So sánh nhân vật Việt và nhân vật Tnú

nhan-vat-viet-va-nhan-vat-tnu-789

Cảm nhận vẻ đẹp của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước qua 2 nhân vật: Tnú (“Rừng xà nu” – Nguyễn Trung Thành) và Việt (“Những đứa con trong gia đình” – Nguyễn Thi).

Dàn bài gợi ý:

  • Mở bài:

“Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 – 1975 đã đạt nhiều thành tựu lớn, đặc biệt là trong mảng tác phẩm thể hiện phẩm chất anh hùng của con người Việt Nam trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại chống lại kẻ thù xâm lược thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. “ Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành và “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi là hai tác phẩm thành công trong sự khắc họa những hình tượng nhân vật tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng cao đẹp, cho lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc, sức mạnh chiến đấu của dân tộc Việt Nam chống giặc ngoại xâm.”

  • Thân bài:

a Hoàn cảnh ra đời:

– Cả hai tác giả Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi đều gắn bó với cuộc chiến đấu chống Mĩ, là những nhà văn chiến sĩ ở tuyến đầu máu lửa . Tác phẩm của họ mang hơi thở nóng hổi của cuộc chiến đấu với những hình tượng nhân vật sinh động, bước vào văn học từ thực tế chiến đấu.

– Hai truyện ngắn “Rừng xà nu” ( 1965), “Những đứa con trong gia đình” (1966) đều ra đời trong giai đoạn ác liệt của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, khi đế quốc Mĩ đổ quân vào miền Nam nước ta, dân tộc ta đứng trước trận chiến một mất một còn để bảo vệ độc lập tự do, bảo vệ quyền sống. Đó là bối cảnh lịch sử để từ đó hai tác phẩm ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với chất sử thi đậm đà.

– Qua hai thiên truyện, tác giả đã giúp người đọc khám phá, khâm phục, tự hào trước vẻ đẹp anh hùng cách mạng của những con người bình thường, giản dị mà anh dũng, kiên cường và rất mực trung thành, thuỷ chung với cách mạng. Đó là sự thể hiện của lòng yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc, tinh thần chiến đấu bất khuất chống lại kẻ thù xâm lược để bảo vệ tổ quốc của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, là sự trung thành với lí tưởng cách mạng được thử thách trong những hoàn cảnh khốc liệt, qua đó bộc lộ được vẻ đẹp của phẩm chất anh hùng có tính chất tiêu biểu cho cả dân tộc.

b. Cảm nhận về hai nhân vật :

– Họ đều là những người con được sinh ra từ truyền thống bất khuất của gia đình, của quê hương, của dân tộc:

+ Tnú là người con của làng Xô Man, nơi từng người dân đều hướng về cách mạng, bảo vệ cán bộ “ Đảng còn thì núi nước này còn” – Lời cụ Mết (Rừng xà nu).

+ Việt sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nước, căm thù giặc: Cha là cán bộ cách mạng, má là người phụ nữ Nam bộ kiên cường trong đấu tranh, hai con tiếp nối lí tưởng của cha mẹ. (Những đứa con trong gia đình).

– Họ đã chịu nhiều đau thương, mất mát do kẻ thù gây ra, tiêu biểu cho đau thương mất mát của cả dân tộc:

+ Tnú chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù tra tấn đến chết, bản thân bị giặc đốt mười đầu ngón tay.

+ Việt chứng kiến cái chết của ba má: ba bị chặt đầu, má chết vì đạn giặc.

– Những đau thương đó hun đúc tinh thần chiến đấu, lòng căm thù giặc sâu sắc của con người Việt Nam. Biến đau thương thành sức mạnh chiến đấu cũng là một biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng:

+ Tnú lên đường đi “lực lượng” dù mỗi ngón tay mất đi một đốt, Việt vào bộ đội, coi việc đánh giặc trả nợ nước thù nhà là lẽ sống. Họ chiến đấu bởi sức mạnh của lòng căm thù giặc, cũng là bởi sức mạnh của tình yêu thương, vì: chỉ có cầm vũ khí đứng lên, ta mới có thể bảo vệ được những gì thiêng liêng nhất, bảo vệ tình yêu và sự sống. Chân lí đó đã được minh chứng qua số phận và con đường cách mạng của những người dân Nam Bộ trong hai tác phẩm trên, chân lí đó cũng được rút ra từ thực tế đau thương mất mát nên nó càng có giá trị, càng phải khắc sâu vào lòng người.

