Quan niệm nghệ thuật về con người của Nam Cao trong truyện ngắn Chí Phèo

quan-niem-nghe-thuat-ve-con-nguoi-cua-nam-cao-trong-truyen-ngan-chi-pheo

Quan niệm nghệ thuật về con người của Nam Cao trong truyện ngắn Chí Phèo

  • Mở bài:

Trong sự nghiệp văn chương của Nam Cao, “Chí Phèo” được xem là truyện ngắn xuất sắc viết về người nông dân trong xã hội cũ. Không chỉ có giá trị về tư tưởng, tác phẩm còn ghi dấu sự độc đáo, mới mẻ trong nghệ thuật thể hiện. Bên cạnh kết cấu mới mẻ, cốt truyện hấp dẫn, ngôn ngữ sống động,…truyện ngắn này cũng thể hiện sự hiện đại, sáng tạo trong quan niệm nghệ thuật về con người của tác giả qua hình tượng Chí Phèo. Với những khám phá về con người tha hóa, con người bi kịch, con người cô đơn, con người tự ý thức và con người với bản thể tự nhiên, truyện ngắn “Chí Phèo” đã chạm tới được nghệ thuật văn xuôi hiện đại.

  • Thân bài:

Quan niệm nghệ thuật về con người của Nam Cao qua nhân vật Chí Phèo:

1. Con người tha hóa.

Với Nam Cao, đời là một tấm áo cũ bị xé rách tả tơi (…) Không có gì nguyên vẹn, ngay ngắn, tròn trịa, đẹp đẽ trong văn Nam Cao. Có lẽ, đọc văn Nam Cao, ta cảm thấy đau đớn không nguôi trước những số phận người, những con người đang trượt dài trên con đường của sự tha hóa nhân cách. Hướng ngòi bút vào khám phá chiều sâu cuộc sống, len vào những ngõ hẻm đường quê để cảm thông với con người, Nam Cao đã xót xa khi phát hiện ra sự tha hóa con người đang diễn ra khắp nơi. Kiểu con người tha hóa đó ta gặp trong hình ảnh của Lang Rận, của người cha trong “Trẻ con không ăn thịt khó”, của bà cái Đĩ trong “Một bữa no”…và với “Chí Phèo”, nó hiện thân trong nhân vật Chí Phèo, Năm Thọ, Binh Chức.

Sự tha hóa của Chí Phèo bắt đầu khi hắn bước ra khỏi ngưỡng cửa nhà tù trở về làng Vũ Đại. Thế nhưng, cái anh chàng Chí hiền lành, chân chất ở tuổi hai mươi thuở xưa đã không còn nữa. Thay vào đó là một Chí Phèo biến dạng, tha hóa về cả nhân tính lẫn nhân hình. Trước đây, hắn là một thằng “hiền lành như đất” và cũng ý thức rất rõ về nhân cách, rất giàu lòng tự trọng. Khi bà Ba bắt hắn bóp đùi, hắn cảm thấy “nhục hơn là thích” và hắn nghĩ “người ta không thích cái gì người ta khinh”. Hắn cũng có ước mơ giản dị như bao người về một mái gia đình “Chồng cuốc mướn cầy thuê, vợ dệt vải, chúng bỏ lại một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm”.

Nhưng thật trớ trêu thay, Bá Kiến cùng nhà tù thực dân đã nhào nặn lại hình hài và nhân cách Chí Phèo trong một bộ dạng khác: dị dạng, méo mó, trở thành “con quỹ dữ của làng Vũ Đại” – nỗi khiếp sợ của bao người. Dường như, sau bảy tám năm ở tù về, Chí Phèo đã trượt dài trên đường ray của sự tha hóa: tha hóa nhân hình, tha hóa nhân tính, tha hóa cả những suy nghĩ. Nhân hình của Chí không còn là nhân hình của một người bình thường “Trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! (…). Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông thầy tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!”.

Đó là nhân hình của một người dị dạng, không giống người. Xưa kia Chí cũng là một anh canh điền trẻ trai, khỏe mạnh, bình thường. Thế nhưng, bây giờ nó là sản phẩm của sự tha hóa triệt để “Cái mặt hắn không trẻ cũng không già: nó không còn phải là mặt người, nó là mặt của một con vật lạ, nhìn mặt những con vật có bao giờ biết tuổi? Cái mặt hắn vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio; nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là vết sẹo”.

