Phân tích truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

cam-nhan-chiec-thuyen-ngoai-xa-nguyen-minh-chau.jpg

Phân tích truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu.

  • Mở bài:

“Chiếc thuyền ngoài xa” được viết năm 1983 – khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đi qua được 6 năm, đất nước trở lại với cuộc sống đời thường. Nhiều vấn đề của đời sống văn hóa nhân sinh mà trước đây do hoàn cảnh chiến tranh chưa được chú ý, nay được đặt ra. Tác phẩm nằm trong xu hướng nghệ thuật chung của văn học thời kỳ đổi mới: hướng nội, khai thác sâu sắc số phận cá nhân và thân phận con người đời thường.

  • Thân bài:

Câu chuyện kể về chuyến di và những phát hiện có ý nghĩa quan trọng của nhân vật nhiếp ảnh Phùng. Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền Trung (cũng là nơi anh đã từng chiến đấu) để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau. Sau nhiều ngày “phục kích”, người nghệ sĩ đã phát hiện và chụp được “một cảnh đắt trời cho” – đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã kinh ngạc hết mức khi chứng kiến từ chính chiếc thuyền đó cảnh một gã chồng vũ phu đánh đập người vợ hết sức dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình. Những ngày sau, cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này người nghệ sĩ đã ra tay can thiệp… Theo lời mời của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng), người đàn bà hàng chài đã đến toà án huyện. Tại đây, người phụ nữ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng, nhất quyết không bỏ lão chồng vũ phu. Chị đã kể câu chuyện về cuộc đời mình và đó cũng là lí do giải thích cho sự từ chối trên. Rời vùng biển với khá nhiều ảnh, người nghệ sĩ đã có một tấm được chọn vào bộ lịch “tĩnh vật hoàn toàn” về “thuyền và biển” năm ấy. Tuy nhiên, mỗi lần đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ ấy bước ra từ bức tranh.

Phùng là một người nghệ sĩ đích thực, người đã phát hiện, cảm nhận được vẻ đẹp và giá trị của một “cảnh đắt trời cho” – một cảnh tượng tuyệt đẹp trong chuyến công tác về vùng biển của mình.

 Phát hiện thứ nhất là bức tranh thiên nhiên trên biển tuyệt đẹp với chiếc thuyền ngoài xa. Đó một “bức hoạ” diệu kì mà thiên nhiên, cuộc sống đã ban tặng cho con người. Không gian gợi mở cho tình cảm nghệ thuật nảy sinh: “trời đầy mù từ ngoài biển bay vào. Lại lác đác mấy hạt mưa”. Rồi “một chiếc thuyền lưới vó mà tôi đoán là trong nhóm đánh cá ban nãy đang chèo thẳng vào trước mặt”. Con thuyền gây sự chú ý sâu sắc đối với Phùng. Ngay lúc ấy, anh nhận ra “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh hoạ thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ loè nhoè vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ”. Đó thực sự là một bức họa diệu kì, tuyệt đẹp, sản phẩm quý hiếm của tạo hóa.

Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó. Đó là một điểm nhìn đắc địa bởi hình ảnh được chia cắt tạo nên những mảng màu đa dang, góc nhìn đa diện. Bởi thế mà “toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Vẻ đẹp của cảnh khiến cho Phùng “trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Niềm hạnh phúc dạt dào đến nỗi, anh “tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nói cách khác, trong một khoảnh khắc của cuộc sống, nghệ sĩ Phùng đã cảm nhận được cái Chân, cái Thiện của cuộc đời, anh cảm thấy tâm hồn mình như được gột rửa, trở nên thật trong trẻo, tinh khôi. Phùng là một người nghệ sĩ chân chính, luôn nhìn cái đẹp ở giá trị nguyên bản của nó với niềm say mê và hào hứng bất tận.

Bức tranh chiếc thuyền ngoài xa, giữa một không gian biển trời mờ sương; hài hòa giữa thuyền, biển, đường nét, ánh sáng. Trong đời người nghệ sĩ nào cũng khao khát bắt gặp và khi bắt gặp thì được xem đó là một diễm phúc. Đây không chỉ là kết quả của một tuần lễ phục kích mà đây là kết quả của cả một cuộc đời cầm máy và khao khát. Phùng đã nhìn thấy cảnh tượng mà bất kì người nghệ sĩ nhiếp ảnh nào cũng khát khao được một lần. có thể nói Phùng đã đạt đến điều lí tưởng trong đời nghệ sĩ nhiếp ảnh của mình.

Điều này có nghĩa là cái đẹp đã có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người. Với tác dụng ấy, cái đẹp chẳng phải là đạo đức sao? Lúc ấy Phùng thấm thía câu nói của một người nào đó: bản thân cái đẹp là đạo đức, nó có tác dụng khiến con người trở nên tốt đẹp hơn; liên hệ với ý kiến của Thạch Lam “Đối với tôi văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quên; trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có thể có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”.

Tác phẩm Chữ người tử tù”của Nguyễn Tuân, trước cái đẹp của khí phách, tài hoa, những nét chữ hiện lên trên tấm lụa, lời khuyên chân tình thì quản ngục nói một câu trong niềm xúc động. Quản ngục sẵn sàng từ bỏ nghề mưu sinh, nghề gắn bó cả đời với mình để giữ thiên lương vì sự cảm hóa của Huấn Cao – cái đẹp, cái thiện. Niềm hạnh phúc của một nghệ sĩ khi chiêm ngưỡng cái đẹp. Nhưng để có được điều đó phải kiên trì, vượt khó, đam mê hết mình vì nghệ thuật. Và cái đẹp diệu kì có khi lại đến với người nghệ sĩ vào lúc không ngờ nhất. Đó là cái đẹp tự nhiên, hòa hợp kì lạ giữa cảnh vật và con người, đơn giản và hoàn mĩ.

Ngay khi tâm hồn đang bay bổng trong những xúc cảm thẩm mĩ, đang tận hưởng cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn thì người nghệ sĩ nhiếp ảnh đã kinh ngạc phát hiện ra hiện thực khốc liệt của cuộc sống bên ngoài vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa. Bước ra từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như mơ là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi; một gã đàn ông to lớn, độc dữ; một cảnh tượng tàn nhẫn: gã chồng đánh đập người vợ một cách thô bạo;… Đứa con vì thương mẹ đã đánh lại cha để rồi nhận lấy hai cái bạt tai của bố ngã dúi xuống cát… Đó là mặt trái của bức tranh mà Phùng vừa bắt gặp trên biển. Nó hiện ra bất ngờ, trớ trêu như trò đùa quái ác của cuộc sống.

