Nội dung và hình thức của tác phẩm văn học

noi-dung-va-hinh-thuc-cua-tac-pham-van-hoc

Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của tác phẩm văn học.

Nội dung phản ánh và hình thức nghệ thuật là hai bình diện tạo nên tính chỉnh thể của tác phẩm văn học. Để phân tích tính chỉnh thể, tức sự vẹn toàn thống nhất của tác phẩm, cần phải thừa nhận sự thống nhất biện chứng giữa nội dung và hình thức.

I. Khái niệm tác phẩm văn học.

Tác phẩm văn học là một công trình nghệ thuật ngôn từ do một cá nhân hay một tập thể sáng tạo nên nhằm thể hiện những khái quát về cuộc sống, con người và biểu hiện tâm tư, tĩnh cảm, thái độ của chủ thể trước thực tại bằng hình tượng nghệ thuật.

Tác phẩm văn học bao giờ cũng là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.

Tác phẩm văn học không phải là một sản phẩm cố định. Nó mang tính lịch sử, đa nghĩa, nó có sự biến đổi về văn bản và có sự khác nhau trong cảm thụ của người đọc ở từng giai đoạn lịch sử khác nhau.

II. Nội dung và hình thức của tác phẩm văn học.

1. Nội dung của tác phẩm văn học.

Nội dung của tác phẩm bắt nguồn từ mối quan hệ giữa văn học và hiện thực. Đó là mối quan hệ nhất định của con người đối với hiện tượng đời sống được phản ánh. Đó vừa là cuộc sống được ý thức, vừa là đánh giá – cảm xúc đối với cuộc sống đó.

Nội dung của tác phẩm văn học là một hiện tượng của đời sống được khai thác bằng nghệ thuật, được chiếu sáng bởi lý tưởng của tác giả, được xuyên suốt bằng vòng tư tưởng của tác giả. (Gulaiép)

Nội dung của tác phẩm văn học không phải là số cộng giản đơn của hai phương diện khách quan và chủ quan mà là một quan hệ biện chứng xuyên thấm lẫn nhau của chúng. Thông thường, lắm khi người ta đồng nhất nội dung tác phẩm với nội dung của đối tượng khách quan mà tác phẩm phản ánh, biến việc phân tích nội dung tác phẩm thành việc phân tích một đối tượng nằm ngoài tác phẩm và ngược lại.

Ví dụ, nội dung tác phẩm Tắt đèn là nỗi bất hạnh của gia đình chị Dậu. Thực chất, đó chỉ là yếu tố của chỉnh thể, biểu tượng về nội dung, chứ không phải nội dung của tác phẩm. Nội dung đích thực của tác phẩm văn học là cuộc sống được lí giải, đánh giá, ước mơ, là nhận thức và lí tưởng, nỗi niềm đã hóa thành máu thịt hiển hiện, chứ không phải khái niệm về hiện thực hoặc khái niệm về lí tưởng và tình cảm.

Chính mối quan hệ chủ quan và khách quan đầy nhiệt tình lí tưởng, trí tuệ tạo thành sự sống sôi động của bản thân tác phẩm. Chính nội dung đó đòi hỏi văn học nghệ thuật phải tạo ra các hình thức của riêng nó là hình thức chủ thể như người trần thuật, nhân vật, nhân vật trữ tình, cái nhìn, giọng điệu. Xây dựng thành công các loại nhân vật là điều kiện để thể hiện nội dung đặc thù của tác phẩm văn học, vì đó là hình thức mang quan hệ giữa đời sống với tác giả, tác giả với người đọc.

Khái niệm nội dung có cơ sở vững chắc từ mối quan hệ mật thiết giữa văn học và hiện thực. Nó bao hàm cả nhân tố khách quan của đời sống và nhân tố chủ quan của nhà văn. Nó vừa là cuộc sống được ý thức, vừa là sự đánh giá cảm xúc đối với cuộc sống đó. Vì vậy, người ta thường nói đến hai cấp độ của nội dung tác phẩm. Cấp độ thứ nhất là nội dung cụ thể (nội dung trực tiếp), khái niệm này nhằm chỉ dung lượng trực cảm của tác phẩm. Đó là sự thể hiện một cách sinh động và khách quan một phạm vi hiện thực cụ thể của đời sống với sự diễn biến của các sự kiện, sự thể hiện các hình ảnh, hình tượng, sự hoạt động và quan hệ giữa các nhân vật, suy nghĩ và cảm xúc của các nhân vật.

