Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

phan-tich-bai-tho-viet-bac-cua-to-huu

Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu

  • Mở bài:

Tố Hữu là lá cờ đầu của nền thơ cách mạng Việt Nam hiện đại. Ông dành trọn cuộc đời cho sự nghiệp thơ ca cách mạng, có những cống hiến quan trọng đối với tiến trình phát triển của nền thi ca Việt Nam thế kỉ XX. Các chặng đường thơ của Tố Hữu gần như song hành với các giai đoạn đấu tranh cách mạng của đất nước khiến thơ ông mang tính biên niên sử với nội dung trữ tình-chính trị đậm nét. Bài thơ Việt bác ra đời tháng 10 – 1954. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thắng lợi, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ từ biệt căn cứ địa cách mạng Việt Bắc trở về Hà Nội. Cuộc chia tay lịch sử trọng đại ấy của dân tộc đã khơi nguồn cảm hứng cho Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc”.

  • Thân bài:

Việt Bắc là căn cứ địa vững chắc của cách mạng Việt Nam từ đầu những năm 40 tới khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp. Nơi đây, người dân Việt Bắc đã từng che chở, đùm bọc và đã sát cánh bên bộ đội, cán bộ kháng chiến để giành và bảo vệ nền độc lập của dân tộc.

Bao trùm tác phẩm là cảm hứng ngợi ca nghĩa tình cách mạng thủy chung, son sắt giữa đồng bào chiến khu với cán bộ kháng chiến, quân với dân, miền ngược với miền xuôi…Qua đó, nhà thơ khám phá, ngợi ca vẻ đẹp của nhân dân, đất nước anh dũng, kiên cường mà ân nghĩa, thủy chung. Toàn bộ bài thơ là một niềm hoài niệm lớn. Hoàn cảnh sáng tác bài thơ đã tạo nên sắc thái tâm trạng đặc biệt xúc động bâng khuâng, day dứt khôn nguôi của người đi kẻ ở. Đây là cuộc chia tay lịch sử của những người đã từng sống và gắn bó suốt 15 năm gian khổ mà biết bao nghĩa tình. Việt Bắc đã trở thành máu thịt của người cách mạng nên cuộc chia tay này là chia tay với chính lòng mình.

24 câu thơ đầu: Tình cảm son sắt của người dân Việt Bắc với kháng chiến cũng như sự thủy chung của những người kháng chiến với quê hương cách mạng.

“Mình về mình có nhớ ta?
…….
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…”

Bốn câu thơ đầu là khúc dạo đầu ân tình thủy chung và niềm trăn trở nhớ thương của người ở lại với người ra đi.

– Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.

Nội dung chủ yếu của hai cặp câu lục bát này chính là những nỗi niềm da diết được thể hiện trong hai câu hỏi:

– “Mình về mình có nhớ ta?”
– “Mình về mình có nhớ không?”

“Mình” và “ta” là những đại từ nhân xưng quen thuộc trong ca dao xưa, là cách xưng hô bình dị, thương mến vô cùng của tình yêu đôi lứa. Hai câu hỏi trong đoạn mở đầu đã gợi nhắc tới những câu ca dao nói về cảnh chia tay bịn rịn nhớ nhung của lứa đôi: “Mình về có nhớ ta chăng – Ta về ta nhớ hàm răng mình cười”, hay “Mình về ta chẳng cho về – Ta nắm vạt áo ta đề câu thơ”; “Mình về ta dặn câu này – Dặn dăm câu nhớ, dặn vài câu thương”; “Mình về có nhớ ta chăng – Ta như lạt buộc khăng khăng nhớ mình”.

Tố Hữu đã mượn một hình thức ngôn từ quen thuộc của văn hóa dân gian để gửi gắm những nội dung tình cảm lớn lao của thời đại mới; những câu ca ngọt ngào của tình yêu đã trở thành những câu hỏi xao xuyến của nghĩa tình cách mạng, thể hiện nỗi nhớ nhung của người ở lại với người về xuôi.

Đoạn thơ sử dụng phép lặp quen thuộc trong ca dao xưa khiến nỗi nhớ trở nên miên man, da diết, không thể nguôi ngoai; cũng đồng thời tạo nên âm hưởng day dứt, trăn trở góp phần thể hiện một trong những cảm hứng chủ đạo của bài thơ: liệu những người chiến thắng có giữ được tấm lòng chung thủy, có mãi nhớ tất cả những gì đã góp phần làm nên chiến thắng?

Hai câu thơ lục bát có tới 4 chữ “mình” và chỉ có một chữ “ta”. Tương quan ngôn từ ấy đã đem lại cảm giác hình ảnh người ra đi tràn ngập không gian, đầy ắp trong nỗi nhớ của người ở lại, cũng đồng thời gợi một chút đơn côi, lặng thầm cho hình ảnh người ở lại nơi núi rừng hoang vắng, hắt hiu….

Nỗi niềm người ở lại được thể hiện trước hết trong câu hỏi hướng về thời gian:

“Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”

Trong tiếng Việt, đại từ “ấy” luôn khiến những danh từ chỉ thời gian đứng trước nó bị đẩy về một quá khứ thật xa xăm, trở thành khoảng thời gian gợi nỗi nhớ thương, ngậm ngùi, tiếc nuối. Trong câu thơ của “Việt Bắc”, “mười lăm năm ấy” là khoảng thời gian từ “khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh” (1941-1945), và sau đó là những năm tháng kháng chiến chống Pháp (1946-1954), là khoảng thời gian Việt Bắc trở thành căn cứ địa của cách mạng, trở thành Thủ đô gió ngàn, đó là thời gian mà “ta” và “mình” từng gắn bó, chia ngọt sẻ bùi với biết bao nhiêu tình sâu nghĩa nặng, biết bao nhiêu “thiết tha mặn nồng”.

Nếu câu hỏi thứ nhất “Mình về mình có nhớ ta?” làm xao xuyến lòng người khi phảng phất bóng dáng những câu ca về tình yêu thì câu hỏi thứ hai “Mình về mình có nhớ không?” lại khiến người nghe trăn trở suy ngẫm vì sự tha thiết, nghiêm nghị trong giọng điệu thơ.