– Họ đều mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, là những con người Việt Nam kiên trung trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm: Sống có lý tưởng (chiến đấu để trả thù cho gia đình, cho quê hương Tổ quốc); có tinh thần tự nguyện chiến đấu, sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc; có ý chí, nghị lực, quyết tâm (vượt lên những đau thương của hoàn cảnh, của số phận để sống, chiến đấu); gan góc, dũng cảm, thông minh, mưu trí, ham học:

+ Tnú từ nhỏ đã gan dạ, đi liên lạc bị giặc bắt được, tra tấn dã man vẫn không khai. Anh vượt ngục trở về, lại là người lãnh đạo thanh niên làng Xô Man chống giặc, bị đốt mười ngón tay vẫn không kêu rên trước mặt kẻ thù à Ở Tnú toát lên vẻ đẹp của người anh hùng trong sử thi Tây Nguyên và vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại chống Mĩ.

+ Việt bị thương trong trận đánh lại lạc mất đơn vị, vẫn chắc tay súng quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Đối với chị, Việt ngây thơ, nhỏ bé. Còn trước kẻ thù, Việt vụt lớn lên, chững chạc trong tư thế người anh hùng.

– Họ giàu lòng yêu thương:

+ Tnú: Tình cảm với vợ con. Tình cảm với buôn làng, quê hương.

+ Việt: Tình cảm với gia đình (chị Chiến, ba má, chú Năm). Tình cảm với đồng đội.

– Tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, lạc quan yêu đời.

⇒ Tóm lại, các nhân vật của hai truyện ngắn đều đã vượt lên nỗi đau và bi kịch cá nhân để sống có ích cho đất nước. Những đau thương của họ cũng chính là đau thương của dân tộc trong những năm tháng thương đau của chiến tranh. Tinh thần quả cảm, kiên cường của họ cũng chính là tinh thần của cả dân tộc Việt Nam, là biểu hiện cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

c. Đánh giá chung:

– Nghệ thuật xây dựng nhân vật:

+ Nhân vật Việt: Với nghệ thuật trần thuật tác giả để cho nhân vật tự kể về cuộc đời của mình và các nhân vật khác theo dòng hồi tưởng. Giọng điệu trữ trình – tự sự, vừa có tính khái quát (đậm màu sắc sử thi), vừa mang nét riêng, ấn tượng (ngôn ngữ, hành động, sinh hoạt…thể hiện hình ảnh của người dân Nam Bộ).

+ Nhân vật Tnú: Hiện lên qua lời kể của tác giả, lời kể của nhân vật (cụ Mết). Giọng kể mang đậm tính sử thi. Đặt nhân vật vào những tình huống mang tính quyết liệt, đột ngột tạo độ căng sử thi. Đặt nhân vật trong mối quan hệ với các nhân vật khác trong tác phẩm. Để khắc hoạ vẻ đẹp phẩm chất của nhân vật. Ngôn ngữ mang đặc trưng của người Tây nguyên.

  • Kết bài: khẳng định ý nghĩa với tác phẩm:

+ Hai nhân vật góp phần làm rõ tư tưởng chủ đề của truyện.
+ Vẻ đẹp của nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp của con người Việt Nam: chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
+ Khẳng định vị trí của 2 nhân vật trong lòng người đọc, rút ra bài học cho bản thân.


Bài tham khảo:

  • Mở bài:

Nguyễn Thi và Nguyễn Trung Thành là hai nhà văn tiêu biểu của dòng văn học hiện thực cách mạng. Với tài năng và lý tưởng cao đẹp của mình, hai nhà văn đã có những đóng góp quan trọng trong nhiệm vụ tìm kiếm, phát hiện những con người yêu nước và anh hùng trong quyền chúng nhân dân để phản ánh, ngợi ca, tuyên dương nhằm khích lệ tinh thần yêu nước và ý chí chiến đấu của toàn dân tộc trên mặt trận chống kẻ thù xâm lược. Nhân vật Việt và nhân vật Tnú rõ ràng là những phát hiện có ý nghĩa lớn lao đối với nền văn học và đối với cuộc kháng chiến chống giặc cứu nước của dân tộc.