Xuyên qua nội dung cụ thể của tác phẩm, ở một cấp độ cao hơn, sâu hơn là nội dung tư tưởng (nội dung khái quát). Đó chính là sự khái quát những gì đã trình bày trong nội dung cụ thể thành vấn đề của đời sống và giải quyết những vấn đề của đời sống ấy theo một khuynh hướng tư tưởng nhất định. Như vậy, có thể nói, nội dung của tác phẩm là toàn bộ những hiện tượng thẩm mĩ độc đáo được phản ánh bằng hình tượng thông qua sự lựa chọn, đánh giá chủ quan của người nghệ sĩ, tức là tiếng nói riêng của nhà văn bao gồm những cảm xúc, tâm trạng, lí tưởng, khát vọng của tác giả về hiện thực đó. Khi nói đến nội dung của tác phẩm, Secnưxepki không chỉ nhấn mạnh việc “tái hiện các hiện tượng hiện thực mà con người quan tâm” mà còn nhấn mạnh đến việc “giải thích đời sống”, “đề xuất sự phán xét đối với các hiện tượng được miêu tả”. Ông viết: “Thể hiện sự phán xét đó trong tác phẩm là một ý nghĩa mới của tác phẩm nghệ thuật, nhờ đó nghệ thuật đứng vào hàng các hoạt động tư tưởng, đạo đức của con người”.

Nội dung của tác phẩm văn học là một quan hệ biện chứng giữa hai phương diện khách quan và chủ quan xuyên thấm lẫn nhau. Nội dung của tác phẩm văn học là cuộc sống đã được ý thức, lí giải, đánh giá và tái hiện trong tác phẩm. Nhà thơ Mai Thánh Du đời Tống (Trung Quốc) đã nói nội dung thơ là cái mà tác giả cảm thụ trong lòng. Nội dung tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao không đơn giản là số phận của một kẻ bị lưu manh hóa trong xã hội thực nửa dân phong kiến mà còn là một lời tố cáo xã hội, một sự trình bày những khát vọng nhân đạo, một sự thức tỉnh đối với người đọc về khả năng thiện tính của con người.

Có thể mượn những câu thơ mở đầu Truyện Kiều của Nguyễn Du để nói về nội dung tác phẩm văn học :

Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu .
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

Chu Mạnh Trinh khi nhận xét về Truyện Kiều cũng cho rằng: “Nếu không phải có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy”. Có thể coi con mắt trông thấy cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời chính là vấn đề của nội dung thì có thể coi cái bút lực ấy lại là một trong những vấn đề thuộc về hình thức tác phẩm.

Như vậy, nội dung tác phẩm không giản đơn là cái hiện thực được miêu tả mà là một quan hệ chủ quan – khách quan gắn bó một cách máu thịt. Nó bộc lộ một quan hệ, một thái độ và một cảm hứng đối với đời sống. Đó là cái nội dung toàn vẹn, phong phú, nhiều bình diện độc đáo của nghệ thuật đòi hỏi phải thể hiện qua hình thức nghệ thuật.

2. Hình thức của tác phẩm văn học.

Hình thức của tác phẩm văn học là một hệ thống các phương tiện và phương thức thể hiện nội dung. Nó được hợp thành bởi nhiều yếu tố: nghệ thuật sử dụng các chất liệu, phương tiện nghệ thuật, các quy định của loại thể, những biện pháp kết cấu, cách xây dựng nhân vật, thể hiện hình tượng… Tất cả đều nhằm mục đích biểu hiện trực tiếp và sinh động nội dung của tác phẩm, tạo thành một dạng tồn tại nhất định của nội dung ấy, qua đó xây dựng tác phẩm thành một chỉnh thể nghệ thuật thống nhất.