Câu hỏi thứ hai này hướng tới không gian:

“Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”

Hai vế của câu thơ đan xen những hình ảnh của cả miền xuôi như “cây”, “sông” và miền núi như “núi”, “nguồn”. Hoàn cảnh chia xa, nỗi nhớ và sự gắn bó khăng khít đã hiện ngay trong cả chia tách và đan xen hòa quyện của ngôn từ.

“Nhìn cây”, “nhìn sông” là những hình ảnh nhắc tới một thực tế chắc chắn trong tương lai khi người kháng chiến đã về xuôi, đã sống với quê hương, với đồng bằng, vì thế cũng có thể coi là biểu tượng cho việc trở về của người kháng chiến với chốn đô hội phồn hoa;

Còn “nhớ núi”, “nhớ nguồn” là để tâm hồn trở về với quá khứ, với Việt Bắc, điều này có xảy ra hay không còn tùy thuộc vào sự thủy chung của người ra đi. Câu thơ thể hiện mối tương quan giữa thực tế và mong đợi khiến những vế câu như tiềm ẩn một chữ “có” trăn trở: nhìn cây có nhớ núi, nhìn sông có nhớ nguồn, về xuôi rồi có còn nhớ Việt Bắc…?

Trong câu hỏi thứ hai, bên cạnh nỗi nhớ nhung, niềm trăn trở của người ở lại, ý thơ còn đem đến những suy ngẫm sâu xa về nghĩa tình, đạo lí, về cội nguồn chung thủy, về nét đẹp trong đời sống tinh thần của một dân tộc luôn nhắc nhau: uống nước nhớ nguồn. Đây cũng là một lẽ sống cao cả, một tình cảm lớn đã nhiều lần xuất hiện trong thơ Tố Hữu (Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay – Ra sông nhớ suối, có ngày nhớ đêm).

Nhà thơ rất khéo léo trong việc thể hiện ân tình ân nghĩa ấy dưới hình thức đối đáp của hai nhân vật “mình” – “ta” đậm đà nghĩa tình của ca dao. Bên hỏi – bên đáp; người tỏ bày – kẻ hưởng ứng tưởng rất riêng tư nhưng lại hóa thành vấn đề lớn của dân tộc, đó là mối quan hệ nghĩa tình gắn bó, thủy chung của nhân dân Việt Bắc với Đảng, Bác Hồ và chiến sĩ cách mạng. Lời đối đáp uyển chuyển, giao hòa thành lời đồng vọng trong tâm hồn mỗi người vì cả hai đều là người kháng chiến.

Sáng tạo hai đại từ “mình” – “ta” là một thủ pháp nghệ thuật độc đáo, tài hoa của Tố Hữu. “Mình” – “ta” là sự phân đôi và thống nhất của chủ thể trữ tình. “Mình” là “ta”, “ta” là “mình”, là nhân dân kháng chiến, là chiến sĩ cách mạng, là nhà thơ đã thâm nhập, chuyển hóa vào lời độc thoại, đối thoại diễn tả cảm xúc, tình cảm chung của tất cả những người tham gia kháng chiến: những kỉ niệm, mong ước, xúc động, băn khoăn, dằn vặt giữa cái đã qua và cái sắp tới, giữa phần đi và phần ở trong mỗi con người. Đoạn trích sau nằm trong cấu tứ ấy.

Bốn câu tiếp – cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi lưu luyến nhớ nhung của người đi, kẻ ở:

– Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

Câu thơ đầu nhắc tới “Tiếng ai tha thiết bên cồn” cho thấy những nhớ nhung xao xuyến, những day dứt trăn trở trong lòng người ở lại đã được người ra đi thấu hiểu, cảm nhận.

“Ai” chính là người ở lại, nhưng tính chất phiếm chỉ đã đem lại cảm giác những câu hỏi tha thiết ở 4 câu đầu là tiếng của ai đó chưa nhìn rõ mặt, mới chỉ như những âm thanh vọng từ cỏ cây, núi rừng Việt Bắc, là “tiếng lòng” của người ở lại, tuy nhiên, sự tri âm tri kỉ, “đồng thanh tương ứng” đã khiến họ thấu hiểu lòng nhau, người ở lại “thiết tha”, người ra đi “tha thiết”, hô ứng, đồng cảm, đồng vọng.

Những âm thanh ấy cứ quấn quít, vương vấn theo từng bước chân khiến người đi: “Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi”. “Bâng khuâng” là từ láy gợi ra những trạng thái cảm xúc mơ hồ khó tả bởi sự đan xen buồn vui, luyến tiếc, nhớ nhung khiến con người như ngơ ngẩn. “Bồn chồn” là tâm trạng thấp thỏm nôn nao khiến con người không yên, tuy cũng là từ láy miêu tả trạng thái cảm xúc nhưng “bồn chồn” nhiều khi không dừng lại ở những nỗi niềm trong tâm tưởng mà còn có thể ngoại hiện trong ánh mắt, dáng vẻ, hành động… Vì thế, câu thơ không chỉ thể hiện nỗi bịn rịn, nhớ nhung trong lòng mà còn gợi tả cả những bước chân ngập ngừng, lưu luyến của người đi.

Trong giờ phút chia li, nếu “tiếng ai” là những âm thanh mơ hồ vì thực ra nó là tiếng lòng người ở lại, là tiếng vọng từ trong tâm tưởng, trong cảm nhận của người ra đi thì hình ảnh chiếc “áo chàm” lại cụ thể đến nao lòn“Áo chàm đưa buổi phân li”. Đây là biểu tượng đơn sơ mà xúc động về những người dân Việt Bắc nghèo khổ, nghĩa tình. Sắc áo chàm có thể nhòa mờ trong khói sương rừng núi nhưng sẽ vĩnh viễn in đậm trong nỗi nhớ thương của người về xuôi.