Rõ ràng, Chí đã bị cướp mất hình hài của một con người. Phải chăng, cái ngoại hình dữ tợn bị tha hóa kia cũng là sự phản ánh cho đời sống nội tâm, cho phần nhân tính bên trong cũng đã bị hủy hoại, tha hóa không kém gì cái hình hài bên ngoài? Nhân tính của hắn là nhân tính của một “con quỹ dữ”. Hắn bây giờ không phải là anh canh điền “hiền lành như đất” mà “hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Ðại, tác quái cho bao nhiêu dân làng.(…) hắn đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện”.

Cuộc đời của hắn bây giờ là triền miên trong những cơn say, triền miên trong những cảnh ức hiếp, đâm chém, rạch mặt, ăn vạ… Những suy nghĩ, những ngộ nhận của hắn cũng phản ánh nội tâm của một con người bị tha hóa hoàn toàn. Không phải Bá Kiến xảo quyệt, không phải nhà tù thực dân hủy hoại hắn hoàn toàn mà chính hắn cũng đang từng ngày hủy hoại mình mà không hay không biết. Hắn vênh vang đắc chí khi nghĩ rằng “Không vây cánh, không họ hàng thân thích; anh em không có, đến bố mẹ cũng không… Ờ, thế mà dám độc lực chọi nhau với lý trưởng, chánh tổng, bá hộ tiên chỉ làng Vũ Ðại” và “hắn thấy hắn oai thêm bậc nữa. Hắn tự đắc: “anh hùng làng này cóc có thằng nào bằng ta !”.

Suy nghĩ đó của Chí phản ánh sự tha hóa đến tận cùng về nhân cách. Bây giờ, hắn sống trong trạng thái mơ hồ, nhòe mờ về thời gian và cuộc sống “Vết những mảnh chai của bao nhiêu lần ăn vạ kêu làng, bao nhiêu lần, hắn nhớ làm sao nổi? Bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại người ta giao cho hắn làm! Những việc ấy chính là cuộc đời của hắn; cuộc đời mà hắn cũng chả biết đã dài bao nhiêu năm rồi”. Đối với hắn không còn khái niệm ngày tháng nữa mà đời là một cơn say dài kéo lê từ ngày này qua ngày khác. Hắn không còn ý thức bình thường của một con người.

Có thể thấy, nhân vật Chí Phèo là nhân vật điển hình cho mẫu con người tha hóa trong truyện Nam Cao. Chí tha hóa nhân hình, tha hóa nhân tính, tha hóa suy nghĩ và mơ hồ về cuộc sống… Thực tế, Chí Phèo là con người nhưng đã tha hóa đến bên bờ vực ranh giới của cuộc sống con vật. Sự tha hóa đó của nhân vật Nam Cao phản ánh nỗi đau của cuộc đời, của số phận con người trong xã hội cũ. Dĩ nhiên không thể đỗ lỗi hết cho hoàn cảnh bởi con người có khả năng chống lại hoàn cảnh nhưng xã hội cũ xấu xa, độc ác, nham hiểm với những con người như Bá Kiến đã không cho người ta sống cuộc sống như một con người. Xã hội đó đã đẩy người ta xuống bùn đen, tha hóa hình hài, nhân cách. Thể hiện sự tha hóa của Chí Phèo, trang văn Nam Cao đã mở ra một bức tranh hiện thực đầy rẫy bất công, u tối. Nó phản ánh cái nhìn đầy cảm thông và thăm thẳm chiều sâu nhân văn về người nông dân trong xã hội cũ của nhà văn.

2. Con người bi kịch.

Cuộc đời Chí Phèo là một chuỗi ngày dài đầy bi kịch: bi kịch trong thân phận một đứa trẻ mồ côi đi ở đợ; bi kịch bị tha hóa nhân hình, nhân tính…Thế nhưng, bi kịch lớn nhất và đau đớn nhất chính là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người của Chí Phèo. Và khi bi kịch này bắt đầu thì nó kéo theo bi kịch của sự cô đơn.

Khi Chí Phèo xuất hiện giữa trang văn Nam Cao với tiếng chửi cứ kéo dài ra mãi thì cũng là lúc bi kịch cuộc đời Chí rõ ràng hiện ra trong từng câu chữ. Cùng với quá trình tha hóa, Chí Phèo đã sống cuộc đời bi kịch bị tước đoạt mất quyền làm người. Trở về làng Vũ Đại sau bảy tám năm ở tù, Chí Phèo trở thành con người bị đồng loại xa lánh, chối bỏ, phải sống “bên lề cuộc đời, ngoài rìa xã hội”.