Hình thức là sự biểu hiện của nội dung, là cách thể hiện nội dung. Không nên hiểu nó như một cái gì xa lạ bên ngoài nội dung. Đôi khi người ta hiểu giản đơn, chỉ cần có được nội dung viết cái gì thì hình thức viết như thế nào tự khắc nó đến. Hình thức tồn tại trong toàn tác phẩm như là tính xác định của nội dung, sự biểu hiện của nội dung. Ứng với nội dung nhiều cấp độ có hình thức nhiều cấp độ. Không nên quy giản đơn chức năng nội dung hoặc chức năng hình thức vào cho một số yếu tố nào đó của tác phẩm, chẳng hạn hình thức là yếu tố ngoài cùng, còn đề tài tư tưởng là nội dung thuần túy. Ngôn ngữ chẳng những có chức năng hình thức như kiến tạo thể văn, thể loại mà còn có chức năng nội dung.

Biêlinxki cho rằng: “Dù một bài thơ có chứa chất những tư tưởng đẹp đến mấy đi nữa… nhưng nếu trong nó không có tính thơ thì nó cũng chỉ là một dụng ý đẹp đã được thực hiện tồi. Rêpin cũng nói: Ý tưởng anh đẹp đẽ như vậy nhưng anh vẽ tồi thì anh chỉ làm cho người ta ghê sợ và coi rẽ ý tưởng của anh mà thôi”. Như vậy, hình thức là một yếu tố rất quan trọng của tác phẩm nghệ thuật. Ông Phạm Văn Ðồng nhấn mạnh tầm quan trọng của hình thức nghệ thuật: “Giá trị hình thức rất quan trọng. Bởi vì không có giá trị nghệ thuật thì không thể có tác phẩm nghệ thuật được ! Nó là con số không ! Chúng ta đều phải hiểu như vậy”…

Tư tưởng, nội dung tư tưởng phải đúng và nói về mặt yêu cầu thì nó phải một trăm phần trăm nhưng giá trị nghệ thuật cũng cần thiết, đòi hỏi cũng phải trăm phần trăm chứ không phải là năm mươi và năm mươi cộng lại. Bởi vì một tác phẩm không có giá trị nghệ thuật là không có nghĩa gì hết. Nó không phải là một sản phẩm. Cũng như có thể có những đồng chí có tư tưởng tốt lắm, nghĩa là như Lênin nói, khi chết có thể lên thiên đường, nhưng không làm được việc ! Chính những tác phẩm đúng về tư tưởng nhưng không có giá trị nghệ thuật cũng giống như những con người ấy

Nhà văn sáng tạo hình thức phải dùng thủ pháp, phương tiện nghệ thuật. Nhưng thủ pháp, phương tiện được xây dựng một cách trừu tượng cũng chưa phải hình thức. Chất liệu và phương tiện chỉ trở thành hình thức nghệ thuật chừng nào nó trở thành sự biểu hiện của nội dung. Chính vì vậy, hình thức của tác phẩm văn học mang tính cụ thể, thẩm mĩ không lặp lại. Chúng ta có thể lấy thể lục bát để nói, lục bát của Nguyễn Du, của ca dao, của Nguyễn Bính, của Tố Hữu đều không giống nhau. Trong bài Bà Bủ thể lục bát đầy vẻ dân dã, thô mộc, lục bát trong Việt Bắc đã được trau chuốt đến mức tuyệt đỉnh của sự êm ái, réo rắt và hài hòa, nhưng không mất vẻ hồn hậu của tiếng hát đồng quê, lục bát ở Nước non ngàn dặm là khúc trữ tình vừa phóng khoáng, vừa thâm trầm. Là những nhà thơ, mấy ai lại không dùng ví von, nhưng ví von của thơ Tố Hữu, Xuân Diệu, Chính Hữu, mỗi người cũng một khác.