Hình ảnh hoán dụ về chiếc “áo chàm” vừa gợi ra trang phục đặc trưng của người Việt Bắc vừa khắc họa tính cách mộc mạc, tấm lòng son sắt của họ với cách mạng, với kháng chiến. Câu thơ đồng thời cho thấy sự xót xa và niềm cảm phục, thương mến của người đi với những người Việt Bắc. Những nỗi niềm lưu luyến trong cảnh chia tay được thể hiện rõ nét trong cử chỉ “cầm tay nhau” chứa chan ân tình xúc động; trong sự lặng im vì “biết nói gì hôm nay”, khi mọi lời nói đều bất lực, đều không thể diễn tả những nỗi niềm đang dâng trào mãnh liệt.

Sự ngập ngừng đặc biệt hiện ra trong nhịp thơ 3/3/2 bồn chồn day dứt thay thế cho nhịp chẵn êm đềm thông thường của thể thơ lục bát: “Cầm tay nhau, biết nói gì hôm nay”. Cử chỉ “cầm tay nhau” thân thương, trìu mến cho đến cả sự im lặng không lời đầy xúc động…

Bốn câu thơ vừa là sự đồng vọng, nhớ nhung của người về xuôi với người ở lại, vừa tái hiện cảnh tiễn đưa bịn rịn, lưu luyến sâu nặng nghĩa tình trong ngày chiến thắng.

Những nỗi niềm băn khoăn trăn trở của người ở lại tiếp tục thể hiện trong 6 câu hỏi của đoạn thơ 12 câu tiếp theo (từ câu “Mình đi, có nhớ những ngày” đến câu “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”):

– Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

Nếu hai câu hỏi ở phần đầu mới chỉ gợi ra hình ảnh khái quát của quá khứ “mười lăm năm ấy” với những gắn bó thiết tha, của chiến khu Việt Bắc với “núi” với “nguồn” thân thuộc thì những câu hỏi trong đoạn thơ sau đã hướng tới những kỉ niệm thật cụ thể, xúc động.

Đoạn thơ gồm 6 câu hỏi của người ở lại với người ra đi, những câu hỏi dồn dập, gấp gáp bởi nỗi nhớ trào dâng khi giờ phút chia tay đang đến gần. Sự đắp đổi nhịp nhàng trong điệp ngữ ở các câu 6 “Mình đi có nhớ…. Mình về có nhớ….; sự đăng đối trong hai vế của các câu 8 với nhịp 4/4, đó là những yếu tố tạo nên nhạc điệu ngân nga, dìu dặt ngọt ngào cho đoạn thơ. Nhịp điệu trữ tình ấy đã góp phần thể hiện tinh tế nỗi vấn vương xao xuyến giăng mắc trong lòng kẻ ở lẫn người đi để từ đó, quá khứ đầy ắp kỉ niệm ào ạt trở về.

Trong những lời nhắc nhở da diết của người ở lại với người ra đi, Việt Bắc hiện lên thật sống động từ những khắc nghiệt của thiên nhiên với “mưa nguồn”, “suối lũ”, “lau xám”, “mây mù”…tới cuộc sống kháng chiến gian khổ, thiếu thốn với “miếng cơm chấm muối”, từ những trang sử hào hùng “khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh”, tới những sự kiện trọng đại của cách mạng và kháng chiến nơi “Tân Trào, Hồng Thái…”.

Những câu hỏi tha thiết của người ở lại đã làm rõ cội nguồn tạo nên sự gắn bó sâu nặng giữa “mình” và “ta”, giữa đồng bào Việt Bắc và những người kháng chiến. Họ đã cùng nhau chia sẻ từ những gian khổ thiếu thốn khi nhường nhau “miếng cơm chấm muối” đến những tâm tư nỗi niềm khi chung nhau “mối thù nặng vai”; họ đã sát cánh bên nhau trong những năm tháng ác liệt hào hùng từ thời Mặt trận Việt Minh tới 9 năm kháng chiến chống Pháp…Sự chia sẻ trong quá khứ tạo nên sự gắn bó trong hiện tại và nghĩa tình thủy chung trong tương lai. Gian truân vất vả chỉ càng làm ngời lên vẻ đẹp trong tâm hồn của những người dân Việt Bắc nghèo khổ mà sắt son, trung hậu, nghĩa tình, một lòng với cách mạng và kháng chiến.

Những gắn bó ân tình suốt “mười lăm năm ấy” đã làm tăng thêm nỗi nhớ nhung và cảm giác trống vắng cho núi rừng khi chia biệt:

“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già”

Câu 6 vẫn mang hình thức của một câu hỏi nhưng không dùng để hỏi người đi mà chỉ để thể hiện nỗi lòng người ở lại. “Rừng núi” là hoán dụ cho người dân Việt Bắc ở lại nơi rừng xanh núi đỏ heo hút, hoang sơ, “ai” chính là “mình”, người ra đi. Nỗi nhớ nhung và một chút mặc cảm ngậm ngùi được bộc lộ gián tiếp qua cách nói tránh và cấu trúc câu nghi vấn khiến ý thơ càng thêm xao xuyến. Tính chất phiếm chỉ khiến hình ảnh người đi càng trở nên xa xôi hơn trong ánh mắt nhớ nhung của những người dân Việt Bắc mộc mạc, chân thành.

Câu 8 gồm hai vế đối xứng nhắc đến “trám bùi” và “măng mai” là những sản vật quen thuộc và quí giá của núi rừng. Phép điệp trong cấu trúc “để rụng…để già” gợi lên hình ảnh cuộc sống như ngưng trệ, núi rừng như hoang phế sau lưng người đi cùng cảm giác buồn bã, hẫng hụt, trống trải trong lòng người ở lại. Dường như sau khi người ra đi, trám bùi trên cây không ai hái, rụng xuống đất không ai nhặt, măng mai để già hoang phí giữa rừng sâu – người ra đi đã để lại một khoảng trống mênh mông trong lòng người Việt Bắc giữa heo hút núi rừng.

Sự gắn bó khiến họ thêm hiểu nhau, thêm thương cảm và trân trọng:

“Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”

Là một lời nhắc nhở cảm động với người ra đi: xin đừng ba giờ quên những con người nghèo khổ mà son sắt kiên trung, một lòng đi theo cách mạng và kháng chiến.  Phép tương phản trong hai tiểu đối của câu 8 đã trở thành những nét khắc họa đặc trưng nhất cho cuộc sống và con người Việt Bắc. “Hắt hiu lau xám” vừa là hình ảnh thực gợi tả không gian hoang vắng, tiêu sơ, buồn bã của núi rừng, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ cho cuộc sống nghèo khổ của người dân nơi đây. “Nhà” là hoán dụ cho con người, “đậm đà lòng son” là hình ảnh ẩn dụ ca ngợi tấm lòng trung hậu, nghĩa tình của những người dân Việt Bắc nghèo khổ. Và có lẽ chính màu lau xám hắt hiu của núi rừng càng làm đậm thêm những tấm lòng son sắt, thủy chung.