Chí Phèo đang tồn tại mà như không hề tồn tại vì hắn chỉ là một tên lưu manh, dù sống cũng như đã chết vì “ngay đến cái thẻ có biên tuổi hắn cũng không có trong sổ làng, người ta vẫn khai hắn vào hạng lưu tán, lâu năm không về làng”. Thế là, hắn trở về trong nhân hình, nhân tính của con quỹ dữ đã không được đồng loại chấp nhận. Vì vậy, hắn cô độc trong bi kịch làm người mà bị con người xa lánh như xa lánh con vật. Cuộc đời hắn bây giờ chỉ là triền miên những cơn say, kéo dài không dứt những tiếng chửi. Hắn chửi trời, chửi đời, chửi làng Vũ Đại, chửi người đẻ ra hắn.

Nhưng bi kịch thay, hắn chửi nhưng chẳng ai thèm chửi lại với hắn, ai cũng tự nhủ “chắc nó trừ mình ra”. Bởi vì, thực ra không ai xem hắn là người. Hắn tồn tại trong làng Vũ Đại với cuộc sống tăm tối như cuộc sống con vật, hung ác như con quỹ dữ, lạc loài với mọi người, xa lạ với xã hội loài người. Chí Phèo tức tối vì không ai chửi lại nhưng đã không được xem là người thì sự tức tối của Chí cũng chẳng ích gì.

Thậm chí, dù khi hắn rạch mặt ăn vạ, kêu làng “như một người bị đâm” để gây sự chú ý ở đồng loại thì cũng chỉ làm Thị Nở kinh ngạc còn cả làng “không ai ra điều”, đáp lại chỉ là tiếng sủa của những con chó. Bị xã hội xa lánh, không chấp nhận quyền làm người thì dù Chí Phèo có chửi, có khóc la, có uống rượu kêu làng, có rạch mặt ăn vạ thì cũng chẳng ích gì. Chí Phèo đã bị xã hội chối bỏ. Cuộc đời hắn là chuỗi dài bi kịch của con người bị tước đoạt quyền làm người.

Thế nhưng, bi kịch đó chỉ được ý thức sâu sắc và thấm thía nỗi đau khi Thị Nở xuất hiện trong cuộc đời hắn. Trong cái đêm mà “trăng tỏa trên sông, và sông gợn biết bao nhiêu gợn vàng”, Chí Phèo gặp Thị đang “ngồi tênh hênh” ngủ trong vườn chuối và hắn thấy “cái gì rộn rạo ran khắp người”, rối hắn “run run”. Lần đầu tiên sau bao ngày dài triền miên trong vô thức, không ý niệm ngày tháng và cảm xúc cuộc sống, Chí Phèo có những cảm giác con người. Cuộc làm tình với Thị Nở, những cử chỉ săn sóc của Thị đã làm sống dậy trong Chí không chỉ cái bản năng người đàn ông mà cả những cảm xúc, những ước mơ rất thật của con người.

Sau những ngày đắm mình trong những cơn say dài, Chí tỉnh dậy trong trạng thái hoàn toàn tỉnh táo, thấy “bâng khuâng” và lòng “mơ hồ buồn”. Những âm vọng cuộc sống thường nhật bình dị dội vào lòng hắn: “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá! Có tiếng nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”, cả tiếng trò chuyện của những người đi buôn vải… Những âm thanh giản dị tha thiết gọi về trong hắn những cảm xúc con người. Chí Phèo nhìn lại cuộc đời, nhớ về niềm ao ước một mái gia đình trong quá khứ, sợ sự cô độc khi “tới cái dốc bên kia của đời” và khát khao mãnh liệt được làm người lương thiện.

Tình yêu, sự chăm sóc của Thị Nở với bát cháo hành gợi lên trong hắn khát khao được yêu thương, được quan tâm, được chan hòa sống trong thế giới con người và được làm người. “Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn. Thị có thể sống yên ổn với hắn thì sao người khác lại không thể được. Họ sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện… ?”.

Thế nhưng, bà cô Thị Nở xuất hiện đã dập tắt đi trong Chí cái khát khao lương thiện mới vừa nhen nhóm. Ngay một người đàn bà “mả hủi” không chồng như bà cô Thị Nở cũng không cấp nhận Chí thì những người khác sao có thể “mở đường” cho Chí. Ngay cả một người đàn bà “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích và xấu ma chê quỷ hờn” mà “người ta tránh thị như tránh con vật nào rất tởm”, Chí cũng không thể kết thân sống cùng thì có xã hội nào chấp nhận Chí? Chí cố gắng níu giữ nhưng cái gạt tay của Thị Nở chỉ đưa Chí rơi vào sự tuyệt vọng đau đớn.