Chứng kiến những cảnh tượng đó, nghệ sĩ Phùng kinh ngạc đến thẫn thờ: “Tất cả mọi việc xảy đến khiến tôi kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu, tôi cứ đứng há mồm ra mà nhìn”. Người nghệ sĩ như “chết lặng”, không tin vào những gì đang diễn ra trước mắt. Anh cho rằng đó là câu chuyện cổ đầy quái đản, là việc vô lí, phi lí.

Sở dĩ nghệ sĩ Phùng trở nên như vậy là vì anh không thể ngờ rằng đằng sau cái vẻ đẹp diệu kì của tạo hoá kia lại có cái ác, cái xấu đến không thể tin được. Vừa mới lúc trước, anh còn cảm thấy “bản thân cái đẹp chính là đạo đức”, thấy “chân lí của sự toàn thiện” thế mà chỉ ngay sau đó chẳng còn cái gì là “đạo đức”, là cái “toàn thiện” của cuộc đời. Phùng xót xa cay đắng nhận thấy cái xấu xa, ngang trái, bi kịch trong gia đình người dân chài đã làm cho tấm ảnh của anh chụp được kia như nhuốm màu đau thương ghê sợ. Chao ôi! Nghệ thuật không thể là màn sương mờ ảo màu sữa pha ánh hồng ban mai che lấp đi nỗi đau thương của kiếp người.

Giả sử, nếu ta can thiệp vào tác phẩm bằng cách đảo vị trí hai phát hiện này để đưa kết cục về một hướng khác thì sẽ không có những phát hiện thú vạ và nhan văn đến thế. Điều đó thực sự là không thể vì nhà văn đã có dụng ý khi để cảnh tượng trời cho hiện ra trước như là vỏ bọc bên ngoài hòng che giấu bản chất thực bên trong. Chính điều ấy làm nên giá trị đặc sắc của tình huống truyện: mang tính khám phá, phát hiện.

Qua hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng, Nguyễn Minh Châu đưa ra nhận thức về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Nghệ thuật không thể chỉ dừng lại ở vẻ đẹp bề ngoài nhất là cái vẻ đẹp tuyệt vời thơ mộng, mà còn phải thấu nhị tới bề sâu, bề sâu của cuộc đời không hề đơn giản, mà tâm điểm chính là con người với số phận đa đoan, với mọi nhọc nhằn và cả khổ đau, không hiếm những ngang trái bi kịch. Cuộc đời đâu phải chỉ toàn màu hồng, cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lí. Cuộc sống luôn tồn tại những mặt đối lập, những mâu thuẫn : đẹp – xấu, thiện – ác,… Vì thế, nhà văn đã có dụng ý khi để cảnh tượng “trời cho” hiện ra trước như là vỏ bọc bên ngoài hòng che giấu cái bản chất thực của đời sống ở bên trong. Nhà văn khẳng định : Đừng nhầm lẫn hiện tượng với bản chất, giữa hình thức bên ngoài với nội dung bên trong không phải bao giờ cũng thống nhất ; đừng vội đánh giá con người, sự vật ở dáng vẻ bên ngoài, phải phát hiện ra bản chất thực sau vẻ ngoài đẹp đẽ của hiện tượng.

Qua những phát hiện của Phùng, ta nhận thấy nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một con người có lòng tốt, không chấp nhận bất công nhưng lại đơn giản khi nhìn nhận cuộc sống. Khi chứng kiến cảnh tượng người đàn bà bị đánh đập một cách đầy vô lí như thế, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng không thể chịu được đã đánh nhau với lão chồng để bảo vệ chị ta, để rồi bị thương, với những vết thương trên mặt đã lên da non nhưng vẫn còn lại dấu tích. Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng cũng cảm thấy hết sức bức bối khi nghe người phụ nữ van xin vị chánh án đừng bắt chị phải li hôn với người chồng vũ phu. Cảm giác căn phòng ngủ lồng lộng gió của chánh án Đẩu (bạn anh) tự nhiên bị hút hết không khí và trở nên ngột ngạt quá.

Những lời nói chẳng dễ nghe chút nào của người đàn bà hàng chài khiến cho Phùng phải suy nghĩ: “Chị cám ơn các chú, lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Những câu hỏi lạc đề “Lão ta trước hồi 75 có đi lính ngụy không?” cho thấy Phùng cũng lại bị định kiến chi phối. Rồi Phùng thốt lên “không thể nào hiểu được, không thể nào hiểu được”, đúng, Phùng không thể hiểu cái lí của sự cam chịu ở những con người phải sống trong vòng vây của cái đói nghèo, lạc hậu, của cuộc sống nhọc nhằn, không thể hiểu “suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái ăn toàn cây xương rồng luộc chấm muối”, cũng không thể hiểu sự đan cài giữa tình thương và hành động tàn nhẫn, giữa niềm vui và nỗi buồn trong một gia đình… và “bởi vì, các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của một người đàn bà trên chiếc thuyền không có đàn ông… dù hắn man rợ và tàn bạo”.  

Câu chuyện mà người đàn bà hàng chài kể ở toà án đã giúp Phùng hiểu ra nhiều điều. Người đàn bà không hề cam chịu một cách vô lí, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch mà thực ra chị ta là người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Người đàn bà bị chồng đánh đập tàn nhẫn nhưng bà vẫn không từ bỏ, vì: “nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…”. Cuộc sống chài lưới rất cần có đàn ông thì mới có thể sinh tồn được. Người đàn bà cần có chồng để cùng làm ăn, cùng nuôi con. Lại thêm nữa: “đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”.

Người phụ nữ này có một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ nhưng biết chắt chiu những hạnh phúc đời thường. Chị sống cho con, sống vì con, dù phải chịu bao nhiêu đớn đau, lao khổ.  Phải chăng chị ta là một người u mê tăm tối không có ý thức về sự sống của mình? Hay là những trận đòn roi khiến chị chai lì, vô cảm hay chính những đói nghèo, bạo hành gia đình khiến chị tê liệt ý thức tinh thần, không còn có suy nghĩ phản kháng nữa? Thực là không phải. Chị sống cam chịu và kín đáo, hiểu sâu sắc lẽ đời nhưng chị không để lộ điều đó ra bên ngoài. Ở chị, phía sau vẻ bề ngoài xấu xí, thô kệch là một tâm hồn đẹp đẽ, thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hi sinh và lòng vị tha.

Qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài, Đẩu và Phùng hiểu nỗi nhọc nhằn của ngư dân, hiểu sức manh của tình mẫu tử thiêng liêng. Hai người cũng nhận ra không dễ dàng trong việc đánh giá hiện tượng đời sống, con người qua vẻ ngoài mà phải đi sâu tìm hiểu, có cái nhìn đa diện, nhiều chiều.