Câu thơ “Mình đi, mình có nhớ mình” có nhiều cách hiểu căn cứ vào những nét nghĩa khác nhau của từ “mình” ở cuối câu thơ. Có thể hiểu chữ “mình” ấy là “ta”- người ở lại, khi ấy, câu hỏi sẽ xao xuyến một nỗi nhớ nhung, day dứt một niềm trăn trở: mình về, mình có nhớ ta – mình đi, mình có còn nhớ đến ta không, đây cũng là nỗi niềm da diết trong suốt bài thơ. Cách hiểu này cho thấy sự hòa nhập gắn kết thật đằm thắm giữa “ta” và “mình”, tuy hai mà một, không thể chia xa, không thể tách rời.

Lại cũng có thể hiểu “mình” là người ra đi. Và khi ấy, câu hỏi sẽ là một lời nhắc nhở tha thiết, sâu xa và nghiêm nghị: “mình” đi, “mình” có nhớ và có giữ được mãi là con người “mình” ngày xưa ấy, con người mà “ta” đã yêu mến, trân trọng, nhớ thương; có mãi còn là con người bất khuất, nghĩa tình thủy chung nhân hậu đã sát cánh bên “ta” trong kháng chiến, đã cùng “ta” chia ngọt sẻ bùi trong suốt “mười lăm năm ấy”? Câu hỏi vì thế cũng trở thành lời nhắc: đừng đánh mất chính con người mình trong cuộc sống phồn hoa đô hội, đừng bao giờ quên mảnh trăng giữa rừng khi đã trở về với ánh đèn thành phố, đừng bao giờ quên những năm tháng kháng chiến gian khổ, hào hùng khi trở về với cuộc sống hòa bình.

Sau câu hỏi “Mình đi, mình có nhớ mình”, câu 8 khẳng định lại một lần nữa tấm lòng gắn bó sắt son của Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến, lí do của tình yêu, nỗi nhớ và đạo lí thủy chung trong lòng người đi:

“Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa?”

Câu thơ đã được nhà thơ gửi gắm những tầng nghĩa sâu sắc khi “Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” được tách ra trong hai vế với những tập hợp ngôn từ mới mẻ. Vế thứ nhất là hai danh từ riêng: “Tân Trào”, “Hồng Thái”, đó là những địa danh gắn liền với những sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc và kháng chiến: đình Hồng Thái là nơi họp Quốc dân Đại hội 8/1945, thành lập ủy ban dân tộc giải phóng và phát lệnh Tổng khởi nghĩa; bên gốc đa Tân Trào, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã làm lễ xuất phát chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa. Vế sau là hai danh từ chung trong đó “mái đình, cây đa” chính là những hình ảnh bình dị, quen thuộc của làng quê Việt Nam, là nơi tụ họp, hẹn hò, là không gian gần gũi thân yêu với cả cộng đồng và đôi lứa.

Hai tiểu đối trong câu thơ đã thể hiện sự gắn bó sâu sắc của người dân với cách mạng và kháng chiến: khi Việt Bắc trở thành quê hương cách mạng, khi người dân Việt Bắc một lòng đi theo cách mạng thì những sự kiện lớn lao của cách mạng sẽ trở thành sự quan tâm sâu sắc, thiêng liêng, thành những tâm tư sâu nặng trong lòng người; những địa danh gắn với các sự kiện quan trọng của cách mạng và kháng chiến cũng trở nên gần gũi như cây đa, bến nước, con đò, tình cảm của người dân Việt Bắc dành cho những người kháng chiến cũng trở nên thân yêu như tình làng nghĩa xóm hay tình yêu lứa đôi…

Bốn câu cuối đoạn:

– Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…

Câu thơ đầu gồm hai tiểu đối trong đó nhà thơ sử dụng phép lặp đan xen giữa “ta” – “mình” cùng từ “với” như một thứ keo gắn kết “Ta với mình, mình với ta”. Kết cấu ngôn ngữ đặc sắc ấy đã gợi tả sự quấn quít, giao hòa giữa người đi, kẻ ở khăng khít không thể tách rời.

Sau câu thơ thể hiện sự gắn bó thân thiết giữa “mình” và “ta” là một lời khẳng định sắt son của người ra đi: “Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”. Nghĩa tiếng Hán của cụm từ “sau trước” chính là “thủy chung”, sống có trước có sau là đạo lí thủy chung truyền thống của người Việt Nam từ bao đời nay. Nhưng với những ý nghĩa của cụm từ “sau trước”, ý thơ không chỉ khẳng định sự thủy chung mà còn lí giải sự thủy chung một cách sâu xa, thuyết phục.

“Sau – trước” còn gợi một khoảng thời gian dài từ trước đến sau, từ quá khứ qua hiện tại đến tương lai, “thức lâu mới biết đêm dài”, thời gian khiến con người thêm hiểu lòng nhau. Khi đã có những năm tháng gắn bó trong quá khứ, khi cùng nhau chung vai gánh vác những khó khăn gian khổ, cùng nhau chia sẻ những tâm tình, tình cảm giữa họ thêm “mặn mà” đằm thắm; “đinh ninh” là chắc chắn, là không quên, không đổi, tình cảm đã mặn mà trong quá khứ sẽ mãi bền chặt theo thời gian, không bao giờ nhạt phai, thay đổi.

Hai câu cuối như một lời thề chung thủy:

“Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…”

Nếu người ở lại băn khoăn, trăn trở trong một câu hỏi hàm chứa bao ý nghĩa sâu xa: “mình đi, mình có nhớ mình” thì người đi cũng trả lời trong một sự hô ứng, đồng vọng, đồng cảm: “Mình đi, mình lại nhớ mình”.

