoáng đãng, vang lên tiếng chim đã làm nhà thơ thăng hoa xúc cảm, nhà thơ cất lên tiếng gọi đầy thiết tha:

Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời?

Từ cái niềm cảm xúc ấy nhà thơ đã có một sáng tạo thật độc đáo: “Từng giọt long lanh rơi. Tôi đưa tay tôi hứng”. Âm thanh vốn là vô hình nay đã kết tinh lại thành từng giọt óng ánh, long lanh sắc màu để nhà thơ đưa tay hứng lấy. Hành động hứng lấy đã cho thấy tình yêu tha thiết của nhà thơ giành cho thiên nhiên, cho quê hương xứ Huế mộng mơ. Những vần thơ chứa chan xúc cảm, mang hơi thở của mùa xuân đất trời chỉ có thể bắt nguồn từ một tâm hồn nghệ sĩ, từ một kĩ sư ngôn từ điêu luyện. Nhưng khi tác phẩm ra đời, nó không còn là của riêng tác giả nữa, nó được người đọc thấu hiểu, chia sẻ, đồng điệu. Lúc này mỗi bài thơ trở thành cầu nối giữa thi nhân và độc giả. Nó không còn nằm im trên trang giấy mà đi vào lòng – người đọc, đốt lên ngọn lửa nồng đượm, hình thành trong mỗi người những suy nghĩ, lẽ sống và khơi gợi để ta sống tốt hơn.

Đọc Ánh trăng của Nguyễn Duy, mỗi người chúng ta ai cũng thấy có minh trong đó. Đó không còn là câu chuyện của riêng Nguyễn Duy mà đã trở thành câu chuyện của mỗi chúng ta. Mỗi người đọc bài thơ không chỉ trào dâng niềm xót xa thương cảm, thổn thức mà còn “giật mình”, nhìn lại chính mình:

Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sông là rừng.

Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.

Sau bao tháng năm xa cách, trăng cũng đã gặp lại người, làm sống dậy bao kí ức đẹp đẽ mà lâu nay đã chìm vào quên lãng.Từ láy “vành vạnh đã diễn tả sự tràn đầy viên mãn của vầng hăng. Trăng chính là hiện thân cho quá khứ, thiên nhiên, đất nước, nhân dân bao dung độ lượng không lên án, chê trách con người nhưng đó lại là lời nhắc nhở có sức nặng khiến con người “mình”, “giật mình ”để nhận ra sự ích kỉ nông nổi của bản thẫn, để thấy cần phải thay, đổi cách sống…

Cấu trúc song hành của hai câu thơ, nhịp điệu dồn dập cùng biện pháp tu từ so sánh, điệp ngữ và liệt kê như muốn khắc họa rõ hơn kí ức về thời gian gắn bó chan hòa với thiên nhiên, với vầng trăng lớn lao sâu nặng, nghĩa tình, tri kỉ. Chính thứ ánh sáng dung dị đôn hậu đó của trăng đã chiếu tỏ nhiều kỉ niệm thân thương, đánh thức bao tâm tình vốn tưởng chừng ngủ quên trong góc tối tâm hồn người lính. Chất thơ mộc mạc chân thành như vầng trăng hiền hòa, ngôn ngữ hàm súc, giàu tính biểu cảm như “có cái gì rưng rưng”,đoạn thơ đã đánh động tình cảm nơi người đọc.

Giọng thơ bùi ngùi xúc động, thấm đẫm nhưng suy tư. Không phải ai sống trong hòa bình sung sướng cũng nhớ về quá khứ như Chế Lan Viển đã băn khoăn: “Đôi khi sống trong ánh nắng chan hòa/ Người ta dễ quên đi cơn mộng dữ đêm qua ”. Sau khi đọc Ảnh , ta lại tự nhìn lại bản thân minh để sống ân tình hơn, thủy chung hơn. Như vậy, chả phải bài thơ đang khiến ta phải tự bước lên con đường làm đẹp bản thân hay sao?

Nhận định trên đã đề cập đến đặc trưng của thơ ca “bắt rễ ở lòng người” “nở hoa nơi từ ngữ”. Và cũng đề ra nhiệm vụ đối với người nghệ sĩ: Phải sống sâu với đời, phải trầm vào ngòi bút của bản thân vào bể khổ cuộc đời, cho con tim rung lên trước những nỗi đau của con người…, và nhiêu đó thôi chưa đủ. Xuân Diệu tưng nói: “Một bài thơ hay là phải hay cả hồn lẫn xác”.

Nhà thơ phải biết gieo vào kho ngôn từ vốn không hương sắc dấu ấn của riêng mình, phải biết chọn lọc để mỗi từ, mỗi chữ là tinh túy nhất, đẹp nhất, thì cảm xúc kia mới đến Với trái tim của người đọc. Nếu anh chỉ có cảm xúc chân thành mà không có tài năng văn chương thì làm sao thơ anh được chắp cánh bay đến trái tim người đọc, làm cho tâm hồn họ thực được sống. Ngoài ra, nhãn quan của người nghệ sĩ sẽ phải như đóa hướng dương luôn hướng về mặt trời chân lí, không tô hồng cũng không bôi đen cuộc sống.

Nhà thơ là người phát ngôn, người đặt tên, người đại diện cái đẹp. Không phải chỉ có cảm xúc thăng hoa, từ ngữ phong phú mà người nghệ sĩ phải có riêng cho mình một phong cách. Tức là phải sáng tạo, không rập khuôn, sáo mòn, phải “khơi những gì chim ai khơi, sáng tạo những gì chưa có” (Nam Cao). Có thể tác phẩm ấy mới đi sâu vào quần chúng nhân dân, neo đậu lại lòng người “một thứ ánh sáng riêng không bao giờ nhòa” nếu không thì sẽ bị đào thải, hoa chăng chỉ tồn tại ở mỗi người.

Gamzatov đã nêu ý kiến: “Như ngọn lửa bốc lên từ những cành khô, tài năng bắt khởi phát mạnh mẽ từ tình cảm”. Vì vậy thơ sẽ chả bao giờ có nếu không có cảm xúc nhưng cũng không bao giờ được thể hiện ra nếu người nghệ sĩ không là một “phù thủy ngôn từ”. Thơ khởi phát từ những tình cảm chân thật và càng tha thiết hơn qua lời thơ óng ả, trau chuốt, tinh tế như viên ngọc đã được mài giũa hết sức có thể.

  • Kết bài:

 “Thơ ca bắt rễ ở lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”. Nhận định đã nêu bật đặc trưng của thơ, thơ bắt nguồn từ đâu và được truyền tải đến người đọc bằng phương tiện gì. Muốn làm được bài thơ hay, nhà thơ phải có cả “tâm” làm “tài”, phải biết khóc trong lúc vui, đau buồn, khi vui sướng có thể sinh ra những tác phẩm lắng đọng cùng cuộc sống. “Thơ ca bắt rễ từ lòng người, nở hoa nơi từ ngữ”, hơn thế, thơ ca phải bắt rễ vào và nở hoa trong lòng người đọc để đi trọn hành trình tận hiến của mình.

1 Trackbacks / Pingbacks

  1. Nghị luận: Bài thơ anh, anh làm một nửa mà thôi. Còn một nửa cho mùa thu làm lấy (Chế Lan Viên) - Theki.vn

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.