Chí Phèo vật vã trong bi kịch tinh thần của con người sinh ra là người nhưng không được chấp nhận làm người. Một người đàn bà mà gia tài chỉ có “cái xấu, cái nghèo, cái ngẩn ngơ” không ai cần đến như Thị Nở thì Chí Phèo cũng không thể với tới được. Chí Phèo không thể chạm tay vào cái tối thiểu, cái tầm thường nhất vì Chí không được chấp nhận là người. Chí Phèo “ôm mặt khóc rưng rức” trong “thoang thoảng thấy hơi cháo hành” như thấm thía sâu sắc nỗi đau.

Và lần này, không như mọi lần, Chí Phèo “càng uống càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ơi buồn”. Bởi vì, Chí đã ý thức được nỗi đau, ý thức được bi kịch tinh thần trong khát khao làm người lương thiện thì Chí không thể quay lại cuộc sống như bản năng vô thức trong lốt con quỹ. Càng uống càng tỉnh thì Chí càng đau đớn. Hắn xách dao đến nhà Bá Kiến, tìm đến nguồn gốc bi kịch cuộc đời hắn với ý thức nỗi đau bằng câu nói nhức nhối “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này ? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!”.

Chí Phèo giết Bá Kiến trả thù và tự kết liễu cuộc đời mình. Cái chết của Chí Phèo kết thúc cho một chuỗi ngày dài trong bi kịch bị xã hội chối bỏ quyền làm người nhưng cũng mở ra thăm thẳm những nỗi đau của bức tranh hiện thực cuộc sống. Nó càng khoét sâu thêm sự nhức nhối trong bi kịch tinh thần của Chí Phèo. Thèm lương thiện và thoáng thấy con đường trở về cuộc sống làm người nhưng Chí Phèo phải tự kết liễu cuộc đời và chết ngay trên ngưỡng cửa về với cuộc đời. Bởi lẽ, hắn không thể về lại cuộc sống cũ nhưng cũng không thể bước qua ngưỡng cửa đó để hòa nhập cuộc sống con người vì không ai chìa tay ra mở đường cho hắn. Vì vậy, cái chết Chí Phèo như một tất yếu. Chết vì khát khao làm người mà không thể làm người.

Chí Phèo chết nhưng cái bóng ngật ngưỡng của Chí trong những cơn say, những tiếng chửi của Chí và cái chết đau đớn của Chí cứ bám riết tâm trí người đọc về nỗi đau của con người không được là người. Khám phá ra bản tính tốt đẹp đằng sau hình hài quỹ dữ của Chí Phèo, phát hiện ra bi kịch bị từ chối làm người của Chí Phèo cho thấy ngòi bút sắc lạnh của Nam Cao tuy có vẻ lạnh lùng, tàn nhẫn nhưng đầy chan chứa yêu thương và thông cảm trước cuộc đời người nông dân trong xã hội cũ.

3. Con người cô đơn.

Nỗi bi kịch của cuộc đời bị tha hóa, bị chối bỏ làm người của nhân vật Chí Phèo làm ta xót xa nhưng có lẽ, nhức nhối khôn nguôi đó chính là nỗi cô đơn tận cùng trong kiếp con người của Chí. Đó là nỗi đau lớn nhất, xa xót nhất. Chưa bao giờ trong văn học thời bấy giờ có hình tượng con người cô đơn như vậy. Hình tượng con người cô đơn là sự độc đáo trong quan niệm nghệ thuật về con người và mang tính nhân văn sâu sắc của Nam Cao.

Ngòi bút tinh tế của Nam Cao đã khám phá sâu thẳm vào những ngõ ngách tâm lí của con người và ngầm ẩn cảm thông cho cuộc đời cô đơn của Chí Phèo. Có thế, tác giả mới thấu hiểu và để cho Chí Phèo tự nghiệm ra “Cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Chí Phèo sống “ngật ngưỡng” trong văn Nam Cao một kiếp sống cô độc: cô độc từ lúc sinh ra cho đến khi chết đi, cô độc trong thời gian cho đến không gian sống, cô độc trong mọi mối quan hệ người.

Xuất hiện trên cõi đời, Chí Phèo là một đứa trẻ mồ côi, dù qua tay bao người nuôi nhưng cuối cùng cũng không có nổi một mái ấm gia đình và khi bác phó cối chết, Chí lại sống cuộc đời mồ côi bơ vơ. Lớn lên, cuộc đời Chí cũng chẳng có gì sáng sủa. Chí chưa từng có một mối quan hệ người nào đúng nghĩa. Cuộc sống gia đình có chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải đó chỉ là mơ ước.