Đại từ “mình” ở cuối câu thơ với nhiều nét nghĩa: nếu hiểu “mình” là người ở lại, câu trả lời của người đi thể hiện nỗi nhớ nhung tha thiết của những con người có sự gắn bó, hòa nhập sâu sắc bởi “ta với mình” tuy một mà hai!; nếu hiểu “mình” là người đi, câu thơ sẽ là lời khẳng định: ánh đèn thành phố và cuộc sống hòa bình sẽ không bao giờ có thể khiến người trở về quên “vầng trăng tình nghĩa”, không bao giờ quên quá khứ đẹp đẽ, nghĩa tình, càng không bao giờ đánh mất chính mình, không bao giờ phụ tình yêu thương của Việt Bắc.

Câu 8 xuất hiện một hình ảnh so sánh phảng phất phong vị ca dao “đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu”. Hình ảnh “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu…” trước hết đã nhấn mạnh sắc thái và mức độ của nỗi nhớ. Nỗi nhớ vốn là một khái niệm trừu tượng, nay được cụ thể hóa, được định lượng, hiện hữu như nước trong nguồn, đầy ắp, lặng thầm và vô tận; sau nữa, hình ảnh nước trong nguồn còn gợi những suy ngẫm sâu xa về nguồn cội, về đạo lí thủy chung tình nghĩa “uống nước nhớ nguồn”, hình ảnh so sánh trong câu thơ còn như thầm đáp lại sự trăn trở của Việt Bắc: “Mình về mình có nhớ không – Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”.

Đoạn thơ từ câu 25 đến câu 42: Nỗi nhớ sâu sắc của người ra đi với thiên nhiên, con người Việt Bắc, với cuộc sống sinh hoạt thời kháng chiến:

“Nhớ gì như nhớ người yêu
……..
Chày đêm nện cối đều đều suối xa… “

Trong đoạn thơ, thiên nhiên và con người Việt Bắc đã hiện lên với những sắc màu, dáng vẻ thân thuộc, đẹp đẽ và bình dị, thấm đượm tình thương nỗi nhớ của người đi.

Nỗi nhớ được so sánh với nhớ người yêu: Nỗi nhớ mãnh liệt và da diết. Từ nỗi nhớ như nhớ người yêu, Việt Bắc hiện lên với những nét đẹp rất riêng: Trăng đầu núi, nắng lưng nương cùng những tên gọi, địa danh cụ thể. Điệp từ “nhớ từng” lặp đi lặp lại làm cho nỗi nhớ thêm da diết. Trong kí ức của người đi còn in dấu khoảnh khắc thời gian (trăng đấu núi, nắng chiều lưng nương), từng khoảng không gian của cây, sông, suối (Nhớ từng rừng nứa… vơi đầy). Vẻ đẹp thiên nhiên nên thơ sẽ còn đọng mãi trong nỗi nhớ nhung của người ra đi.

Tuy nhiên, da diết và đậm sâu hơn cả vẫn là nỗi nhớ về con người, về ân tình Việt Bắc: bình thường, giản dị mà ân nghĩa thủy chung. Nhớ Việt Bắc là nhớ đến tấm lòng biết sẻ chia: bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng. Nhớ đến nghĩa tình:người mẹ địu con, bẻ từng bắp ngô. Nhưng cũng là nhớ đến đồng chí, đồng đội với bao gian nan vất vả: Nhớ sao… núi đèo. Việt Bắc vì thế tuy gian khổ, vất vả nhưng trong kí ức vẫn thanh bình, đẹp đẽ: Nhớ sao tiếng mõ … suối xa

Đoạn thơ đủ sức gợi ra thật rõ nét và thấm thía khung cảnh bản làng, tình người, tình quân dân của chiến khu những năm kháng Pháp với tất cả những dáng nét, âm thanh, không khí, tâm tình. Những câu thơ cất lên nghe sao trìu mến, nói về mẹ, về trẻ thơ, về người thương yêu dấu.

Bức tranh tứ bình từ câu 43 đến câu 52: Đây là đoạn thơ đặc sắc nhất thể hiện sinh động và thấm thía nỗi nhớ nhung tha thiết đối với thiên nhiên và con người của người ra đi với cảnh và người Việt Bắc.

“Ta về, mình có nhớ ta
……
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”

Nghĩa tình quân dân tha thiết thổ lộ qua những câu thơ thắm đượm sắc màu:

“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”

Đây là câu hỏi đầu tiên từ phía người ra đi, một câu hỏi ngọt ngào, phảng phất hương vị của tình yêu; có thể thấy người ra đi hỏi mà không chờ lời đáp, không có sự trăn trở, hỏi chỉ để bộc lộ nỗi bồi hồi, xao xuyến lúc chia xa. Và có lẽ cũng vì thế mà ngay sau câu hỏi đã là lời khẳng định: “Ta về, ta nhớ những hoa cùng người”. Hai câu thơ đầy ắp những “ta” và “mình”, những “mình nhớ”, “ta nhớ”… Nếu cách xưng hô “mình – ta” thể hiện mối quan hệ thân thiết, gắn bó, thì yếu tố điệp của ngôn từ cũng cho thấy hình ảnh họ cũng đầy ắp trong lòng nhau và nỗi lưu luyến cứ giăng mắc như tơ vương quấn quýt.

Nỗi nhớ của người đi hướng tới “hoa cùng người”. Hoa có thể hiểu theo nghĩa cụ thể với “hoa chuối đỏ tươi”, với hoa “mơ nở trắng rừng”…, nhưng cũng có thể hiểu “hoa” là hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên, cảnh sắc nơi núi rừng Việt Bắc. Khi ra đi, người kháng chiến da diết nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Hai đối tượng ấy không thể tách rời mà luôn hòa quyện, gắn bó, và trong 8 câu thơ sau, cứ một câu nói về nỗi nhớ với thiên nhiên lại tiếp đến một câu bộc lộ nỗi nhớ với con người. Kết cấu này khiến đoạn thơ mang bóng dáng của thể “hứng” trong ca dao “trên trời có đám mây xanh…”. Nhưng nếu trong ca dao, cảnh chủ yếu để tạo cảm hứng cho tình – tức cảnh sinh tình, thì trong đoạn thơ của Việt Bắc, cảnh vừa là nền cho con người xuất hiện, vừa là một phần trong nỗi nhớ của người ra đi bên cạnh nỗi nhớ sâu đậm với con người.