Trong tác phẩm văn học, có hai cấp độ hình thức. Thứ nhất, hình thức cảm tính, tức các biện pháp, thủ pháp, phương tiện mà có thể thống kê, dễ dàng chỉ ra trong tác phẩm, đâu là ẩn dụ, đâu là so sánh, trùng điệp. Những hình thức này có thể xuất hiện như một yếu tố đơn lẻ trong tác phẩm. Thứ hai, hình thức quan niệm, cấp độ sâu hơn của hình thức. Đây chính là khái niệm chỉ hình thức như là phương thức hình thành, xuất hiện của một nội dung nhất định, là quy luật tạo hình thức. Nói cách khác, đó là cái lí của hình thức, tức là cái lí do tạo thành hình thức đó. Khái niệm này còn có cái tên khác như hình thức mang tính nội dung, hay tính nội dung của hình thức. Hình thức quan niệm là cấp độ không dễ dàng nhìn thấy ngay trong tác phẩm. Vì mang tính quan niệm, nên nó biểu hiện bằng sự lặp lại ở các yếu tố cùng loại trong tác phẩm và khi đã lặp lại thì những yếu tố đó sẽ mang nghĩa, tức là cái lí của việc vì sao xuất hiện các yếu tố trùng lặp đó.

Đề tài, tư tưởng là yếu tố nội dung được thể hiện qua toàn bộ thế giới hình tượng như nhân vật, xung đột, cốt truyện, ngôn ngữ. Nhưng mọi đề tài đều có hình thức riêng mang tính lịch sử trong hình tượng, chẳng hạn như tư tưởng tự do của nhân vật Từ Hải. Đó là tự do thoát khỏi thực trạng trói buộc, tự do vẫy vùng cho phỉ chí bình sinh trong vũ trụ, khác rất nhiều với tư tưởng tự do ở phương Tây đương thời, gắn liền với tự do kinh doanh, tự do trong xã hội, tự do cá tính.

Như vậy, hình thức tác phẩm không phải là tổng cộng của các mặt hình thức, mà còn có sự thống nhất quy định, phụ thuộc nhau giữa các mặt hình thức của các yếu tố, các cấp độ của chỉnh thể. Trong đó chẳng những có sự thống nhất hình thức với nội dung, mà còn có sự thống nhất, quy định tùy thuộc nhau giữa các mặt hình thức của các lớp. Sự thống nhất đó tạo nên giá trị thẩm mĩ toàn vẹn của tác phẩm văn học.

3. Mối quan hệ giữa nội dung và hình thức của tác phẩm văn học.

Văn bản văn học cần có sự thống nhất cao giữa nội dung và hình thức, nội dung tư tưởng cao đẹp và hình thức nghệ thuật hoàn mĩ. Đây là ý nghĩa vô cùng quan trọng và cũng là tiêu chuẩn để đánh giá một tác phẩm. Trong quá trình phân tích, ta không chỉ chú trọng nội dung mà bỏ rơi hình thức. Phân tích bao giờ cũng phải kết hợ giữa nội dung và hình thức. Trong đời sống văn chương có những văn bản đạt nội dung coi nhẹ hình thức và ngược lại. Chúng ta cần biết điều này khi tìm hiểu và phân tích văn bản.

Nội dung và hình thức vốn là một phạm trù triết học có liên quan đến mọi hiện tượng trong đời sống. Hình thức tất yếu phải là hình thức của một nội dung nhất định và nội dung bao giờ cũng là nội dung được thể hiện qua một hình thức. Không thể có cái này mà không có cái kia hoặc ngược lại. Tác phẩm nghệ thuật là một hiện tượng xã hội, cho nên trong những tác phẩm nghệ thuật có giá trị, nội dung và hình thức luôn luôn thống nhất khắng khít với nhau.