Trong các mối quan hệ còn lại: với bá Kiến, với bà Ba, với Thị Nở, bà cô Thị Nở và với dân làng Vũ Đại, Chí hoàn toàn cô độc vì hắn không được yêu thương, không được nhìn nhận như một con người. Với Bá Kiến, Chí Phèo chỉ là công cụ đâm thuê chém mướn. Với bà Ba, Chí là công cụ thỏa mãn bản năng phi nhân tính. Với bà cô Thị Nở, Chí không phải là người. Với cả làng Vũ đại, Chí là “con quỹ dữ”. Chỉ có trong quan hệ Thị Nở, Chí được năm ngày sống như một con người, có người yêu thương nhưng quãng thời gian ngắn ngủi đó chỉ làm Chí càng ý thức rõ hơn về sự cô độc, về nỗi đau của chính mình. Vì vậy, có thể nói cuộc đời Chí Phèo là một chuỗi dài ngày tháng cô đơn.

Sống trong xã hội của con người, Chí không được chấp nhận làm người nên cuộc đời hắn thật cô độc. Khi đã bước vào con đường lưu manh hóa, Chí chỉ biết đập mặt ăn vạ, giết người, cướp của… Còn ngoài ra, cuộc sống hắn hoàn toàn cô độc. Vì vậy, Chí triền miên trong những cơn say từ ngày này qua ngày khác, triền miên trong những tiếng chửi trời, chứi đời, chửi làng Vũ Đại, chửi người sinh ra hắn. Phải chăng, những tiếng chửi kia là khát khao được đối thoại? Phải chăng, những cơn say kia là Chí đang trốn mình tìm quên đi nỗi cô đơn cùng cực? Còn gì đau đớn hơn, cô đơn hơn khi là người nhưng không được làm người; là người nhưng không một ai trò chuyện, không một ai yêu thương. Cuộc đời con người đáng sợ nhất là sự cô đơn.

Có một nhà văn đã từng viết “Cô đơn là cho đi mà không người nhận, muốn nhận mà không có ai cho. Cô đơn là chờ đợi, mà cái mình chờ chẳng bao giờ đến. Như hai bờ sống nhìn nhau mà vẫn nghìn trùng xa cách bởi dòng sông, nên cô đơn là gần nhau mà vẫn cách biệt. Không phải cách biệt không gian mà cách biệt của cõi lòng”. Chí Phèo sống một cuộc đời cô đơn như thế mà cả cô đơn hơn thế. Bởi có người cô đơn trong lòng khi họ vẫn được trò chuyện với mọi người, vẫn sống trong mái gia đình.

Còn Chí Phèo cô đơn ngay ở không gian sống cách biệt không người lại qua (bãi dâu bên sông). Không người trò chuyện, Chí đã chọn cách đối thoại dễ chạm lòng người, dễ được đối thoại nhất là tiếng chửi, chỉ để mong được chửi lại. Nhưng không có người trực tiếp để chửi nên Chí chửi vu vơ: chửi trời, chửi đời, chửi người. Tiếng chửi của Chí Phèo chỉ được đáp trả bằng sự im lặng của mọi người và tiếng sủa của những con chó: “hắn kêu làng thì không ai cần động dạng, họ lạu bạu chửi rồi lại ngủ, hắn kêu làng cũng như người khác buồn, hát ngao. Đáp lại hắn chỉ có lũ chó cắn xao lên trong xóm”. Khi hắn rạch mặt ăn vạ thì cũng chỉ có “ba con chó dữ với một thằng say rượụ”. Những tín hiệu đối thoại thấp hèn nhất của Chí Phèo không được đáp trả, hắn chỉ càng thêm cô độc trong kiếp làm người không giống người.

Khi Thị Nở đến, tình yêu và sự chăm sóc của thị như những tia nắng sưởi ấm cõi lòng giá băng, cô độc của Chí. Thế nhưng, đó chỉ là thứ nắng quái vừa thắp lên đã vội tắt. Nó làm Chí càng ý thức rõ và đau đớn hơn nỗi cô đơn trong kiếp làm người của mình. Bát cháo còn thoảng hơi hành đâu đây, những cử chỉ yêu thương mới vừa xảy ra thôi mà Thị Nở sau khi tạm “dừng yêu” về hỏi bà cô đã quay lại trút tất cả giận hờn, cay đắng lên Chí Phèo. Mới mơ ước cuộc sống gia đình đó bây giờ đã bị dập tắt.