Tám câu sau là bức tranh thiên nhiên và con người Việt Bắc trong nỗi nhớ của người ra đi:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Có thể coi tám câu thơ này là một bộ tứ bình đặc sắc của núi rừng Việt Bắc. Tuy nhiên khác với những bộ tứ bình truyền thống tả cảnh theo trình tự xuân – hạ – thu – đông, bốn mùa của Việt Bắc hiện ra trong hai thời điểm của quá khứ và hiện tại. Mùa đông, mùa xuân, mùa hạ là những cảnh sắc hiện lên trong hoài niệm về quá khứ khi thời gian đã sàng lọc để ký ức chỉ còn lưu giữ lại những ấn tượng sâu sắc, đẹp đẽ nhất. Mùa thu là bức tranh cuối cùng trong bộ tứ bình. Cảnh thu không chỉ là cảnh sắc thơ mộng của thiên nhiên mà còn là mùa thu hòa mình trong hiện tại, là mùa thu chia ly với bao vấn vương, lưu luyến.

Trong nỗi nhớ của người ra đi, thiên nhiên Việt Bắc hiện lên rất bình dị, gần gũi, mỗi mùa có một vẻ đẹp riêng. Màu sắc trong bộ tứ bình khi rực rỡ chói chang, khi thơ mộng, dịu mát. Cảnh tượng trong bộ tứ bình lúc tươi tắn rộn ràng, lúc lại hắt hiu, trống vắng. Bức tranh tứ bình có cảnh ngày với nắng vàng, với hoa mơ trắng lại có cả cảnh đêm với ánh trăng thu… Và trong bộ tứ bình tuyệt đẹp của núi rừng Việt Bắc, thiên nhiên luôn hòa quyện, gắn bó với con người.

Mở đầu là bức tranh của mùa đông Việt Bắc:

“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”

Hai câu thơ vừa mở rộng không gian nghệ thuật với “rừng xanh”, vừa đưa không gian ấy lên chiều cao ngút ngàn của đèo núi. Trên nền xanh mênh mông của rừng đại ngàn là sắc “đỏ tươi” của hoa chuối. Màu đỏ tươi nổi bật trên nền xanh vừa tạo cảm giác chói chang ấm áp, xua đi cái lạnh lẽo của núi rừng mùa đông, vừa cồn cào như một sự vẫy gọi, níu bước chân người. Ánh nắng trên đèo cao vừa làm khu rừng sáng và ấm hơn, bức tranh thiên nhiên cũng được mở rộng phóng thoáng hơn.

Sự phối hợp khéo léo giữa ánh sáng và sắc màu khiến bức tranh mùa đông càng trở nên rực rỡ: màu xanh thăm thẳm của rừng sâu, màu đỏ tươi tắn của hoa chuối, màu vàng ấm áp của nắng mùa đông, và đặc biệt là ánh phản quang của nắng trên nước thép sáng loáng của con dao người đi rừng. trong nỗi nhớ nhung của người về xuôi, sự khắc nghiệt của mùa đông nơi núi rừng Việt Bắc đã hoàn toàn được thay thế bằng vẻ đẹp thơ mộng, hhùng vĩ và đấy sức níu kéo.

Trên nền thiên nhiên khoáng đạt ấy là hình ảnh con người với “dao gài thắt lưng”. Sự xuất hiện của con người càng làm tăng thêm vẻ đẹp ấm áp thơ mộng cho mùa đông Việt Bắc. Người dân Việt Bắc hiện ra trong một nét vẽ đơn sơ mà đầy ấn tượng, một bút pháp chấm phá trong hội họa. Với con dao đi rừng lấp lóa gài ngang lưng, với vóc dáng lồng lộng trên đèo cao đầy nắng, tầm vóc con người như lớn lao mạnh mẽ rắn rỏi hơn giữa núi rừng hùng vĩ, làm tăng thêm sự cảm phục, ngưỡng mộ và yêu mến vô cùng trong lòng người ra đi.

Tiếp theo là bức tranh mùa xuân:

“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”

Nếu mùa đông Việt Bắc những lúc chói chang ấm áp thì thiên nhiên mùa xuân lại được miêu tả trong những gam màu dịu mát trẻ trung. Toàn bộ bức tranh xuân là những màu trắng. Cụm từ “trắng rừng” đem đến ấn tượng về những khu rừng Việt Bắc mênh mông trắng xóa sắc hoa mơ. Màu trắng của bạt ngàn hoa mơ không chỉ làm nổi bật linh hồn của mùa xuân mà còn gợi ra tâm trạng bâng khuâng xao xác trong lòng người ra đi. Trong bức tranh mùa xuân, nhà thơ cũng thể hiện sự tinh tế trong nghệ thuật phối màu: Trên nền trắng thanh khiết của hoa mơ là sắc trắng lấp lóa của nón, là màu trắng ngà óng chuốt của những sợi giang.

Con người được miêu tả trong công việc đan nón. Động tác “chuốt từng sợi giang” cho thấy rõ hơn vẻ đẹp của những người lao động cần mẫn, tinh tế và khéo léo nơi núi rừng – đó cũng là những nét đáng yêu đáng nhớ của Việt Bắc mãi in đậm trong lòng người ra đi.

Mùa hè Việt Bắc được miêu tả trong hai câu thơ tràn đầy cả âm thanh và màu sắc:

“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”.

Câu 6 miêu tả tiếng ve kêu và màu vàng của “rừng phách”. Tiếng ve vang lên báo hiệu mùa hè đã tới gợi ra cái náo nức của thời gian trong một tín hiệu rộn ràng của không gian. Phách là một loại cây gỗ lim ở rừng Việt Bắc, loại cây này nở hoa vào mùa hè, trước lúc nở hoa, cả rừng cây đồng loạt thay lá chuyển từ màu xanh sang màu vàng chỉ trong vài ngày. Động từ “đổ” miêu tả sự chuyển màu đột ngột, nhanh chóng, gợi cảm giác ngỡ ngàng, choáng ngợp trong lòng người.