Trước khi nghe câu chuyện, thái độ của chánh án Đẩu là rất cương quyết. Nhưng sau khi nghe những gì mà người đàn bà vùng biển giải bày. Một sự cam chịu nhẫn nhục đáng cảm thông. Cuộc đời người đàn bà không hề đơn giản. Trong hoàn cảnh này, cách hành xử của chị ta dường như là không thể khác. Có lẽ giải pháp bỏ chồng mà Đẩu áp dụng trong trường hợp này là không ổn. Lòng tốt là đáng quý nhưng chưa đủ. Luật pháp là cần thiết nhưng phải đi vào cuộc sống. Cả lòng tốt và luật pháp đều phải được đặt vào những hoàn cảnh cụ thể, không thể áp dụng ào ào cho mọi đối tượng.

Người đàn bà xin chồng không đánh trên thuyền trước mặt con mà đưa mình lên bờ đánh vì vậy chồng thường đưa người đàn bà lên bãi xe tăng hỏng đánh. Người mẹ ấy tuy ít học nhưng ẩn tàng là tình mẫu tử. Chị không muốn hình ảnh một người bố vũ phu đi vào tâm thức các con. Chị không muốn con phải chứng kiến cảnh đau lòng ba ngày một trận nhẹ năm ngày một trận nặng bố dùng dây thắt lưng quật vào mẹ những trận đòn nảy lửa. Chị không muốn tâm hồn các con bị tổn thương. Nhưng rồi các con cũng chứng kiến cảnh ấy.

Và phản ứng của những đứa con có lẽ khiến người đàn bà đau đớn hơn là những trận đòn roi của người chồng. Vì khi chứng kiến cảnh người mẹ của mình bị tra tấn dã man thì những đứa con đã rơi vào trạng thái căm phẫn, căm hận đối với người cha của mình. Lòng căm hận ấy không chỉ làm tổn thương, thui chột tâm hồn, làm méo mó những suy nghĩ về cuộc sống, về hình tượng người cha mà nó còn dẫn đến những hành động mù quáng. Người mẹ hiểu điểu này nên gửi nó lên bờ với ông ngoại để tránh khiến sau này nó như cha, tránh sự tổn thương tâm hồn đứa con. Khi chị chứng kiến cảnh nó đánh lại cha người mẹ vô cùng đau đớn vì chị hiểu chị cố gắng che chở bây giờ đã bị tổn thương.

Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng chính là “điểm nhìn nghệ thuật” của nhà văn, là hình tượng nhân vật kể chuyện vừa đem lại tính chân thực và hấp dẫn cho câu chuyện kể vừa tạo ra một khoảng cách, một “cự ly”, một độ lùi nhất định để suy ngẫm. Hình ảnh người nghệ sĩ “khoác máy ảnh đi lang thang cho đến tận khuya” đã gián tiếp nói rằng: nhận thức của Phùng thực sự đã đổi khác, anh đã để ngỏ tâm hồn mình cho bao cảnh sắc của một hiện thực ít thi vị ùa tới “trời trở gió đột ngột, từng mảng mây đen xếp ngổn ngang trên mặt biển đen ngòm, và biển bắt đầu gào thét, sóng bạc đầu và “… chiếc thuyền đang chống chọi với sóng gió giữa phá”.

Chiếc thuyền được đặt trong khung cảnh dữ dội của một cơn biển động, cuộc vật lộn mưu sinh nhọc nhằn vẫn còn đó. Nó cho thấy rằng, chiếc thuyền ngoài xa đâu chỉ là vấn đề về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Sức ám ảnh người đọc ở tác phẩm này còn là mối quan hoài đến xót xa, day dứt của nhà văn về những nỗi nhọc nhằn đau khổ của con người, giống như những người đi biển họ vẫn luôn phải chống chọi với phong ba và bão táp và cuộc sống vốn chẳng bao giờ bình yên.

Truyện ngắn kết thúc bằng những suy nghĩ cảm nhận của người nghệ sĩ mỗi lẫn ngắm bức ảnh được chụp tại vùng biển nọ: nhìn kĩ vào bức ảnh đen trắng, người nghệ sĩ đều thấy “hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai”. Và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh…”. “Cái màu hồng hồng của ánh sương mai” là chất thơ của cuộc sống, là vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, là biểu tượng của nghệ thuật. Còn hình ảnh “người đàn bà ấy bước ra khỏi bức tranh” là hiện thân của những lam lũ, khốn khó của đời thường. Nó là sự thật cuộc đời đằng sau bức tranh.

Suốt cả tác phẩm, người đàn bà hàng chài không có tên. Nhà văn chỉ gọi chị, người đàn bà chứ không dùng một cái tên cụ thể. Chị thực sự là một người vô danh, gợi ra biết bao người phụ nữ vùng biển khác.

Chị có một ngoại hình không lấy gì ưa nhìn. Vẻ ngoài xâu xí, thô kệch “vốn là đứa con gái xấu lại rỗ mặt sau một bận lên đậu mùa”. Người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn này đâu có được cái nhan sắc “trời phú”, chị ta xấu xí, khuôn mặt rỗ càng khó nhìn hơn khi chị ta bước sang cái tuổi trạc ngoài 40. Lúc nào cũng có vẻ mệt mỏi bởi những vất vả, lo toan.

Chị có một số phận kém may mắn. Trong câu chuyện về cuộc đời mình, chị đã nhận thức được rất rõ sự kém may mắn của mình: “cũng vì xấu, trong phố không ai lấy, tôi có mang với một anh con trai của một hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới”. Suốt bao nhiêu năm, chị bị chồng đánh đạp, sỉ nhục, hành hạ nhưng vẫn cắn răng cam chịu.

Chị là một người đàn bà cứng rắn, cam chịu, nhẫn nhục. Khi bị chồng “trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ, đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Trước hành động rất tàn bạo của người chồng, người đàn bà hàng chài đã không hề kêu một tiếng, không chống trả cũng không tìm cách chạy trốn.

Chị là người giàu lòng tự trọng. Bị chồng đánh như vậy, chị ta đâu có khóc. Chị cố giấu kín tất cả, một mình chịu đựng để tạo dụng một vẻ bên ngoài yên bình. Khi biết được hành động vũ phu của chồng đã bị thằng Phác và người khách lạ (nghệ sĩ Phùng) phát hiện chị lại cảm thấy đau đớn, vừa đau đớn, vừa vô cùng xấu hổ và nhục nhã. Nhiều khi, sự đau đớn do đòn roi không thể làm con người ta bật khóc, điều này đúng trong trường hợp của người đàn bà hàng chài. Những giọt nước mắt đau đớn chứa đựng biết bao sự nhọc nhằn chỉ thực sự rơi khi thấy đứa con yêu của mình chứng kiến cảnh tượng mình bị chồng đánh, chỉ thực sự rơi khi có người khách lạ chứng kiến

Chị là người sống rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời, hiểu chồng, thương con vô bờ bến, một người phụ nữ vị tha giàu đức hy sinh. Được mời đến tòa án huyện để giải quyết việc gia đình, lúc đầy chị ta rụt rè, tìm một góc tường ở chốn công đường kia để ngồi. Nhà văn có miêu tả, đây không phải là lần đầu người đàn bà đến chốn công đường nhưng người đàn bà ấy vẫn có cái vẻ sợ sệt, lúng túng – cái sợ sệt lúng túng ấy ngay lúc chị ta đứng ở bãi xe tăng cũng không hề thấy có. Chị thấy sợ hãi khi đến một không gian lạ. Chị ta thật tội nghiệp, cái thế ngồi bị động, ngồi vào mép ghế và cố thi người lại, ngồi như thể để tự vệ cho dù đã được Đẩu nói bằng những lời rất thân mật, chia sẻ, cảm thông.