Chí cố gắng níu kéo, van xin thì Thị “gạt ra, lại giúi thêm một cái”. Đau đớn biết bao khi ngỡ Thị Nở sẽ là bàn tay “cứu chuộc” Chí ra khỏi nỗi cô đơn của cuộc đời “quỹ dữ” thì chính bàn tay đó lại “ruồng bỏ” Chí, làm tan đi những ước mơ về mái gia đình và cuộc sống hòa nhập với con người. Chính trong giây phút này, Chí mới cô đơn hơn hết cả. Người ta càng cô đơn hơn khi ý thức sâu sắc về nó. Chí tìm đến Bá Kiến trong sự tuyệt vọng, trả thù và kết liễu đời mình.

Và ngay cả khi chết, Chí vẫn cô đơn. Làng Vũ Đại vốn không xem Chí là người thì dửng dưng bàn tán. Chỉ có Thị Nở từng có một quãng thời gian nhân ngãi yêu thương với Chí thì cũng ngẩn ngơ nhìn xuống bụng nghĩ về một cái lò gạch bỏ không như muốn cắt đứt mối liên hệ còn sót lại với Chí. Vì vậy, lúc còn sống hay cả khi chết đi rồi, Chí Phèo hoàn toàn cô đơn. Cuộc đời cô đơn của Chí Phèo nhức nhối trong trang văn Nam Cao làm ta càng xót xa thêm về số phận người nông dân trong xã hội cũ.

4. Con người tự ý thức

Kiểu con người tự ý thức xuất hiện đậm đặc trong văn Nam Cao ở mảng đề tài trí thức với nhân vật Hộ trong “Đời thừa”, Điền trong “Trăng sáng”… Thế nhưng, đọc truyện ngắn “Chí Phèo”, ta vẫn thấy thấp thoáng bóng dáng kiểu con người này ở nhân vật Chí Phèo.

Nhân vật của Nam Cao khi chênh vênh trên ranh giới thiện – ác, người – vật, vô thức – ý thức thường tự ý thức để khẳng định vẻ đẹp nhân cách của mình. Ý thức là cái giúp phân biệt con người với loài vật. Tự ý thức là trình độ cao của ý thức, thể hiện khi con người tự suy ngẫm, nhìn vào cõi lòng mình để hướng tới sự hoàn thiện. Nhân vật Chí Phèo sống cuộc đời dằng dặc trong vô thức với bản năng của con quỹ dữ nhưng cũng có những khoảng lặng ý thức tự ngẫm về cuộc đời mình.

Lần đầu tiên Chí Phèo ý thức được về cuộc đời mình là khi Thị Nở xuất hiện trong cuộc đời hắn. Trước đó, trong những cơn say, Chí buông tiếng chửi thì dường như hắn cũng có ý thức, cũng biết tức vì không ai chửi lại nhưng đó chỉ là ý thức mơ hồ. Khi Thị Nở đến cùng tình yêu, sự chăm sóc thì những cảm xúc, những ước mơ khao khát, những suy ngẫm về cuộc đời rất rõ ràng xuất hiện trong đầu Chí. Đó là ý thức rất người của Chí Phèo, ý thức hoàn toàn tỉnh táo. Nghĩ về mơ ước quá khứ xa xôi, hắn “nao nao buồn”; nghĩ về hiện tại ốm đau, hắn thấy cô độc và “buồn thay cho đời”.

Những âm thanh bình dị cuộc sống như tiếng chim hót, tiếng gõ mái chèo đuổi cá, tiếng trò chuyện của người đi chợ… dội vào lòng Chí Phèo, bật lên thành tiếng thở dài “Chao ôi là buồn!”. Cảm nhận sâu sắc nỗi buồn đó vì Chí Phèo đã ý thức được quãng đời tăm tối trong lốt con quỹ dữ của mình, ý thức được sự cô đơn và nỗi buồn bị đồng loại xa lánh. Chưa bao giờ, hắn ý thức giá trị con người như thế. Ý thức được là người thì phải được sống trong những mối quan hệ con người. Vì vậy, hắn khát khao lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người thông qua Thị Nở. Lần ý thức này mở ra trong Chí hi vọng, mơ ước, khát khao về những điều tốt đẹp.

