So sánh chi tiết dòng nước mắt của bà cụ Tứ trong Vợ nhặt (Kim Lân) và người đàn bà hàng chài trong Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)

so-sanh-chi-tiet-nuoc-mat-cua-ba-cu-tu-trong-vo-nhat-kim-lan-va-nguoi-dan-ba-hang-chai-trong-chiec-thuyen-ngoai-xa-nguyen-minh-chau

So sánh chi tiết dòng nước mắt của bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt” (Kim Lân) và người đàn bà hàng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa” (Nguyễn Minh Châu)

1. Hình ảnh dòng nước mắt của bà cụ Tứ trong Vợ nhặt:

Truyện ngắn Vợ nhặt được đặt trong bối cảnh nạn đói thê thảm năm 1945 với trên hai triệu đồng bào nước ta bị chết đói. Trong cái chết bủa vây ấy, Tràng dẫn cô vợ về nhà ra mắt mẹ. Sự kiện này làm xáo động cả vùng quê, cả xóm ngụ cư nghèo khổ. Họ ngạc nhiên vì trong thời buổi đói khát này, Tràng lại liều mạng rước thêm một miệng ăn. Là người trong cuộc nhưng chính Tràng cũng ngạc nhiên không kém, anh không thể ngờ được mình lại có vợ, vợ theo, lấy vợ một cách hiển hách. Rồi đến cả bà cụ Tứ, dường như bà như không dám tin vào mắt vào tai mình.

Việc Tràng dẫn người con gái lạ về ra mắt mẹ đã khiến cho bà cụ Tứ ngạc nhiên. Khi vào nhà, bà băn khoăn ngồi xuống giường. Tràng mở lời: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ !”. Chữ “nhà tôi” rồi “làm bạn” của anh Tràng nghe mà đứt ruột. Đến lúc này bà cụ mới hiểu ra “cơ sự”, người mẹ nhạy cảm nhận ra cảnh bi hài của câu chuyện, để rồi nỗi tủi thân đã hóa thành nước mắt “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Lòng bà ngổn ngang trăm mối, chồng chất bao nỗi niềm suy tư.

“Dòng nước mắt” của bà cụ Tứ là biểu hiện của nỗi đau khổ, tủi phận: con lấy vợ vào giữa ngày đói khiến bà lão vừa mừng lại vừa tủi, vừa lo lắng. Dòng nước mắt chỉ “rỉ” ra hiếm hoi bởi cả đời đã cạn khô nước mắt trong những tháng ngày khốn khổ dằng dặc. “Kẽ mắt kèm nhèm” là sự hiện hình của một bức chân dung đầy khổ hạnh của người phụ nữ nông dân lớn tuổi. Là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng: tình thương con thắt lòng.

Bà cụ tủi thân vì cho rằng mình chưa làm tròn bổn phận người mẹ:“chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Với người phụ nữ Việt Nam thì nào đâu chỉ có việc mang nặng đẻ đau, nuôi con trưởng thành, mà còn phải lo cho con yên bề gia thất. Cha mẹ nào chưa lo được tấm chồng, cô vợ cho con thì chết không nhắm mắt được. Với quan niệm truyền thống ấy, bà cụ Tứ cũng hiện lên đầy tâm sự.

Trong lời độc thoại ở trên, bà đã thầm so sánh “người ta” với “mình”, nghĩ đến người ta, bà thấy tủi thân mình, vì người ta giàu có, có của ăn của để lo được cho con, còn bà thì có “dăm ba mâm cơm” cũng không lo được cho con. Đằng sau dấu chấm lửng mà Kim Lân cố tình để lại ấy là nỗi lòng, là nước mắt của người mẹ già tội nghiệp. Bà xót thương cho các con: Thứ nhất là xót thương cho “số kiếp đứa con mình” vì bà hiểu rằng con trai bà không được bình thường, không được may mắn như con nhà người. Nghĩ thế nhưng bà không hề rẻ rúng coi thường cô con dâu mà ngược lại tấm lòng người mẹ ấy trào dâng những tình cảm dành cho người con gái cùng đường lỡ bước:“Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ…”.

Trong suy nghĩ đầy nhân văn ấy, người mẹ đã đồng cảm với cô con dâu bị nạn đói đẩy cho tới đường cùng buộc phải liều thân theo một anh chàng xấu xí về làm vợ. Cũng trong suy nghĩ ấy bà cũng thầm cảm ơn cô con dâu vì nhờ thị mà con trai bà mới có được vợ. Tình thương người đàn bà vợ nhặt ấy còn được thể hiện trong hành động vồn vã, ân cần, cử chỉ quan tâm “con ngồi xuống đây, ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”; trong suy nghĩ nhân hậu: “bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi”.