Nguyễn Minh Châu đã dụng công nhấn vào sự thay đổi ngôn ngữ và tâm thế của người đàn bà hàng chài. Ban đầu, khi gặp chánh án Đẩu, chị còn xưng “con” và có lúc đã van xin, “con lạy quý tòa” “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Nhưng khi thấy Phùng xuất hiện, đang cúi gục lập tức người đàn bà hàng chài ngẩng lên, nhìn thẳng, “chị cám ơn các chú…. Lòng các chú tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Vẻ bề ngoài khúm núm, sợ sệt, điệu bộ khác, ngôn ngữ khác đã làm cho cả Đẩu và Phùng hết sức ngạc nhiên.

Người đàn bà hàng chài kia không hề giản đơn như Đẩu và Phùng nghĩ. Đó thực sự là một ngừi phụ nữ cứng rắn và hiểu đời. Thì ra, cái nghề chài lưới trên một chiếc thuyền vó bè lênh đênh không thể thiếu bàn tay và sức lực của người đàn ông. Để duy trì sự tồn tại cho cả gia đình thì họ phải hợp sức lại mà làm quần quật để nuôi một đàn con nhà nào cũng trên dưới chục đứa. Tình cảnh của người đàn bà hàng chài kia cũng như của bao gia đình hàng chài khác, trừ phi chị nói “giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rông hơn” .

Người đàn bà hàng chài kia đã chấp nhận đau khổ, coi nỗi khổ vận vào đời mình như một lẽ đương nhiên. Chị sống cho con chứ không phải là sống cho mình. Nếu những phụ nữ trên các thuyền khác chấp nhận người đàn ông uống rượu thì chị cũng chấp nhận để chồng đánh chỉ xin chồng là đánh ở trên bờ, đừng để các con nhìn thấy. Đó là một cách ứng xử rất nhân bản.

Ở đây, lẽ đời đã chiến thắng. Người lao động lam lũ, nghèo khổ không có uy quyền nhưng có cái tâm của một người thương con, thấu hiểu lẽ đời cũng là một thứ quyền uy có sức công phá lớn. Nó đã làm chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng thức nhận được nhiều điều. Thức nhận được, nỗi nhọc nhằn vất vả trong công việc làm ăn của cư dân vùng biển. Thức nhận được cuộc sống bấp bênh khiến họ phải chấp nhận không ít những nghịch cảnh, những ngang trái. Thức nhận được người đàn bà kia không hề chịu đòn roi một cách vô lí, cả Đầu và Phùng chua chát nhận ra rằng : trên thuyền cần có một người đàn ông… dù hắn man rợ, tàn bạo, cần có một người đàn ông để chèo chống khi biển phong ba bão táp.

Thức nhận được ở người phụ nữ ấy chứa đựng mẫu tính sâu xa như một bản năng: “Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”, những lời lẽ ấy của người đàn bà hàng chài được thốt lên từ một niềm tin đơn giản mà vững chắc vào cái thiên chức mà trời đã giao phó cho người đàn bà. Thức nhận được rằng, người đàn bà hàng chài kia rất biết tìm cho mình những niềm vui, hạnh phúc dẫu rất nhỏ nhoi trong cuộc sống đầy khó khăn. Ở chị vững bền một niềm tin, một tình yêu và sự lạc quan vào cuộc sống. Hãy biết sống ngay khi cả cuộc đời không thể chịu được nữa, nụ cười chợt ửng sáng lên trên khuôn mặt rỗ chằng chịt chị nghĩ đến “trên thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận vui vẻ” và niềm vui “nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Hạnh phúc với người đàn bà hàng chài kia thật giản dị mà không kém phần sâu sắc. Thức nhận được nỗi đau, cũng như sự thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời người đàn bà kia không bao giờ để lộ ra bên ngoài cả.

Kết thúc truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa, người đọc vẫn không biết người đàn bà hàng chài kia tên gì, phải chăng là nhà văn đã sơ xuất? Không phải, đó chính là dụng ý nghệ thuật của nhà văn, người nghệ sĩ nhiếp ảnh kể rằng mỗi khi nắm thật kĩ bức ảnh mà mình chụp anh lại thấy người đàn bà hàng chài ấy bước ra từ bức ảnh “mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân rậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông….” nghĩa là người đàn bà ấy chỉ là một người trong đám đông của những con người lam lũ, nhọc nhằn, những con người lao khổ, đông đúc và vô danh. Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu cũng khẳng định: sự lam lũ, vất vả, nhọc nhằn không làm mất đi ở người phụ nữ vùng biển nói riêng, người phụ nữ Việt Nam nói chung tấm lòng yêu thương, nhân hậu bao dung, vị tha. Và với người phụ nữ, gia đình hạnh phúc là gia đình trọn vẹn các thành viên cho dù đây đó vẫn có những tính cách chưa hoàn thiện.

Nhân vật người đàn ông không xuất hiện nhiều nhưng là nguyên do của mọi khổ đau và rắc rối. Lão xuất thân là con nhà hàng chài, vốn tính hiền lành. Thế nhưng, những vất vả của cuộc đời đã biến lão trở thành một người đàn ông cộc cằn, độc dữ. Lão có tấm lưng rộng và cong như lưng một chiếc thuyền. Mái tóc rối bù như tổ quạ. Lão luôn đi chân chữ bát, bước từng bước chắc chắn, hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ lúc nào cũng nhìn dán vào tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng của người đàn bà. Lão là một người đàn ông chắc khỏe, lao động nặng nhọc, cục tính. Tính khí của lão rất hung bạo. Lúc nào lão cũng hùng hổ, mặt đỏ gay. Hành động tàn bạo. khi tức giận, hắn lạnh lùng rút thắt lưng quật tới tấp vào lưng vợ để giải tỏa bực dọc. Vừa quất vừa nguyền rủa “Mày chết đi…”