Thế nhưng, càng hi vọng bao nhiêu thì nỗi đau đớn tuyệt vọng khi không đạt được càng thẳm sâu bấy nhiêu. Khi sự can ngăn của bà cô Thị Nở buông ra, Thị Nở bỏ mặc hắn níu kéo thì nẻo về cuộc đời lương thiện của Chí Phèo hoàn toàn bị cắt đứt. Lần này là lần thứ hai Chí Phèo ý thức được nỗi đau, ý thức được bi kịch cuộc đời. Ý thức thẳm sâu về kẻ thù đã gây nên bi kịch cuộc đời mình đã đưa chân Chí Phèo đến nhà Bá Kiến. Sự tự ý thức đó thể hiện rõ trong câu nói đầy đau đớn “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những vết mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện nữa. Biết không!” Một người tưởng đã mất hết tính người đã ý thức được sâu sắc bi kịch không được làm người của mình. Và giết chết kẻ thù, tự kết liễu đời mình cũng chính là Chí Phèo ý thức được hắn không thể làm người lương thiện được và cũng không thể sống như trước nữa.

Chính trong sự tự ý thức đầy đau đớn đó, nhân vật Nam Cao tỏa sáng vẻ đẹp nhân cách. Nam Cao đã phát hiện ra vẻ đẹp tâm hồn lương thiện còn sót lại ở Chí Phèo như một sự khẳng định vẻ đẹp con người với tấm lòng nhân đạo sâu sắc. Sự tự ý thức đã khơi nguồn trong ta những cái nhìn mới đầy tính nhân văn về con người. Con người dù tha hóa đến mất nhân tính nhân hình như Chí Phèo thì vẫn có những phút lóe sáng vẻ đẹp nhân cách. Nam Cao không hề đánh mất niềm tin vào con người. Chính trên bờ vực của sự tha hóa, sự tự ý thức đã kéo nhân vật đứng vững, không tăm tối mãi trong cuộc sống như thú vật. Cái nhìn mang vẻ đẹp đầy nhân bản của Nam Cao làm ta thêm yêu mến những trang văn sống động, chân thật như những trang đời.

5. Con người với bản thể tự nhiên.

Bàn về nhân vật Chí Phèo, Nguyễn Quang Trung cho rằng chỗ tuyệt bút của Nam Cao là ông đã xây dựng nhân vật Chí Phèo với “sự lưỡng hóa về tính cách”. Sự lưỡng hóa tính cách giữa đôi bờ say tỉnh của vô thức và ý thức, giữa thiện và ác đó cũng chính là bản thể tự nhiên của con người. Đó cũng là một phát hiện độc đáo trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nam Cao.

Con người sinh ra trên đời không ai tốt hay xấu hoàn toàn. Thiện hay ác do chủ quan cá nhân cùng với sự tác động hoàn cảnh tạo nên. Nhân vật Chí Phèo của Nam Cao là sự đan xen bản tính thiện ác theo từng giai đoạn. Từ một anh canh điền lương thiện, Chí đánh mất nhân tính, biến dạng nhân hình thành con quỹ dữ của làng Vũ Đại; từ kẻ tha hóa, Chí mơ ước được làm người lương thiện. Dù phần ác đó chiếm phần nhiều và che khuất đi bản tính hiền lành tự nhiên của con người Chí Phèo nhưng có thể thấy, Chí Phèo có tính cách hoàn toàn hợp tự nhiên.

Chí Phèo hung dữ, tưởng không còn là người cũng có những phút run run khi thấy Thị Nở, cũng biết làm tình, biết làm nũng như trẻ con. Trước Chí Phèo, Nam Cao đã phát hiện ra rằng “Ôi sao mà hắn hiền! Ai dám bảo đó là thằng Chí Phèo vẫn đập đầu, rạch mặt và đâm chém người? Ðó là cái bản tính của hắn, ngày thường bị lấp đi”. Sự đan xen thiện – ác, phần người và phần thú trong con người Chí cũng hiện hữu trong tất cả chúng ta – những ai tồn tại với hai tiếng “con người”. Chỉ có điều, sự nổi lên của phần người hay phần thú đó là do tác động hoàn cảnh và khả năng mỗi người. Phát hiện ra bản thể tự nhiên trong con người Chí Phèo thể hiện sự mới mẻ, giàu ý nghĩa trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nam Cao so với văn học thời bấy giờ. Nó cũng giúp chúng ta nhìn lại mình và nhân đạo hơn trong việc đánh giá một con người.

2. Sự sáng tạo và ý nghĩa nhân văn trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nam Cao trong truyện ngắn “Chí Phèo”.