Bao nhiêu nỗi niềm được nén lại của người mẹ trong mấy chữ:“Ừ! thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Mẹ chỉ “mừng lòng” chứ không phải là “vui lòng”. Vì một lẽ giản đơn, đặt trong hoàn cảnh đói kém như thế nỗi mừng chưa đủ để gọi là vui. Nhưng  chính câu nói ấy đã xua tan nỗi phấp phỏng lo âu cho Tràng, xóa đi nỗi bẽ bàng, lo sợ cho người con dâu, thổi vào tâm hồn đôi trẻ một luồng gió mới và mở ra một hạnh phúc trong tầm tay. Bà cụ khuyên nhủ, động viên con những điều chí tình, đôn hậu, tràn đầy niềm lạc quan.

Là người từng trải, kinh qua bao nỗi nhọc nhằn nên người mẹ ấy hiểu lắm, cảm thông lắm. Khổ đau, đói rét không quật ngã được người mẹ ấy vì mẹ tin rằng: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Đó cũng là triết lý sống dân gian đã dưỡng nuôi bao tâm hồn con người Việt. Mẹ động viên “Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may  ra ông giời cho khá…”. Lời động viên ấy là lời chí tình là cả niềm tin mãnh liệt của bà. Bà dặn dò, bảo ban hai con “Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi”. Lời khuyên ấy của người mẹ là món quà vô giá, gói trọn bao tình yêu thương vô bờ của bà dành cho các con. Tấm lòng người mẹ ấy cao đẹp biết nhường nào!

Kim Lân ba lần tả dòng nước mắt của bà cụ Tứ và bốn lần trực tiếp tả nỗi lo lắng của bà: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không ?”. Nghĩ về cuộc đời mình bà lại càng lo cho con: “Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không ?”. Lần thứ hai, người mẹ nghèo khổ ấy để những giọt nước mắt lo lắng, tủi buồn của mình chảy ròng ròng trên khuôn mặt già nua khắc khổ:“Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Đến lúc nghe tiếng trống thúc thuế đầu làng, bà cụ lại một lần nữa xót xa: “Giời đất này không biết có sống qua được không các con ạ?”. Nỗi lo lắng ấy và nước mắt bao lần chảy xuôi chính là lòng yêu thương con vô bờ bến của người mẹ Việt Nam. Thật đáng tự hào và quý trọng biết bao.

Bà dậy sớm cùng con dâu thu dọn nhà cửa như để đón chào một cuộc sống mới tươi vui hơn “làm ăn có cơ khấm khá hơn” đang mở ra ở phía trước. Khuôn mặt bà cụ Tứ có sự thay đổi từ “bủng beo u ám” nay đã “rạng rỡ hẳn lên”. Kim Lân đã làm thay đổi mạch cảm xúc của toàn bộ câu truyện. Cái khuôn mặt ấy ngày hôm qua “bủng beo u ám” bao nhiêu thì hôm nay “rạng rỡ” bấy nhiêu đã làm cho sức sống của câu truyện bỗng bừng sáng ở những dòng cuối.

Hòa chung trong tâm trạng “lửng lơ êm ái” của Tràng, trong cái dáng điệu“hiền hậu đúng mực” của người vợ nhặt. Bà cụ Tứ quả thật đã như được hồi sinh lần thứ hai. Bà đã nhóm lên bếp lửa niềm tin cho các con bằng chính ngọn lửa lạc quan đang thắp sáng cõi lòng bà. Bữa ăn đầu đón nàng dâu thật thảm hại nhưng tất cả đều ăn rất ngon, vui vẻ. Dù ăn cả “chè khoán” bằng cám nhưng bà cụ  vẫn tươi cười, chuyện trò rôm rả, thân mật với hai con. Bà lão nói “toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này”.

Bà còn mở ra một viễn cảnh tươi sáng qua câu chuyện đàn gà: “Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Tao tính rằng cái chỗ đầu bếp kia làm cái chuồng gà thì tiện quá. Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…”. Hình ảnh đàn gà trong câu chuyện của bà cụ Tứ như một liều thuốc tinh thần mở ra bao điều tốt đẹp. “Đôi gà – đàn gà” là sự sinh sôi – sự sinh sôi lấn át sự huỷ diệt, sự sống lấn át cái chết. Chính câu chuyện ấy đã thổi hồn vào bữa ăn, vào khát vọng hạnh phúc của Tràng và người đàn bà. Về điều này, Kim Lân khẳng định“Khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống”. Đó cũng là tinh thần của nhân dân ta từ bao đời nay “Còn da lông mọc còn chồi nảy cây”.