Trước hành động của người chồng, mỗi người lại có cách nhìn khác nhau khiến người đọc không khỏi bất ngờ. Đẩu và Phùng tỏ ra vô cùng bất bình, lên án hành động vũ phu, vô nhân tính của lão nhưng người vợ lại tỏ ra thấu hiểu và cảm thông. Người đàn bà bày tỏ: “lỗi chính…đẻ nhiều quá…”; “lúc nào thấy khổ…đánh”. Chị nhận thấy chồng là nạn nhân của hoàn cảnh. Người đàn bà kể về người chồng vũ phu của mình với thái độ cảm thông và bao dung, không thù hận cũng không buông bỏ. Điều đó cho thấy, người đàn bà đã nhìn chồng với một thái độ thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ. Trong khi đó Đẩu, Phùng và thằng Phác chỉ mới nhìn thấy một khía cạnh ở người đàn ông đó với thái độ căm giận. Cái nhìn của người đàn bà toàn diện hơn, sâu sắc hơn. Chị đau đớn nhưng không oán hận vì thấu hiểu nguyên nhân sâu xa của những hành động vũ phu ấy.

Từ sự tha hóa của người đàn ông hàng chài qua điểm nhìn của một người lính đã từng chiến đấu bảo vệ mảnh đất này, Nguyễn Minh Châu muốn nói đến một cuộc chiến mới không kém phần khó khăn, gian khổ so với 2 cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược đã qua, cuộc chiến bảo vệ nhân tính, thiên lương và vẻ đẹp tâm hồn con người. Ở phương diện này, tác giả kế thừa xuất sắc tư tưởng nhân văn, nhân đạo sâu sắc của nhà hiện thực Nam Cao.

Kết quả cuối cùng Phùng mang về là những bức ảnh quý giá về cuộc sống. Bức ảnh đen trắng nhưng thấy “màu hồng hồng của ánh sương mai”. Đó là biểu tượng của nghệ thuật. Bức ảnh hiện lên “hình ảnh người đàn bà hàng chài”. Đó là sự thật cuộc đời.

“Chiếc thuyền ngoài xa” thể hiện sự chiêm nghiệm sâu sắc về nghệ thuật và cuộc đời: nghệ thuật chân chính phải luôn luôn gắn với cuộc đời, vì cuộc đời; người nghệ sĩ cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách toàn diện sâu sắc. Tác phẩm cũng rung lên hồi chuông báo động về tình trạng bạo lực gia đình và hậu quả khôn lường của nó.

Nguyễn Minh Châu cũng đã rất thành công trong nghệ thuật biểu hiện. Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đọc đáo, gây cấn, hấp dẫn người đọc. Nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật đậm nét. Nghệ thuật kể chuyện chân thực, lôi cuốn (ngôi kể thích hợp → câu chuyện chân thực). Ngôn ngữ giản dị mà sâu sắc, triết lý sâu xa.

Nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa mang tính biểu tượng sâu sắc. Chiếc thuyền ở ngoài khơi xa trước hết là biểu tượng của nghệ thuật, đó là thứ nghệ thuật đạt tới sự toàn mĩ và thánh thiện đến mức mà chiêm ngưỡng nó, người nghệ sĩ thấy tâm hồn mình được thanh lọc. Chiếc thuyền khi về gần đó lại là hiện thân của cuộc đời lam lũ, khó nhọc, thậm chí của những éo le, trái ngang và nghịch lí trong cuộc sống. Như vậy, chiếc thuyền nghệ thuật thì ở ngoài xa nhưng cuộc đời thì lại rất gần. Người nghệ sĩ cần có một khoảng cách nhất định để khám phá và thưởng thức vẻ đẹp đích thực của nghệ thuật nhưng lại cũng cần bám sát cuộc đời để phát hiện ra những sự thật của cuộc sống. Nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa”  là một ẩn dụ về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật.

Tình huống truyện được xây dựng công phu, giàu giá trị nghệ thuật. Một nghệ sĩ nhiếp ảnh đến một vùng ven biển miền Trung để chụp một tấm ảnh về cảnh biển buổi sớm có sương. Tại đây, anh đã phát hiện và chụp được một cảnh tượng “trời cho” – đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, người nghệ sĩ đã chứng kiến cảnh một gã chồng vũ phu đánh đập người vợ hết sức dã man. Ba hôm sau, cảnh tượng ấy lại diễn ra, người đàn bà được mời đến tòa án huyện, tại đây, người nghệ sĩ lắng nghe câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài kể lại và đó như một lời giải thích vì sao chị ta không bỏ chồng dù người chồng tàn bạo.

Đây là một “tình huống nhận thức”, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về chân lí đời sống, chân lí nghệ thuật. Phùng đã phát hiện sau cảnh đẹp như mơ kia là những ngang trái, nghịch lí của đời thường. Tình huống truyện, thể hiện cái nhìn đa chiều về cuộc sống. Chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng đã hiểu ra nhiều điều về con người, cuộc sống khi chứng kiến câu chuyện và tiếp xúc với người đàn bà hàng chài. Từ tình huống truyện, tác giả đã đặt ra vấn đề “đôi mắt”, cách nhìn đời, nhìn người trong cuộc sống.

  • Kết bài:

Qua tác phẩm Nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa” , Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự cảm thông sâu sắc đối với những cảnh đời, những thân phận trớ trêu, gặp nhiều bất hạnh trong cuộc sống đồng thời gửi gắm những chiêm nghiệm sâu sắc của mình về nghệ thuật: nghệ thuật chân chính phải luôn luôn gắn bó với cuộc đời và vì cuộc đời; người nghệ sĩ không thể nhìn đời một cách giản đơn, cần phải nhìn nhận cuộc sống và con người một cách đa diện, nhiều chiều.


Bài tham khảo:

Phân tích tình huống truyện của truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”.

  • Mở bài:

Nguyễn Minh Châu là cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam. Trước 1975, ngòi bút Nguyễn Minh Châu hướng về cảm hứng lãng mạn với những hình tượng đẹp tráng lệ, tuyệt mỹ. Sau 1975, ngòi bút ấy hòa cùng dòng chảy của cuộc sống, tìm về với cảm hứng thế sự, phát hiện, tìm tòi bản chất tốt đẹp của con người trong cuộc mưu sinh nhọc nhằn, trong quá trình hoàn thiện bản thân và tìm kiếm hạnh phúc. Nhan đề “Chiếc thuyền ngoài xa” là kết tinh của tâm huyết và tấm lòng của nhà văn, là thành quả của một bầu máu nóng luôn hết lòng vì cuộc đời, với những nỗi đau đời đau người tha thiết. Với “Chiếc thuyền ngoài xa”, tình huống truyện là một điểm sáng, làm nên sức hấp dẫn và lay động hàng triệu trái tim bạn đọc của tác phẩm.