Đây là vấn đề xưa nay được nhiều người bàn, với những quan niệm khác nhau. Ở đây, ta tìm hiểu vấn đề nội dung và hình thức theo quan niệm nhất quán về bản chất của tác phẩm văn học, coi mỗi tác phẩm là một đơn vị ngôn từ. Theo ý nghĩa triết học thì mọi sự vật và hiện tượng trong vũ trụ đều có nội dung và hình thức của chúng. Nội dung là cái chứa đựng bên trong và hình thức là cái bao bọc bên ngoài. Giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ và tác động qua lại rất biện chứng.

Nói về một tác phẩm có giá trị, Biêlinxki cho rằng: “Trong tác phẩm nghệ thuật, tư tưởng và hình thức phải hòa hợp với nhau một cách hữu cơ như tâm hồn và thể xác, nếu hủy diệt hình thức thì cũng có nghĩa là hủy diệt tư tưởng và ngược lại cũng vậy”. Ở một chỗ khác, ông viết Khi hình thức là biểu hiện của nội dung thì nó gắn chặt với nội dung tới mức là nếu tách nó ra khỏi nội dung, có nghĩa là hủy diệt bản thân nội dung và ngược lại, tách nội dung khỏi hình thức, có nghĩa là tiêu diệt hình thức.

Quan hệ nội dung và hình thức, xét về thực chất, không phải là quan hệ của cái bên trong và bên ngoài, vì như vậy, nội dung và hình thức đã bị tách rời ở hai không gian khác nhau. Trong một bức tường, nội dung và hình thức đều hiện ra ngoài, còn bên trong trống rỗng. Ở đây, nội dung biểu hiện qua hình thức, thấm nhuần trong hình thức. Nội dung quyết định hình thức không có nghĩa là đầu tiên nhà văn sáng tạo toàn bộ nội dung, sau đó sáng tạo toàn bộ hình thức phù hợp. Nội dung quyết định ngay trong ý đồ và cấu tứ đầu tiên, sau đó nội dung tác phẩm cũng lớn lên, hoàn thiện và phong phú thêm cùng hình thức của nó. Heghen đã nói: “Nội dung chẳng phải là cái gì khác, mà chính là chuyển hóa của hình thức vào nội dung, và hình thức cũng chẳng gì khác hơn là sự chuyển hóa của nội dung vào hình thức”.

Rõ ràng, bản chất của tác phẩm văn học là ngôn từ, mà ngôn từ tức là lời nói, là sự vận dụng ngôn ngữ nào đó trong giao tiếp, vận dụng ngôn ngữ có tính cộng đồng thành ra ngôn từ có tính chất cá nhân. Tất cả vì mục đích giao tiếp mà đã là giao tiếp thì phải có nhu cầu thổ lộ một điều gì đó. Vậy nội dung của tác phẩm văn học chính là trả lời câu hỏi tác phẩm nói cái gì với người đọc. Còn khi người đọc tiếp nhận tác phẩm văn học thì cần biết tác phẩm nói điều gì với mình. Bất cứ hình thái ngôn từ nào – dù là bình thường hay văn hoá, nghệ thuật bao giờ cũng nói một điều gì đó của đời sống có tính chất khách quan và một điều gì đó của cá nhân mang tính chất chủ quan.

Bất cứ tác phẩm văn học nào, vì vậy, cũng có nội dung khách quan (hay phương diện khách quan của nội dung) và nội dung chủ quan (hay phương diện chủ quan của nội dung), dù đó là tác phẩm dân gian hay cổ điển, hiện đại. Bất kỳ thể loại nào thuộc bất cứ hình thái lịch sử nào, đã là tác phẩm văn học thì là một dạng ngôn từ, nghĩa là lời nói, mà đã là lời nói thì phải nói một điều gì đó của đời sống khách quan và nói một điều gì đó của chính người nói tức của tác giả. Trừ những tác phẩm mà tác giả không muốn nói với ai, hay chỉ dành cho riêng mình.