  • Thân bài:

Cả hai tác giả Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi đều gắn bó với cuộc chiến đấu chống Mĩ, là những nhà văn chiến sĩ ở tuyến đầu máu lửa. Tác phẩm của họ mang hơi thở nóng hổi của cuộc chiến đấu với những hình tượng nhân vật sinh động, bước vào văn học từ thực tế chiến đấu. Qua việc khắc họa thành công nhân vật Việt và nhân vật Tnú, hai nhà văn đã giúp người đọc khám phá, khâm phục, tự hào trước vẻ đẹp anh hùng cách mạng của những con người bình thường, giản dị mà anh dũng, kiên cường và rất mực trung thành, thuỷ chung với cách mạng.

Đó là sự thể hiện của lòng yêu nước thiết tha, căm thù giặc sâu sắc, tinh thần chiến đấu bất khuất chống lại kẻ thù xâm lược để bảo vệ tổ quốc của con người Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, là sự trung thành với lí tưởng cách mạng được thử thách trong những hoàn cảnh khốc liệt, qua đó bộc lộ được vẻ đẹp của phẩm chất anh hùng có tính chất tiêu biểu cho cả dân tộc.

Nhân vật việt sinh ra trong một “gia đình” nông dân Nam Bộ có truyền thống yêu nước, căm thù giặc, thuỷ chung son sắt với quê hương cách mạng. Chị em Chiến và Việt là hình ảnh tiêu biểu của thế hệ trẻ miền Nam, những người con của đại “gia đình” miền Nam ruột thịt trong những năm kháng chiến chống Mĩ ác liệt.

Mặc dù trong truyện ngắn nhân vật Việt được tác giả khắc hoạ là một chiến sĩ kiên cường dũng cảm trên mặt trận nhưng trong đời sống Việt vẫn là một chàng trai tre có tính cách hồn nhiên vô tư như bao chàng trai khác.

Qua hồi ức của Việt khi còn ở nhà Việt là một chàng trai hồn nhiên trong trẻo. Khi chị Chiến dọa “thù cha chưa trả mà bỏ về thì chú chặt đầu” thì “Việt lăn kềnh ra ván cười khì khì”. Khi chị Chiến trao đổi bàn tính sắp xếp chuyện nhà thì Việt vẫn vô tư “chụp một con đom đóm úp vào trong lòng tay”. Hay khi chị Chiến trao đổi việc nhà thì Việt vừa khen thầm chị Chiến “chị nói nghe thiệt gọn” vừa “ngủ quên lúc nào không biết”. Khi ở chiến trường, đã trở thành một chiến sĩ dũng cảm rồi vẫn giữ bên mình cái ná thun bắn chim hồi nhỏ. Bị thương nằm một mình giữa rừng không sợ chết mà chỉ sợ ma và bóng đêm. Khắc hoạ nét tính cách hồn nhiên này của Việt tác giả muốn nhấn mạnh rằng Việt là một chiến sĩ dũng cảm anh hùng nhưng vẫn là một con người của đời thường như bao người trai trẻ khác.

Tuy sống hồn nhiên vô tư nhưng Việt không vô tâm với những người xung quanh. Việt luôn yêu thương cha mẹ chị em trong gia đình và người thân cũng như đồng đội xung quanh. Trong kí ức của Việt luôn in đậm hình ảnh của má. Trong cơn chập chờn tỉnh thức khi bị thương nằm một mình giữa rừng hình ảnh đầu tiên hiện về là hình ảnh người má thân yêu. “Việt tỉnh dậy lần thứ tư trong đầu còn thoáng hình ảnh người mẹ” và “Việt ước gì bây giờ được gặp má”. Khi hai chị em cùng sắp xếp việc nhà cũng là lúc “cả hai chị em cùng nhớ đến má” và lo đưa bàn thờ của má gửi sang nhà chú Năm trước khi đi đánh giặc.