  • Thân bài:

Như Nguyễn Minh Châu từng nói: “Tình huống là một khúc cưa của đời sống mà qua đó ta thấy được trăm năm đời thảo mộc”. Tình huống truyện là cái hoàn cảnh được tạo thành bởi các sự kiện đặc biệt mà tại đó, cuộc sống hiện lên đậm đặc và tư tưởng, tình cảm của nhà văn thể hiện đậm nét.

Tình huống truyện của “Chiếc thuyền ngoài xa” có thể tóm gọn như sau: Phùng là nghệ sĩ nhiếp ảnh được giao nhiệm vụ chụp bức ảnh về biển ở vùng biển miền Trung để cho tờ lịch sắp xuất bản. Sau bao công sức tìm kiếm, cuối cùng anh cũng chụp được bức ảnh tuyệt tác, “giản dị mà toàn bích”. Thế nhưng, ngay sau đó anh chứng kiến cảnh bạo hành tàn nhẫn, độc ác của một gia đình hàng chài, và sự việc vẫn tiếp diễn như thế. Mọi việc càng trở nên khó hiểu khi ở tòa án, người đàn bà hàng chài nhất định không chịu bỏ người chồng đã đánh đập chị tàn nhẫn. Đến khi người đàn bà đưa ra những lí lẽ giải thích, thì dường như cả Phùng và Đẩu đều rút ra được cho mình những bài học về nghệ thuật và cuộc sống.

Như vậy, tình huống ở đây là tình huống nghịch lý và tình huống nhận thức. Tình huống nghịch lý là tình huống bao hàm những sự kiện đối lập, thậm chí trái ngược, phi logic mà từ đó tác giả lôi kéo người đọc vào những câu hỏi, thu hút họ giải đáp những câu hỏi đó để chạm vào chiều sâu chủ đề, tư tưởng của tác phẩm. Tình huống nghịch lý ở đây là sự đối lập giữa bức tranh thiên nhiên diễm lệ, toàn bích và cảnh hiện thực cuộc sống thô nhám, xù xì, tàn nhẫn, mà trong cảnh hiện thực ấy, mỗi số phận, mỗi tính cách nhân vật cũng đầy những mâu thuẫn, những nghịch lý, những uẩn khúc tưởng như kìm nén những cơn sóng lòng trong sự im lặng, để rồi những điều không nói ấy ám ảnh người đọc, thu hút người đọc đi đến tận cùng câu chuyện.

Bức tranh thiên nhiên là bình diện thứ nhất của tình huống nghịch lý. Đó là một “cảnh đắt trời cho”, là một vẻ đẹp toàn bích: “Trước mắt tôi là bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe lên bầu sương mờ trắng như sữa và có pha chút ánh hồng do mặt trời chiếu vào. Một vài bóng người lớn trẻ em ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui lum khum”. Đó là một cảnh tuyệt mỹ, vừa tĩnh, vừa động, có sự phối màu độc đáo của hộ họa và có sự phối cảnh xa gần cùng những góc ảnh đặc sắc của nhiếp ảnh. Chính vì thế nó mang vẻ đẹp “tuyệt đỉnh”, vẻ đẹp “giản dị mà toàn bích”.

Bức tranh thiên nhiên càng đẹp bao nhiêu, càng lộng lẫy bao nhiêu, thì khi nó đối nghịch với hiện thực cuộc sống, người nghệ sĩ càng bàng hoàng, choáng váng bấy nhiêu. Và quả thật, nghệ sĩ Phùng chỉ biết “há mồm ra mà nhìn” khi chứng kiến cảnh bạo hành, một cảnh tượng cũng đầy nghịch lý. Đầu tiên là người đàn ông, hắn đánh vợ một cách thô bạo, “vung chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, vừa đánh, “răn nghiến ken két”, “nguyền rủa bằng giọng rên rỉ đau đớn: “Chúng mày chết đi cho ông nhờ!”. Đánh vợ! Đánh một người cùng lão đồng cam cộng khổ, cùng chịu đựng biết bao sóng gió, lại có với nhau trên dưới chục con, tình cảm sâu đậm, gắn bó vậy mà hắn có thể tàn nhẫn đánh vợ! Đó là một nghịch lý. Nhưng cái thái độ của người đàn ông lại là một nghịch lý khác. Khi đánh ai đó để hả giận, ta ắt hẳn phải thấy sung sướng. Hoặc nếu cái ác thấm vào bản chất, thì việc hành hạ ấy càng hiển nhiên, như không có gì.

Trong “Vợ chồng A Phủ”, A Sử trói Mị và hành hạ Mị mà nó còn thể thể chỉnh lại dây lưng, đi ra ngoài, tắt đèn, khép cửa, nó coi mọi việc như hiển nhiên phải thế, đó là bởi vì cái xấu xa, tàn nhẫn đã thành bản chất của nó. So sánh với A Sử, ta càng thấy người đàn ông này có nhiều điểm khó hiểu. Đánh người khác, nhưng bản thân mình cũng đau đớn, cực nhọc như chính mình bị đánh. Cái tiếng nguyền rủa, “mày chết đi” thì là nguyền rủa, nhưng “cho ông nhờ” lại là van xin. Một cảnh tượng không dễ lí giải. Tại sao như vậy? Phải chăng đó là sự tàn nhẫn hay còn uẩn khúc nào khác? Phải chăng cái ác đã là bản chất của người đàn ông này, hay còn điều gì giấu kín bên trong?

Người đàn bà cũng vậy, nhân vật người đàn bà bị đánh tàn nhẫn, “ba ngày một trận nhẹ năm ngày một trận nặng”, nhưng vẫn “cam chịu đầy vẻ nhẫn nhục, không kêu lên một tiếng, không phản kháng cũng không tìm cách chạy trồn”. Bị hành hạ, mà ngay cả phản ứng bản năng nhất là lên tiếng, cũng không có. Điều cũng thật khó hiểu. Phải chăng bà ta vô học nên không hiểu quyền của mình? Phải chăng bà ta vô cảm đến tê dại nên không có một chút phản kháng? Hay, phải chăng, còn một uẩn khúc gì đó?

Người con trai, Phác, cũng đầy mâu thuẫn và nghịch lý. Trước ông bố, nó như “một viên đạn đang lao vào đích ngắm”, giật chiếc thắt lưng, “dướn mình quật thẳng chiếc móc sắt vào khuôn ngực trần vạm vỡ cháy nắng” của cha nó. Đó là hành vi có tính chất côn đồ, chứa đầy căm thú. Nhưng với mẹ nó thì lại “đưa bàn tay lên mặt mẹ nó như muốn lau đi dòng nước mắt còn đọng lại những vệt rỗ chằng chịt”. Một cái gì đó yêu thương vô hạn và xót thương vô hạn, của một trái tim nhân hậu. Vậy Phác là ai? Một “viên đạn lao tới người đàn ông và xuyên thủng tâm hồn người đàn bà”, như Nguyễn Minh Châu nhận xét? Phác là một kẻ côn đồ hay người con có hiếu? Hay Phác, thật ra, là một đứa trẻ tội nghiệp, yêu thương nhưng bất lực? Vẫn là những uẩn khúc không dễ gì giải đáp.