Cốt lõi của nội dung thứ nhất (nội dung phản ánh, nội dung hiện thực) ta gọi là chủ đề; còn cái cốt lõi của nội dung thứ hai (nội dung tư tưởng, nội dung biểu hiện) ta gọi là tư tưởng. Tác phẩm nào cũng vừa có chủ đề đồng thời vừa có tư tưởng, đặc biệt phương diện sau. Tư tưởng ở đây cần được hiểu theo nghĩa rộng, thể hiện cách nhìn, quan điểm, quan niệm, thái độ, tình cảm, … của người nói trên nhiều lĩnh vực như chính trị, triết học, tôn giáo, đạo đức, khoa học, nghệ thuật, … Trong tác phẩm, có khi tư tưởng biểu hiện một cách trực tiếp, nhưng phổ biến là biểu hiện một cách gián tiếp thông qua hình tương ngôn từ. Hai mặt cơ bản này của nội dung bao giờ cũng thống nhất với nhau. Nội dung thứ nhất hướng tới cái chân; còn nội dung thứ hai thì hướng tới cái thiện. Và đây là chân, thiện của nghệ thuật nên phải hoà quyện với cái mĩ. Đó là xét về mặt giá trị. Điều này hoàn toàn tuỳ thuộc vào chỗ đứng và quan niệm của mỗi người trong xã hội.

Cần chú trọng đến cái mĩ trong tác phẩm. Sự tồn tại nội dung của tác phẩm không thể và không phải dưới dạng trần trụi. Nội dung phải hiện ra bên trong và qua hình thức. Cái gọi là tư tưởng hay chủ đề là cái ta “trừu xuất” ra bằng tư duy lôgíc. Còn nội dung tác phẩm văn học bao giờ cũng tồn tại trong hình thức. Cho nên, muốn hiểu nội dung thật sự thì phải nắm nội dung qua hình thức, phải qua hình thức để tìm nội dung. Nhất quán với góc nhìn của chúng ta khi coi tác phẩm là một dạng thức của lời nói, hình thức trong trường hợp này trả lời câu hỏi như thế nào? Không thể xem nhẹ vai trò của hình thức trong một công trình nghệ thuật. Tác phẩm văn học nói một điều gì đó với con người về cuộc sống và về tác giả đã hẳn là vô cùng quan trọng, nhưng nói thế nào quan trọng không kém. Thành công hay không, thành công đến mức nào là ở chỗ như thế nào? Nói cái gì chỉ quan trọng khi được thực hiện thế nào? Nếu không có như thế nào thì cũng không thể có cái gì? Nội dung dẫu là chân thực là thánh thiện nhưng nói ra một cách không nghệ thuật thì không đi đến đâu và cũng không để làm gì dưới cái nhìn thẩm mĩ. Ở lĩnh vực này, nếu có nói hình thức nghệ thuật là quyết định thì cũng không có gì là quá đáng. Và trong quan hệ với nội dung của tác phẩm thì hình thức quyết định giá trị nghệ thuật của nội dung. Nội dung chỉ có giá trị khi nội dung đó có hình thức nghệ thuật tương xứng với nó.

Vậy hình thức nghệ thuật dưới cái nhìn bản chất ngôn từ của tác phẩm cụ thể là gồm những yếu tố nào? Có thể thấy ba thành tố. Thứ nhất là thể loại. Thể loại theo quan điểm này chính là vóc dáng chung của tác phẩm với tính cách là đơn vị ngôn từ.

Ngôn từ đó là một câu tục ngữ, một bài ca dao, một thiên truyện cổ, hay một bài thơ, một cuốn truyện, một vở kịch. Bài thơ thì là đoản thiên hay trường thiên, là thơ luật, thơ tự do hay thơ văn xuôi, … Điều ta thấy đầu tiên khi tiếp xúc với văn học là thể loại nhất định của tác phẩm, được xem như là hình dạng chung của lời nói. Người sáng tác muốn thể hiện ý đồ nghệ thuật trước tiên phải chọn thể loại.