Đối với chị Chiến, Việt dành cho chị một tình thương sâu đậm. Việt đã coi chị như người mẹ, vâng lời sắp đặt việc nhà của chị. Tình thương chị Chiến được thể hiện rõ nhất khi hai vhị em khiêng bàn thờ má sang nhà chú Năm “nghe tiếng chân chị Việt thấy lòng thương lạ”, “lần đầu tiên Việt muốn thấy lòng mình rõ như thế”.

Đối với những người thân yêu như chú Năm, anh Tám và những người đồng đội khác thì Việt vừa yêu thương vừa gắn bó tin cậy. Khi bị thương nằm giữa rừng Việt vừa nghĩ đến má vừa nhớ đến anh Tám “Việt muốn chạy thật nhanh” để gặp lại anh Tám níu chặt lấy anh mà khóc”. Việt hồn nhiên vô tư trong cuộc sống nhưng lại rất giàu lòng yêu thương gắn bó với mọi người, đó là một nét tính cách nổi bật ở nhân vật Việt.

Nhà văn Nguyễn Thi tập trung khắc hoạ nét tính cách nổi bật của nhân vật Việt là tính cách của một con người dũng cảm kiên cường. Khi còn ở nhà “ý nghĩ đi bộ đội luôn thôi thúc Việt” đến nỗi “Việt đi đâu chị Chiến cũng dòm chừng coi Việt có bọc quần áo theo không” vì sợ Việt trốn nhà đi bộ đội. Mặc cho chị Chiến can ngăn Việt vẫn không nhường chị đi bộ đội trước Việt vẫn giành chị để được đi. May nhờ chú Năm xin cho cả hai đi bộ đội thì mọi việc mới ổn.

Những ngày ở chiến trường Việt luôn tỏ ra là một chiến sĩ dũng cảm kiên cường trong một trận đánh ác liệt sau khi tiêu diệt được một xe bọc thép đầy Mĩ Việt bị thương nặng kiệt sức nằm giữa rừng vẫn ở trong tư thế chiến đấu “Việt vẫn còn đây nguyên tại vị trí này, đạn đã lên nòng ngón cái còn lại sẵn sàng nổ súng”. Không chỉ ở tư thế chiến đấu mà Việt còn kiên cường hơn thế tự lết thân mình về phía mặt trận “Việt đã bò đi được một đoạn cây súng đẩy đi trước, hai cùi tay lôi người theo chính trận đánh đang gọi Việt đến”.

Việt mang nặng thù nhà nợ nước nên tinh thần chiến đấu luôn thôi thúc Việt và Việt đã chiến đấu đúng nghĩa của một người anh hùng. Việt là hình ảnh của một người thanh niên thời đại mới có khí phách kiên cường bất khuất.

Với kết cấu tác phẩm theo lối đồng hiện, với nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật đa dạng độc đáo và ngôn ngữ đời thường giàu chất Nam bộ, nhà văn đã xây dựng được nhân vật Việt một cách sinh động. Nhân vật Việt là mẫu người anh hùng của nhân dân Nam bộ thời đánh Mĩ. Họ vừa mang nặng mối thù chung và mối thù riêng đã ra đi chiến đấu đến hơi thở cuối cùng cho sự nghiệp giải phóng đất nước.

Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là một kiệt tác văn chương thời chống Mĩ in đậm khuynh hướng sử thi hào hùng. Trong thế trận chiến tranh nhân dân thần kì của làng Xô Man, nhân vật Tnú mang tầm vóc một dũng sĩ phi thường đã để lại trong lòng ta nhiều rung cảm và ngường mộ.

Có thể nói, nhân vật trung tâm cua truyện Rừng xà nu là Tnú. Trong nhà ưng, xung quanh bếp lửa hồng, một đêm mưa có mặt đông đủ lũ làng, cụ Mết đặt bàn tay chắc nịch lên vai Tnú giới thiệu: “… nó đi giải phóng quân đánh giặc, nay nó về thăm làng một đêm… Nó là người Strá mình. Cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ nhưng “bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Tnú vốn là một chú bé giàu cá tính. Ở trong rừng học chữ với anh Quyết, nó học không bằng Mai…, nó nổi nóng “đập bể cái bảng nứa…”, bỏ ra ngồi ngoài suối suốt ngày, rồi nó cầm một hòn đá “tự đập vào đầu. cháy máu ròng ròng “.