Uẩn khúc và uẩn khúc, câu hỏi này xoáy vào câu hỏi kia thành những băn khoăn, bất tận, ám ảnh, day dứt, đó là tác động tâm lý của tình huống nghịch lý lên bạn đọc, và lên cả nhân vật tư tưởng, nghệ sĩ Phùng. Tình huống kéo người đọc vào trăn trở cùng cuộc sống với những bi kịch tưởng như nhỏ nhặt mà thật ra đầy rẫy đau đớn, với những tâm trạng phức tạp, đầy mâu thuẫn của con người. Đó chính là bước thu hút đầy nghệ thuật để hướng mọi sự tập trung của người đọc vào cốt lõi của vấn đề: Nhận thức được tư tưởng mà nhà văn gửi gắm, xây dựng, trong tình huống nhận thức.

Tình huống nhận thức là một trong ba loại chính của tình huống truyện (cùng với tình huống hành động, tình huống tâm trạng), nó cắt nghĩa giây phút “giác ngộ” chân lý của nhân vật. Nhân vật của nó, thường là nhân vật tư tưởng, mà ở đây, là Phùng và Đẩu.

Qua Phùng, nhà văn gửi gắm thông điệp về nghệ thuật, và trong suốt câu chuyện, đó cũng chính là những gì mà người nghệ sĩ này nhận thức được. Thứ nhất, nghệ thuật cần tâm huyết, cần sự kiên trì, miệt mài sáng tạo, Phùng nhận ra điều này khi phải chụp đi chụp lại mới được một tấm hình đắt giá. Để được tập ảnh có hồn, đó là cả một quá trình miệt mài lao động! Thứ hai, người làm nghệ thuật cần tỉnh táo trước cái đẹp: Cái đẹp có hoàn mỹ cách mấy, nhưng bên trong nó chưa chắc đã là cái toàn bích, mà còn có thể là cái vô luận và tàn nhẫn, là bạo lực, là đau thương, là bất hạnh…, người nghệ sĩ không chỉ dừng lại ở cái đẹp, mà còn phải đi sâu vào bên trong nó, vượt qua cái thỏa mãn ban đầu để nhìn sâu vào hiện thực, khám phá nỗi đau con người.

Đó là điều Phùng nhận ra giữa hai bức tranh chiếc thuyền ngoài xa, và chiếc thuyền ở gần – một thứ “nước rửa ảnh quái đản” làm đảo lộn những gì anh ghi được trên phim. Và bức tranh ấy cũng đã gợi lên bài học muôn thuở về mối quan hệ giữa cuộc đời và nghệ thuật: Cuộc đời sinh ra nghệ thuật nhưng cuộc đời và nghệ thuật không đồng nhất, người nghệ sĩ phải biết đi sâu vào hiện thực, vượt qua những hiện tượng nhất thời để khám phá bản chất, và phải nhìn cuộc đời bằng cái nhìn đa diện, nhiều chiều. Nguyễn Minh Châu quan niệm về vấn đề này: “Cuộc đời và nghệ thuật là hai vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người”. Nam Cao nói: “Sống đã rồi hãy viết”. Chế Lan Viên: “Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép”. Đó là vấn đề muôn thuở của nghệ thuật, là trách nhiệm mà cũng là thiên chức cao cả của người nghệ sĩ.

Còn qua Đẩu, nhà văn gửi gắm bức thông điệp và cuộc sống, đừng nhìn cuộc sống đơn giản, phiến diện, hời hợt. Đó là cái “vỡ ra” trong đầu vị Bao Công phố huyện, khi những lí lẽ sắc sảo của một người có học, một chánh án huyện, phải thua lí lẽ của tình mẫu tử, của lòng mẹ: “Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con”, “Vui nhất là thấy lũ con tôi chúng nó được ăn no”. Người đàn bà không thể bỏ người đàn ông vì đàn con, bà cần lão để “chèo chống khi phong ba”, để nuôi đặng một đàn con “trên dưới chục đứa”.

Đó là cái uẩn khúc của tình người mà Đẩu không thể ngờ trước được, đã đánh tan giải pháp hời hợt, thiếu thực tế của anh, là khuyên người đàn bà bỏ chồng. Chính điều đó đã làm sáng lên giây phút nhận thức trong Đẩu. Đằng sau cái đơn giản là cái phức tạp, và để giải quyết mọi chuyện không chỉ nhìn bằng lý thuyết suông, mà phải biết lắng nghe, thấu hiểu, nắm rõ hiện thực của cuộc đời, của lòng người để tìm ra nguồn gốc và giải quyết tận gốc vấn đề. Trong cuộc sống, cần nhìn nhận con người trong cái nhìn đa diện, nhiều chiều, đặt trong quan hệ hàng ngày để nhìn ra bản chất đích thực của họ.

Tình huống nghịch lý và tình huống nhận thức góp một vai trò quan trọng trong việc làm nên thành công của tác phẩm. Về nội dung, tình huống giúp tác phẩm thực hiện chức năng cao cả của văn chương, trở thành “cuốn sách giáo khoa của đời sống”, giúp con người khám phá, nhận thức hiện thực, cuộc đời. Tình huống truyện còn là chìa khóa để khám phá tư tưởng, tình cảm của nhà văn, đặc biệt là cái nhìn nhân đạo của Nguyễn Minh Châu. Qua tình huống truyện, Nguyễn Minh Châu đã thể hiện rõ cái tâm của một nhà văn chân chính, một “nhà nhân đạo từ trong cốt tủy” (Sê-khốp) khi khắc họa nhân vật bằng cái nhìn khách quan, thấu hiểu, thấp thoáng đâu đó sau vẻ cam chịu của người phụ nữ, trong cử chỉ vuốt ve gương mặt mẹ của thằng Phác, tiếng nguyền rủa rên rỉ của người đàn ông, ta bắt gặp một Nguyễn Minh Châu trầm lắng với những nỗi đau nhân thế, ta bắt gặp những giọt nước mắt xót xa, thương cảm.

Phải thấu hiểu, phải yêu thương con người, Nguyễn Minh Châu mới có thể nhập thân vào nhân vật và diễn đạt những chuyển biến tâm lý tinh vi, phức tạp, một cách tinh tế, chân thực, xúc cảm. Về nghệ thuật, tình huống truyện làm nên kịch tính và sức hấp dẫn cho tác phẩm, cuốn hút người đọc vào mạch diễn biến câu chuyện, kích thích trí tưởng tượng của họ, thôi thúc họ khám phá những chiều sâu tư tưởng của tác phẩm.