Sau khi chọn được thể loại thì tác giả phải cấu tạo lời nói của mình. Bất cứ lời nói nào cũng đều có cấu tạo, đơn giản nhất là một câu tục ngữ thì cũng phải có cấu tạo. Một bài thơ, một thiên tiểu thuyết hiện đại lại càng phải có cấu tạo chung. Người viết phải trình bày diễn biến trước sau của lời nói. Ngôn từ bao giờ cũng có diễn tiến, kết cấu tác phẩm chính là diễn trình của ngôn từ, tức lời nói đi qua chặng đường nào. Nói cái gì trước cái gì sau. Có khi cái diễn ra trước được nói trước, cái diễn ra sau được nói sau.

Cũng có khi ngược lại. Tất cả đều tuỳ thuộc vào ý đồ nghệ thuật, nhằm tạo ra ấn tượng khó quên của lời nói, đã gọi là lời nói thì phải có cái trước, cái sau. Trước sau đó là cấu trúc tạo ra vóc dáng bao quát của nội dung. Nội dung diễn biến ra sao qua diễn trình cụ thể chính là kết cấu của công trình nghệ thuật. Như lí luận truyền thống, kết cấu có kết cấu tình tiết hay không tình tiết, có cốt truyện hay không có cốt truyện, có nhân vật hay không có nhân vật, kết cấu tự sự, kết cấu trữ tình hay kết cấu kịch.

Yếu tố sau cùng của hình thức là phong cách ngôn từ của tác phẩm. Nghĩa là xét xem chính bản thân ngôn từ được thực hiện như thế nào. Suy cho cùng, nhân tố thứ ba này bao trùm lên nhân tố thứ nhất và thứ hai. Ngôn từ trong tác phẩm được khái thác đến mức tối đa mọi sức mạnh vốn có của lời nói, để tạo nên giá trị thực tế trong khả năng của mỗi cá nhân. Đó là lĩnh vực của phong cách ngôn từ, biến ngôn từ thông thường thành ngôn từ nghệ thuật mang dấu ấn riêng của mỗi người.

Cũng cần phải trở lại vấn đề then chốt là sự thống nhất hữu cơ giữa nội dung nghệ thuật và hình thức nghệ thuật của một tác phẩm. Không có nội dung nào lại không tồn tại trong một hình thức nhất định và không có hình thức nào lại không thể hiện một nội dung nào đó. Hình thức yếu kém, non yếu ta gọi là chủ nghĩa sơ lược; còn nội dung yếu kém, trống rỗng ta gọi là chủ nghĩa hình thức. Từng có những trường phái lí luận có dụng ý loại bỏ hai phạm trù này khi nghiên cứu tác phẩm nghệ thuật. Họ cho đây là những khái niệm lí thuyết vô bổ. Họ chỉ thấy cái toàn thể và cái bộ phận trong cấu trúc bên trong của tác phẩm.

Nội dung và hình thức vốn là hai phạm trù triết học có liên quan đến mọi hiện tượng trong đời sống. Không thể có cái này mà không có cái kia hoặc ngược lại. Tác phẩm nghệ thuật là một hiện tượng xã hội, cho nên trong những tác phẩm nghệ thuật có giá trị, nội dung và hình thức luôn luôn thống nhất khắng khít với nhau.

Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức được biểu hiện ở hai mặt: nội dung quyết định hình thức và hình thức phù hợp nội dung. Trong mối tương quan giữa nội dung và hình thức, nội dung bao giờ cũng đóng vai trò chủ đạo. Nó là cái có trước, thông qua ý thức năng động và tích cực chủ quan, nghệ sĩ cố gắng tìm một hình thức phù hợp nhất để bộc lộ một cách đầy đủ, hấp dẫn nhất bản chất của nó. Nhà văn Xô Viết Lêônốp cho rằng: “Tác phẩm nghệ thuật đích thực, nhất là tác phẩm ngôn từ, bao giờ cũng là  một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”.

Như vậy, sự phù hợp hình thức và nội dung phải được xem xét trong hiệu quả phản ánh những chân lí sâu sắc của đời sống, biểu hiện nổi bật tinh thần thời đại. Chỉ trong tương quan đó, sự thống nhất nội dung và hình thức mới thật sự mang lại những giá trị lớn lao cho kho tàng văn nghệ dân tộc và thế giới.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.