Chữ thì Tnú hay quên, nhưng đi rừng, đi đường núi thì “đầu nó sáng lạ lùng”. Giặc vây ráp, phục kích, Tnú trèo lên cây cao nhìn khắp mọi phía, “xẻ rừng mà đi, lọt tất cả các vòng vây”. Vượt sông vượt suối, Tnú lựa chỗ thác mạnh mà bơi ngang, nó “cưỡi lên thác băng băng như một con cá kình”, và Tnú biết, “qua chỗ nước êm thẳng Mĩ – Diệm hay phục, chỗ nước mạnh nó không ngờ!”. Khi chẳng may sa vào tay giặc, họng súng của thằng giặc phục kích “chĩa vào tai lạnh ngắt”, Tnú đã nhanh trí “nuốt luôn cái thư” của anh Quyết gửi về huyện trong một ngọn lá dong.

Lưng Tnú ngang dọc vết dao chém của bọn giặc, nhưng Tnú vẫn bất khuất hiên ngang. Ba năm bị tù trong ngục Kon Tum. Tnú đã vượt ngục trở về. Tnú đã đọc thư tuyệt mệnh của anh Quyết gửi dân làng Xô Man trước lúc anh tử thương. Anh Quyết đã dặn? “Tnú phải học chữ giỏi, thay tui làm cán bộ”. Lần thứ hai, Tnú lại lên núi Ngọc Linh, không phải đi lấy đá trắng về làm phân như ba năm trước, mà là đi lấy một gùi đá mài. Làng Xô Man đã chuẩn bị khởi nghĩa: phát rẫy trồng pom-chu xanh cả núi rừng, đêm đêm cả làng thức, mài giáo mác. Tnú đã trở thành chỉ huy đội du kích, làm cho thằng Dục ác ôn lồng lên, gầm lên. “Con cọp đó không giết sớm, nó làm loạn rừng núi này rồi!”.

Vợ con anh đã bị giặc bắt, tra tấn dã man cho đến chết. Tnú cùng đội du kích rút vào trong rừng, anh đã nghiến răng ‘bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay”. Đôi mắt của anh trở thành “hai cục máu lớn”. Thương xót và căm thù tột độ, Tnú không kìm nổi lòng mình nữa, với hai bàn tay không, anh đã nhảy xổ vào lũ giặc mong cứu được vợ con. Tnú là một con người gang thép. Lũ giặc đã trói anh bằng dây rừng, dùng giẻ tẩm nhựa xà nu đốt cháy mười đầu ngón tay Tnú. Ngọn lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu mặn chát ở đầu lưỡi “cháy, cháy cả ruột đây rồi! Anh Quyết ơi? Cháy, không, Tnú sẽ không kêu? Không?”. Ngọn lửa xà nu và độ nóng của nó đã soi sáng lòng trung thành vô hạn, đã tôi luyện khí phách lẫm liệt của Tnú lên tầm vóc phi thường vĩ đại? Khi Tnú thét lên một tiếng dữ dội cũng là lúc tiếng chân “rầm rập” quanh nhà ưng, nhiều tiếng thét dữ dội hơn… Nhà ưng ào ào chuyển động. Tiếng hô của cụ Mết vang lên “Chém! Chém hết!”. Và lửa đã cháy khắp rừng…

Mẹ con Mai đã bị giặc giết. Lưng Tnú đầy vết dao của giặc chém. Mười ngón tay của anh, ngón nào cũng bị thằng Dục đốt ,cháy mất một đốt. Bà Nhan, anh Xút, anh Quyết. Những người thân yêu của anh đã bị giặc giết, vết thương lành, Tnú đi tìm cách mạng, đi Giải phóng quân để tìm diệt những thằng Dục ác ôn, đứa thì ờ trong đốn, đứa thì ngoan cố chui xuống hầm ngầm.