Nam Cao đã từng khẳng định “Một tác phẩm thật giá trị phải vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người”. Truyện ngắn Chí Phèo của ông đã làm được điều đó, hoàn toàn xứng đáng được xem là một tác phẩm giá trị về nội dung lẫn nghệ thuật. Bên cạnh sự thành công ở những bình diện khác của thi pháp như ngôn ngữ, giọng điệu, xây dựng nhân vật,…quan niệm nghệ thuật về con người của Nam Cao thể hiện qua nhân vật Chí Phèo đã phần nào cho thấy sự đổi mới đầy sáng tạo trong nghệ thuật thể hiện cũng như chiều sâu nhân văn trong cách nhìn con người.

Cùng với những quan niệm về con người như đã nói, Nam Cao đã không dẫm lên lối mòn cũ của những nhà văn hiện thực đi trước trong cách khám phá hiện thực và con người. Ông đã tự khai thông cho mình một con đường riêng tuy vất vả, khó khăn nhưng đầy dấu ấn sáng tạo. Nếu như Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan,… khám phá hiện thực chủ yếu trên những xung đột xã hội, giai cấp trực tiếp thì Nam Cao đi sâu vào những xung đột tâm lí nhân vật. Viết về người nông dân, văn học hiện thực thời bấy giờ chỉ quen nhìn con người trong con người nguyên phiến, thuần nhất về tính cách.

Văn học thể hiện nỗi khổ con người chủ yếu để bộc lộ sự thông cảm và ngợi ca phẩm chất tốt đẹp của nhân vật. Chị Dậu, anh Pha dù bị dồn đẩy, bức ép của hoàn cảnh xã hội đen tối nhưng luôn giữ vững nhân cách. Thế nhưng, ở con người Chí Phèo, Nam Cao không chỉ phát hiện ra nỗi bi kịch, sự tha hóa mà còn thấy những khoảng lặng cô đơn, sự tự ý thức đầy đau đớn và cả con người mang bản tính thiện – ác tự nhiên. Đó là một cách nhìn con người hoàn toàn mới mẻ và sáng tạo.

Đổi mới và sáng tạo trong quan niệm nghệ thuật về con người, Nam Cao đã cho thấy chiều sâu trong cách phản ánh hiện thực, chiều sâu của tấm lòng nhân đạo chan chứa yêu thương của nhà văn. Qua con người Chí Phèo, ta thấy được một bức tranh xã hội cũ đen tối dồn đẩy con người ta tha hóa, vẫy vùng tuyệt vọng trong bi kịch không được làm người, đau đớn trong nỗi cô đơn đến tận cùng.

Xưa nay, các nhà văn thường diễn tả nỗi khổ người nông dân nghèo đói vì áp bức. Với Nam Cao, ông cũng quan tâm đến nỗi khổ vì cái đói, miếng ăn nhưng ông thể hiện nhức nhối hơn nỗi đau của bi kịch nhân cách, nỗi cô đơn tuyệt vọng ít ai quan tâm đến trong giai đoạn này. Phát hiện ra bản tính thiện – ác rất đỗi tự nhiên của con người, Nam Cao cũng đã thể hiện lòng nhân đạo sâu sắc và niềm tin khôn nguôi vào con người.

Có thể không đặt kì vọng nhiều vào con người nhưng Nam Cao không bao giờ mất niềm tin vào con người. Đó cũng chính là ý nghĩa nhân văn sâu sắc trong tác phẩm của ông. Phải chăng, chính những sáng tạo mới mẻ cùng tấm lòng thông cảm, tràn đầy yêu thương của nhà văn mà những tác phẩm của ông đã lay gọi tâm hồn bao thế hệ bạn đọc với niềm yêu mến, trân trọng? Đó cũng chính là điều đã đưa Nam cao bước lên đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực phê phán và vươn đến tính hiện đại, hứa hẹn một nền văn học hiện đại, mới mẻ trong cách thể hiện, giàu khám phá và sáng tạo.

  • Kết bài:

Là một nhà văn tâm huyết với nghề, luôn muốn sáng tạo ra những tác phẩm có giá trị, Nam Cao như con tằm đã nhả hết tơ cho đời, cho nghiệp văn chương bằng chính vốn liếng, kinh nghiệm cầm bút của mình. Truyện ngắn “Chí Phèo” không chỉ làm rõ quan niệm nghệ thuật về con người của Nam Cao mà giúp ta yêu hơn một tài năng đang độ chín, quý hơn một tấm lòng đầy yêu thương, trân trọng con người.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.