Thực tế, màu vàng của rừng phách và âm thanh rộn rã của tiếng ve là hai hiện tượng thiên nhiên xuất hiện trong cùng một thời điểm mùa hè, hoàn toàn không có quan hệ gì với nhau. Câu thơ của Tố Hữu đã đem đến cho chúng một tương quan kỳ diệu: tưởng như sau sự giục giã của tiếng ve, cả một dòng thác vàng đổ òa từ trời cao xuống rừng phách khiến khu rừng phút chốc như được khoác tấm áo vàng lộng lẫy; cũng có thể hiểu chính vì sắc vàng kiêu sa, rực rỡ của rừng phách mà bầy ve rừng không thể cầm lòng, phải náo nức cất lên tiếng gọi hè về. Và bức tránh thứ ba trong bộ tứ bình của Việt Bắc vẫn tiếp tục được nhà thơ phối màu thật hài hòa ấn tượng giữa sắc vàng của rừng phách mênh mông với sắc vàng của những đọt măng thầm lặng.

Cũng như người đi rừng, người đan nón trong hai bức tranh của mùa đông và mùa xuân, người dân Việt Bắc trong bức tranh mùa hạ cũng được miêu tả trong cảnh lao động, đó là “cô em gái hái măng một mình”. “Em gái” là cách gọi thân thương trong quan hệ gia đình, động tá hái măng gợi dáng vẻ cắm cúi, thầm lặng, khiến cô gái như càng nhỏ bé hơn giữa mênh mông núi rừng; hai chữ “một mình” đem lại cảm giác cô đơn, sự cô đơn trống trải sau lưng người ra đi. Cùng với tiếng ve kêu trong rừng vắng, hình ảnh “cô em gái hái măng một mình đã đem lại sự hiu hắt đượm buồn cho cảnh sắc núi rừng Việt Bắc.

Cảnh phảng phất buồn nhưng vẫn đẹp, một vẻ đẹp tĩnh vắng và trong sáng – cả vẻ đẹp và nỗi buồn đều làm lưu luyến bước chân người ra đi.

Hai câu thơ cuối của bộ tứ bình là hình ảnh mùa thu

“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”

Mùa thu kết thúc đoạn tứ bình cũng là thời điểm kết thúc cuộc kháng chiến gian nan oanh liệt, thời điểm chia ly giữa Việt Bắc và những người kháng chiến. Bức tranh mùa thu được phác họa trong gam màu dịu mát của ánh trăng thanh bình.

Thông thường, ánh trăng từ trên trời cao sẽ tỏa sáng chan hòa xuống không gian mênh mông của mặt đất. Trong bức tranh của Tố Hữu, đó lại là trăng “rọi” xuống rừng thu. “Rọi” là động từ miêu tả nguồn ánh sáng tập trung soi chiếu xuống một điểm hẹp trong không gian. Cách dùng từ này không chỉ giúp nhà thơ miêu tả chính xác ánh trăng lọt qua vòm cây kẽ lá của núi rừng mà còn thể hiện tinh tế những cảm xúc của con người: ánh trăng đêm nay như thấu hiểu lòng người phút chia ly, như dành riêng cho Việt Bắc, như tập trung soi chiếu hình ảnh thiên nhiên con người Việt Bắc trong nỗi nhớ thương tha thiết của người ra đi.

Mùa thu càng ngọt ngào hơn với tiếng hát ân tình thủy chung. Ánh trăng đã là hình ảnh của cuộc sống hòa bình, tiếng hát vang lên giữa rừng, dưới ánh trăng thanh vàng làm đậm thêm cảm giác tươi vui thanh bình và sự hồi sinh sau chiến tranh. Có thể nhận ra sự thay đổi trong cảm xúc của người ra đi và hình ảnh của người ở lại. Nếu ở những bức tranh mùa đông, mùa xuân, mùa hạ, nhà thơ hướng nỗi nhớ tới những người lao động cụ thể: người đi rừng, người đan nón, người hái măng… thì ở bức tranh cuối trong bộ tứ bình Việt Bắc, tính chất phiếm chỉ trong cụm từ “nhớ ai” khiến hình ảnh con người như nhòa đi, nỗi nhớ càng sâu đậm ám ảnh hơn; đối tượng của nỗi nhớ bây giờ không còn là một vài hình ảnh cụ thể, riêng lẻ mà là tất cả những người dân Việt Bắc nghèo khổ, trung hậu, nghĩa tình. Âm thanh của tiếng hát rộn vang trong đêm trăng cũng cho thấy đó là tiếng hát của đám đông, của tập thể, của những người ở lại đang trào dâng nỗi nhớ nhung.

Hòa bình là sự kiện lớn lao đêm lại niềm vui cho cả dân tộc, nhưng hòa bình cũng là thời điểm chia tay đầy bâng khuâng, lưu luyến giữa Việt Bắc và những người kháng chiến. Mô tả tiếng hát “ân tình” của người ở lại, nhắc sự “thủy chung” của người ra đi trên nền ánh trăng “hòa bình” có lẽ là dụng ý nghệ thuật sâu sắc của nhà thơ khiến câu thơ hàm chứa một tâm nguyện đinh ninh: những đổi thay trong cuộc sống hòa bình sẽ không bao giờ có thể làm người đi thay lòng đổi dạ.

Đoạn thơ từ câu 53 đến câu 83: Khung cảnh Việt Bắc kháng chiến với những cảnh tượng rộng lớn, những hoạt động sôi nổi, những chiến thắng hào hùng….

Từ câu 53 đến câu 74:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
………………..
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng”

Trong hoài niệm bao trùm có ba mảng thống nhất hòa nhập đó là: nỗi nhớ thiên nhiên- nỗi nhớ con người cuộc sống ở Việt Bắc- nỗi nhớ về cuộc kháng chiến chống Pháp. Theo dòng hồi tưởng, người đọc được sống lại những giây phút của cuộc kháng chiến với không gian rộng lớn, những hoạt động tấp nập, sôi động được vẽ bằng bút pháp của những tráng ca. Cảnh Việt Bắc đánh giặc được miêu tả bằng những bức tranh rộng lớn, kì vĩ.