Dòng nước mắt của bà cụ Tứ đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc: phơi bày tình cảnh xã hội những năm trước cách mạng và trong nạn đói 1945; cảm thông thương xót; tố cáo xã hội; trân trọng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người mẹ. Chi tiết nhỏ nhưng nội dung ý nghĩa truyền tải lớn; diễn tả nội tâm nhân vật đặc sắc; tình huống truyện độc đáo; nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, đối thoại sinh động, hấp dẫn; ngôn ngữ mộc mạc giản dị, gắn với khẩu ngữ nhưng được chắt lọc kĩ lưỡng, tạo sức gợi đáng kể; miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sắc sảo…; trần thuật hấp dẫn.

2. Hình ảnh dòng nước mắt của người đàn bà trong Chiếc thuyền ngoài xa:

Đi sâu vào tìm hiểu cuộc đời của người đàn bà làng chài ta mới thấy hết được số phận éo le, bất hạnh của chị. Chị là nạn nhân của đói nghèo và tình trạng bạo lực gia đình: cái xấu đã đeo đuổi chị như một định mệnh, trận đậu mùa quái ác đã để lại những nốt rỗ chằng chịt trên khuôn mặt. Vì xấu không ai lấy nên chị trót có mang với anh hàng chài vẫn thường đến nhà chị mua bả về đan lưới. Từ đấy, chị gắn đời mình với sông nước.

Cuộc sống nghèo khổ, thuyền chật con đông:“nhiều lần biển động phải ăn xương rồng luộc chấm muối”. Vì túng quẫn, đói nghèo, thất học, lạc hậu… lão chồng của chị từ một anh con trai “hiền lành” đã trở thành một kẻ vũ phu thô bạo. Hắn đã lấy phương pháp đánh vợ để giải tỏa những bế tắc cuộc sống: “Ba ngày một trận nhẹ. Năm ngày một trận nặng”. Gia cảnh nghèo khó bế tắc. Cuộc sống đầy tình trạng bạo lực gia đình không lối thoát càng làm cho “dòng nước mắt” ấy thêm đắng cay, nghiệt ngã.

Dòng nước mắt của người đàn bà ấy còn là nước mắt của con người giàu lòng tự trọng, là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng: thương con thắt lòng, khi chồng đánh không hề có bất kì phản ứng nào, nhưng hành động của thằng con khiến chị như sực tỉnh, như bị một viên đạn xuyên qua tâm hồn để thức dậy nỗi đau tận cùng.

Trận đòn cay nghiệt từ lão chồng không có gì kỳ lạ vì nó vẫn là hình ảnh quen thuộc được tính theo chu kỳ “ba ngày, năm ngày” nhưng kỳ lạ là ở thái độ người đàn bà. Trước đòn roi, chị vẫn lặng im chịu đựng, vẫn lặng yên cam chịu như một thói quen:“Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”. Đặc biệt phía sau trận đòn ấy người đàn bà không nước mắt. Thể xác bị chà đạp, tinh thần bị lăng nhục nhưng chị không khóc.

Đó không phải là sự vô cảm, lãnh cảm hay mẫn cảm với đòn roi mà phía sau đó là cả một tấm lòng, một đức hi sinh, vị tha cao thượng của người vợ, người mẹ. Nước mắt ấy chỉ rơi xuống khi việc làm của thằng chồng đã bị con trai và người khách lạ tên Phùng chứng kiến. Bấy giờ chị mới khóc, nước mắt ấy vừa xấu hổ, vừa nhục nhã, nhưng trên hết vẫn là nước mắt của con người giàu lòng tự trọng. Nỗi khổ đau ấy chị muốn mình âm thầm gánh chịu. Chị không muốn ai biết, ai hay. Tấm lòng ấy ở người mẹ, người vợ, người phụ nữ thật cao thượng biết bao.

Nhìn thấy thằng Phác vì thương mẹ mà phạm vào tội ác trái luân thường đạo lí. Người mẹ ấy đã có ứng xử bất ngờ: vái con, ôm con vào lòng. Chi tiết người mẹ vái lạy thằng con khiến người đọc không thể không xót xa, ái ngại. Chị không biết phải giải quyết như thế nào mới phải đạo, cũng  không tìm được giải pháp. Đó là nỗi lo lắng về sự phát triển nhân cách lệch lạc của con.

Trước đó vì thương con, người mẹ đã gửi thằng Phác lên rừng ở với ông ngoại; xin lão chồng có đánh thì mang lên bờ mà đánh. Đó là bởi vì chị thương con, lo lắng cho tương lai của con, không muốn con bị tổn thương tinh thần.