Tnú còn có một tâm hồn đẹp, chất phác, trong sáng. Tâm hồn anh vẫn ôm ấp hình bóng quê hương. Sau ba năm đi Giải phóng quân đánh giặc về thăm làng một đêm, cái gốc cây bên đường gợi lên trong lòng anh một kỉ niệm về Mai, “kỉ niệm đó cắt vào lòng anh một nhát dao nửa”. Tnú yêu làng, yêu những hố chông, những giàn thò sắc lạnh của làng anh, yêu con nước mát lạnh… Anh nhớ nhất làng, nhớ day dứt lòng anh suốt, ba năm chính là “tiếng chày chuyên cần, rộn rã của những người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xa xưa, của Mai của Dít, từ ngày lọt lòng anh đã nghe thấy tiếng chày ấy rồi.. ”.

Tnú mang tầm vóc như một dũng sĩ trong sử thi. Lòng trung thành, khí phách anh hung, tinh thần lẫm liệt bất khuất của Tnú làm chúng ta ngưỡng mộ; tâm hồn chất phác, trong sang, thủy chung của anh đã làm cho chúng ta xúc động, yêu thương, Nguyễn Trung Thành xây dựng nhân vật Tnú bằng tất cả sự chắt lọc tâm hồn, tưởng như ông không viết, ông không tả… mà hình như, ông là một nghệ sĩ đúc tượng Tnú, một anh hùng thời đại bằng một chất liệu siêu kim loại !…

Rừng xà nu là một truyện ngắn thấm đấm màu sắc sử thi, huyền thoại. Hình thức kể chuyện qua nhân vật cụ Mết già làng gợi lên không khí thiêng liêng cổ truyền. Mái nhà ưng là nơi tụ hội của dân làng Xô Man, cũng là nơi để họ trừng trị lũ ác ôn khát máu, lũ tay sai Mĩ – Diệm. Rừng động, lửa cháy, tiếng cồng âm vang, đại bác giặc, cây xà nu đổ ào ào như một trận bão, tiếng mài giáo mác… Tất cả thật hào hung, bi tráng. Rừng xà nu đã nêu cao một nhân lí cách mạng: “Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa, nhớ lấy. Sau này tao chết rồi, bay còn sống phải nói lại cho con cháu: Chúng nó đã cầm sung, mình phải cầm giáo!”. Qua chủ đề ấy, cây xà nu, Tnú là những người dân làng Xô Man hiện lên mang tầm vóc dung sĩ, tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hung trong thời đại Hồ Chí Minh.

Qua phân tích, ta thấy, nhân vật Việt và nhân vật Tnú đều là những người con được sinh ra từ truyền thống bất khuất của gia đình, của quê hương, của dân tộc: Tnú là người con của làng Xô Man, nơi từng người dân đều hướng về cách mạng, bảo vệ cán bộ “ Đảng còn thì núi nước này còn” – Lời cụ Mết (Rừng xà nu). Việt sinh ra trong gia đình có truyền thống yêu nước, căm thù giặc: Cha là cán bộ cách mạng, má là người phụ nữ Nam bộ kiên cường trong đấu tranh, hai con tiếp nối lí tưởng của cha mẹ (Những đứa con trong gia đình).

Họ đã chịu nhiều đau thương, mất mát do kẻ thù gây ra, tiêu biểu cho đau thương mất mát của cả dân tộc: Tnú chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù tra tấn đến chết, bản thân bị giặc đốt mười đầu ngón tay. Việt chứng kiến cái chết của ba má: ba bị chặt đầu, má chết vì đạn giặc.

Những đau thương đó hun đúc tinh thần chiến đấu, lòng căm thù giặc sâu sắc của con người Việt Nam. Biến đau thương thành sức mạnh chiến đấu cũng là một biểu hiện của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: Tnú lên đường đi “lực lượng” dù mỗi ngón tay mất đi một đốt, Việt vào bộ đội, coi việc đánh giặc trả nợ nước thù nhà là lẽ sống. Họ chiến đấu bởi sức mạnh của lòng căm thù giặc, cũng là bởi sức mạnh của tình yêu thương, vì: chỉ có cầm vũ khí đứng lên, ta mới có thể bảo vệ được những gì thiêng liêng nhất, bảo vệ tình yêu và sự sống. Chân lí đó đã được minh chứng qua số phận và con đường cách mạng của những người dân Nam Bộ trong hai tác phẩm trên, chân lí đó cũng được rút ra từ thực tế đau thương mất mát nên nó càng có giá trị, càng phải khắc sâu vào lòng người.