Rừng núi mênh mông hùng vĩ trở thành bạn của ta, chở che cho bộ đội ta, cùng quân và dân ta đánh giặc. Chiến khu là căn cứ vững chắc, đầy nguy hiểm với quân thù. Nghệ thuật so sánh, nhân hoá: núi giăng…luỹ sắt, rừng che, rừng vây… Những cái tên, những địa danh ở chiến khu Việt Bắc: phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, Cao- Lạng…vang lên đầy mến yêu, tự hào, cũng trở thành nỗi nhớ của người cán bộ kháng chiến về xuôi.

Không khí chiến đấu sôi nổi hào hùng, khí thế hừng hực trào sôi. Sức mạnh của quân ta với các lực lượng bộ đội, dân công… sự hợp lực của nhiều thành phần tạo thành khối đoàn kết vững chắc. Các từ: Rầm rập, điệp diệp, trùng trùng…thể hiện khí thế dồn dập. Hình ảnh người chiến sĩ được gợi lên qua chi tiết giàu chất tạo hình: “ánh sao đầu mũ bạn cùng mũ nan”. Đó là ánh sáng của sao dẫn đường, ánh sáng của niềm tin, của lí tưởng. Thành ngữ “Chân cứng đá mềm” đã được nâng lên thành một bước cao hơn “bước chân nát đá muôn tàn lửa bay”.

Chiến công tưng bừng vang dội khắp nơi: Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên, đèo De, núi Hồng… Niềm vui chiến thắng chan hoà bốn phương: Vui từ…vui về…vui lên… Đoạn thơ ngập tràn ánh sáng: ánh sao, ánh đuốc, ánh đèn pha… như ánh sáng của niềm tin tưởng, niềm vui tràn ngập. Nhịp thơ dồn dập gấp gáp, ấm hưởng hào hùng náo nức tạo thành khúc ca chiến thắng.

Từ câu 75 đến câu 83.

Đoạn thơ phác họa hình ảnh giản dị mà trang trọng của một cuộc họp Chính phủ trong hang núi mà vẫn rực rỡ dưới ánh cờ đỏ sao vàng trong nắng trưa và kết thúc bằng sự thâu tóm hình ảnh Việt Bắc quê hương cách mạng, đầu não của cuộc kháng chiến, nơi đặt niềm tin tưởng và hy vọng của con người Việt Nam từ mọi miền đất nước, đặc biệt là những nơi còn “u ám quân thù”.

* Những đặc sắc nghệ thuật:

Đoạn trích đậm đà tính dân tộc ở cả nội dung lẫn hình thức: Việt Bắc là một trong những đỉnh cao của thơ ca cách mạng Việt Nam. Tiếng thơ trữ tình – chính trị của Tố Hữu đậm đà tính dân tộc.

Những bức tranh chân thực, đậm đà bản sắc dân tộc về thiên nhiên và con người Việt Bắc được tái hiện trong tình cảm tha thiết , gắn bó sâu sắc của tác giả. Tình nghĩa của người cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng, kháng chiến, với Bác Hồ là những tình cảm cách mạng sâu sắc của thời đại mới. Những tình cảm ấy hòa nhập và tiếp nối mạch nguồn tình cảm yêu nước, đạo lí ân tình thủy chung vốn là truyền thống sâu bền của dân tộc.

Thể thơ: thể thơ lục bát truyền thống đã được vận dụng tài tình trong một bài thơ dài, vừa tạo âm hưởng thống nhất mà lại biến hóa đa dạng.

Kết cấu: lối kết cấu đối đáp trong ca dao dân ca được vận dụng một cách thích hợp, tài tình. Những lối nói giàu hình ảnh, các cách chuyển nghĩa truyền thống (so sánh, ẩn dụ, tượng trưng, ước lệ).

Giọng thơ ngọt ngào, tâm tình, cách xưng hô mình – ta quen thuộc trong ca dao khiến bài thơ như một bản tình ca về lòng thủy chung son sắt của người cách mạng với người dân Việt Bắc.

Những nghệ thuật trên đã làm nổi bật chủ đề: Việt Bắc là một câu chuyện lớn, một vấn đề tư tưởng được diễn đạt bằng một cảm nhận mang tính chất riêng tư. Bài thơ gợi về những ân nghĩa, nhắc nhở sự thủy chung của con người đối với con người và đối với quá khứ cách mạng nói chung.

  • Kết bài:

Với sự thể hiện những nét tiêu biểu nhất trong phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, bài thơ “Việt Bắc” không chỉ là đỉnh cao của thơ Tố Hữu mà còn là một trong những thành công xuất sắc của thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp. “Việt Bắc” được coi là khúc hùng ca và bản tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến.

11 Trackbacks / Pingbacks

  1. Cảm nhận nỗi nhớ thiết tha của người cán bộ sắp về xuôi trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu - Theki.vn
  2. Đọc - hiểu văn bản: "Việt Bắc" (Tố Hữu) - Theki.vn
  3. Chất tình ca trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu - Theki.vn
  4. Cảm nhận vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên và con người trong "Việt Bắc" của Tố Hữu - Theki.vn
  5. Phân tích khổ thơ 3 bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu - Theki.vn
  6. Vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Việt Bắc (Tố Hữu) và Tràng giang (Huy Cận) - Theki.vn
  7. phan tích khuynh hướng sử thi trong thơ Tố Hữu - Theki.vn
  8. Qua bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng và Việt Bắc của Tố Hữu, làm sáng tỏ nhận định: Mỗi công dân đều có một dạng vân tay. Mỗi nhà thơ thứ thiệt đều có một dạng vân chữ Không trộn lẫn (Lê Đ
  9. Cảm nhận và so sánh nỗi nhớ trong bài thơ Tương tư (Nguyễn Bính) và Việt Bắc (Tố Hữu) - Theki.vn
  10. Chất trữ tình - chính trị trong bài thơ Việt Bắc - Theki.vn
  11. Phân tích biểu hiện của tính dân tộc đậm đà trong đoạn thơ Việt Bắc (Tố Hữu) - Theki.vn

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.