Nguyễn Minh Châu đã xây dựng tình huống truyện bằng một nghệ thuật ngôn ngữ độc đáo, ngôn ngữ kể chuyện sinh động, giàu tính triết lý, ngôn ngữ nhân vật chân thực, phù hợp với tính cách và hoàn cảnh. Cách lựa chọn chi tiết để xây dựng tình huống cũng rất tinh tế – thể hiện bản lĩnh nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu – “người mở đường tinh anh và tài hoa” của văn học thời kì đổi mới.

“Nghệ thuật nằm ngoài sự băng hoại của thời gian, chỉ mình nó không thừa nhận cái chết” (Sedrin) Thời gian trôi qua, những gì vô nghĩa sẽ bị sàng lọc, trôi vào lãng quên, nhưng những giá trị đích thực sẽ còn sống mãi, qua thời gian sẽ càng chứng minh được sức sống và giá trị của mình. Phải, người đời nay và người đời sau sẽ mãi không quên một Nguyễn Minh Châu cùng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc trong “Chiếc thuyền ngoài xa”, đã dẫn dắt người đọc vào cuộc phiêu lưu kì thú nhưng cũng đãm nước mắt, vào quá trình khám phá tâm hồn con người và hiện thực cuộc sống.

  • Kết bài:

Những bài học về cuộc đời và nghệ thuật mà Nguyễn Minh Châu gửi gắm trong “Chiếc thuyền ngoài xa” sẽ còn sống mãi, như một kim chỉ nam, một ngọn hải đăng kiêu hãnh và sừng sững, dẫn đường cho những cánh buồm nghệ sĩ trẻ, tiếp thêm cho những nghệ sĩ đời sau sức mạnh, niềm tin, ý chí và nghị lực để bước tiếp trên con đường mình đã chọn. Pautopsky từng trăn trở: “Dù ai nói với bạn, thì hãy luôn tin rằng cuộc sống này tốt đẹp”. Niềm tin vào cuộc sống và con người, phải chăng đó là món quà kì diệu nhất mà Nguyễn Minh Châu đã để lại?

Qua Chiếc thuyền ngoài xa, hãy chứng minh: Nét nổi bật ở nhân vật Phùng là một tâm hồn nhạy cảm, say mê cái đẹp và một tấm lòng trăn trở, lo âu về thân phận con người

42 Trackbacks / Pingbacks

  1. Vai trò của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự - Theki.vn
  2. Nguyễn Minh Châu và truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa - Theki.vn
  3. Ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa - Theki.vn
  4. Viết mở bài và kết bài phân tích truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu - Theki.vn
  5. Dàn bài: giá trị nhân đạo truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”của Nguyễn Minh Châu. - Theki.vn
  6. Dàn ý và bài văn mẫu phân tích nhân vật Phùng trong truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu - Theki.vn
  7. Cảm nhận hình ảnh người nghệ sĩ nhiếp ảnh với quá trình vỡ lẽ về nghệ thuật và cuộc đời qua nhân vật Phùng - Theki.vn
  8. Phân tích nhân vật Phùng để làm rõ quan niệm về nghệ thuật và cách nhìn cuộc sống của nhà văn Nguyễn Minh Châu thể hiện trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”. - Theki.vn
  9. Phân tích nhân vật Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu - Theki.vn
  10. Tìm hiểu đầy đủ truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" (Nguyễn Minh Châu) - Theki.vn
  11. Soạn bài: "Chiếc thuyền ngoài xa" (Nguyễn Minh Châu) - Theki.vn
  12. Dàn bài: Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong "Chiếc thuyền ngoài xa" - Theki.vn
  13. Dàn bài: Cảm nhân truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu - Theki.vn
  14. Dàn bài: Phân tích sự đối lập giữa vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa và cảnh bạo lực ở gia đình hàng chài - Theki.vn
  15. Giá trị nhân đạo trong truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu - Theki.vn
  16. Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được một tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống - Theki.vn
  17. Tình huống truyện trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu - Theki.vn
  18. Hướng dẫn ôn tập luyện thi văn bản: "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu - Theki.vn
  19. Đọc – hiểu văn bản: Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) - Theki.vn
  20. Từ truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu, anh/chị hãy phát biểu suy nghĩ về nạn bạo hành gia đình hiện nay - Theki.vn
  21. Phân tích hành trình kiếm tìm lí tưởng nghệ thuật của nghệ sĩ Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa - Theki.vn
  22. Cảm nhận hình ảnh nhân vật người mẹ trong truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu - Theki.vn
  23. Cảm nhận hình tượng nhân vật Phùng trong "Chiếc thuyền ngoài xa" - Theki.vn
  24. Cảm nhận vẻ đẹp nhân vật người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa - Theki.vn
  25. Nhận thức về chân lí của nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong "Chiếc thuyền ngoài xa" - Theki.vn
  26. Ý nghĩa nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu - Theki.vn
  27. Tóm tắt nội dung tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu - Theki.vn
  28. Vẻ đẹp chi tiết giọt nước mắt và nụ cười của người đàn bà hàng chài trong "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu - Theki.vn
  29. Phân tích chi tiết văn bản Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu - Theki.vn
  30. Phân tích hình ảnh người đàn ông vũ phu trong Chiếc thuyền ngoài xa qua cách nhìn khác nhau của các nhân vật - Theki.vn
  31. Phân tích hai phát hiện của nhân vật Phùng trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn minh Châu - Theki.vn
  32. Cảm nhận hình ảnh những đứa trẻ đáng thương trong Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) - Theki.vn
  33. Phân tích bi kịch cuộc đời của người đàn ông trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu - Theki.vn
  34. Phân tích nhân vật người đàn bà trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu - Theki.vn
  35. Đóng vai nhân vật Phùng kể lại câu chuyện Chiếc thuyền ngoài xa - Theki.vn
  36. Góc nhìn mới về cuộc sống của nhà văn Nguyễn Minh Châu qua nhân vật người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa - Theki.vn
  37. Dàn bài phân tích Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Trung Thành - Theki.vn
  38. Nhận thức về con người và cuộc sống của Nguyễn Minh Châu trong Chiếc thuyền ngoài xa - Theki.vn
  39. Quan niệm về con người trong văn học Việt Nam sau 1975 đến nay - Theki.vn
  40. Quan niệm về con người trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành và Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu - Theki.vn
  41. Hình ảnh người mẹ trong truyện ngắn: Vợ nhặt (Kim Lân) và Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) - Theki.vn
  42. Phân tích sự thấu hiểu lẽ đời của người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa. Từ đó, nhận xét quan điểm nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Minh Châu thời kì đổi mới. - Theki.vn

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.