Họ đều mang phẩm chất anh hùng, bất khuất, là những con người Việt Nam kiên trung trong cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Tnú từ nhỏ đã gan dạ, đi liên lạc bị giặc bắt được, tra tấn dã man vẫn không khai. Anh vượt ngục trở về, lại là người lãnh đạo thanh niên làng Xô Man chống giặc, bị đốt mười ngón tay vẫn không kêu rên trước mặt kẻ thù. Ở Tnú toát lên vẻ đẹp của người anh hùng trong sử thi Tây Nguyên và vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại chống Mĩ. Việt bị thương trong trận đánh lại lạc mất đơn vị, vẫn chắc tay súng quyết tâm tiêu diệt kẻ thù. Đối với chị, Việt ngây thơ, nhỏ bé. Còn trước kẻ thù, Việt vụt lớn lên, chững chạc trong tư thế người anh hùng.

Tóm lại, các nhân vật của hai truyện ngắn đều đã vượt lên nỗi đau và bi kịch cá nhân để sống có ích cho đất nước. Những đau thương của họ cũng chính là đau thương của dân tộc trong những năm tháng thương đau của chiến tranh. Tinh thần quả cảm, kiên cường của họ cũng chính là tinh thần của cả dân tộc Việt Nam, là biểu hiện cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

Chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đại chống Mĩ hiện diện trên khắp mọi miền của đất nước. Từ nông thôn đến thành thị, từ miền ngược đến miền xuôi, từ đồng bằng đến miền núi. Tất cả tạo nên một sức mạnh long trời lở đất để “nhấn chìm lũ bán nước và quân cướp nước”. Cuộc đời và sự hi sinh của những con người Việt Nam anh hùng mãi mãi là bản anh hùng ca tuyệt đẹp cho các thế hệ Việt Nam noi theo.

Thông qua phân tích, ta thấy, cả hai nhân vật đều phải chịu đựng những đau đớn về thân xác, đơn độc khi chiến đấu. Họ là hình mẫu của người chiến sĩ dũng cảm, kiên cường, tuyệt đối trung thành với cách mạng, đất nước; là biểu tượng đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ.

Tuy nhiên, giữa hai nhân vật có nhiều điểm khác biệt. Nhân vật Việt chiến đấu với tinh thần quả cảm, lạc quan, hồn nhiên, yêu đời, tin tưởng vào cách mạng, đồng đội. Ở Việt, chủ yếu chỉ có nỗi đau về thể xác do bị thương. Nhân vật Tnú chiến đấu bằng ý chí quyết tâm và lòng căm thù giặc sâu sắc, do vừa trải qua những biến cố, mất mát trong đời sống cá nhân (vợ và con bị giặc giết chết ngay trước mắt). Ở Tnú, đó là nơi cộng hưởng cả nỗi đau thể xác và tinh thần.

“Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành và “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi là hai tác phẩm thành công trong sự khắc họa những hình tượng nhân vật tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng cao đẹp, cho lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc, sức mạnh chiến đấu của dân tộc Việt Nam chống giặc ngoại xâm

  • Kết bài:

Bằng việc xây dựng thành công hình tượng nhân vật Việt và nhân vật Tnú, Nguyễn Thi và Nguyễn Trung Thành đã tạc nên những tượng đài lẫm liệt về người lính cụ Hồ kiên trung, bất khuất. Vượt lên nỗi mất mát đau thương, họ đã dũng liệt chiến đấu với kẻ thù, bảo vệ quê hương đất nước, làm sáng bừng chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Hai tác phẩm đạt đến tầm vóc sử thi hào hùng, tráng lệ, là hai khác trường ca vĩ đại của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.