Vượt lên trên sự cay đắng và cơ cực ấy, tình mẫu tử của chị tỏa sáng, đó chính là đức hi sinh cao thượng của thiên chức làm mẹ: Chị gồng mình gánh chịu đòn roi của chồng là bởi vì những đứa con: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!”. Chị hiểu rằng bất kỳ một cuộc hôn nhân tan vỡ nào thì người tổn thương nhất chính là những đứa con. Bởi vậy chị gồng mình gánh lấy những đòn roi của chồng để giữ lại hai chữ Gia Đình cho các con.

Chính tình mẫu tử thiêng liêng  cao thượng đã chắp cánh cho chị, đưa đàn con bay vút lên trên sự cơ cực, đói kém, nhọc nhằn và lam lũ. Đã từng trải qua những giông tố của cuộc đời, từ cuộc tình dang dang dở, cuộc sống mưu sinh đầy bấp bênh, khó nhọc đến bi kịch khổ đau trước sự hành hạ của người chồng, có lẽ hơn ai hết, người phụ nữ miền biển này đã quá thấu hiểu: Cuộc đời này vốn dĩ không đơn giản mà chứa đựng biết bao hiểm nguy và cạm bẫy, đe dọa, rình rập con người. Như con chim sợ cành cây cong, chị như con gà mái mẹ đang xòe đôi cánh vững chãi chở che cho đàn con của mình.

Lo cho chúng từ miếng ăn, giấc ngủ, người phụ nữ ấy biết chắt chiu, giữ gìn những hạnh phúc đời thường. Đó là những niềm vui thật nhỏ bé, bình dị, đơn giản chỉ là những giây phút “vợ chồng con cái hòa thuận, vui vẻ”, là những lúc “con cái được ăn no” cho dù có lẽ những khoảnh khắc ấy là không nhiều trong cuộc sống của chị. Nó như những ánh sao băng vụt sáng qua bầu trời trong thoáng chốc để rồi nhường chỗ lại cho sự thăm thẳm, mờ mịt của vũ trụ. Song người đàn bà hàng chài ấy vẫn cứ nhớ, vẫn cứ nâng niu như là điểm tựa tinh thần bình yên cho thị để sống và nuôi đàn con.

Dòng nước mắt của người đàn bà hàng chài đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Nhà văn đã phơi bày tình cảnh xã hội những năm sau chiến tranh và đêm trước thời kì đổi mới 1986. Đồng thời bày tỏ niềm cảm thông thương xót trước số phận đầy nghiệt ngã của người lao động sau chiến tranh; trân trọng ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người mẹ giàu đức hi sinh.

Tình huống truyện mang tính khám phá, nhận thức, phát hiện đời sống. Ngôn ngữ kể chuyện khách quan, giàu sức thuyết phục. Nhân vật được đặt trong những tình huống khác nhau; được khắc hoạ khách quan, chân thực, vừa có cá tính sắc nét vừa có tính điển hình; ngôn ngữ nhân vật sinh động, phù hợp với tính cách.

Có thể khẳng định: Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn đầu tiên của thời kì đổi mới đã đi sâu khám phá sự thật đời sống, dũng cảm thể hiện những góc khuất của cuộc đời ngay trong chế độ xã hội tốt đẹp của chúng ta. Đúng như lời của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nói: “Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản, và nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất con người vào các tầng sâu lịch sử”.

3. So sánh hai hình tượng:

Hai dòng nước mắt đều là những dòng lệ của người phụ nữ, của người mẹ trong hoàn cảnh nghèo đói và khốn khổ; đều là “giọt châu của loài người”, giọt nước mắt chan chứa tình người trào ra từ tâm hồn những người mẹ giàu lòng vị tha, đức hi sinh; đều góp phần thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm: phản ánh hiện thực xã hội trong những thời điểm khác nhau; thể hiện tấm lòng thương cảm đối với bi kịch của con người và sự trân trọng vẻ đẹp tình đời, tình người của tác giả.

Hai tác phẩm đều cho thấy ngòi bút miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sâu sắc của hai nhà văn qua việc lựa chọn chi tiết đặc sắc. Để khắc họa chi tiết dòng nước mắt, Kim Lân sử dụng hình thức diễn đạt trực tiếp, giản dị; Nguyễn Minh Châu dùng cách diễn đạt ví von, hình ảnh.

Hoàn cảnh riêng của hai nhân vật khác nhau – nước mắt cũng mang những nỗi niềm riêng: Chi tiết dòng nước mắt của bà cụ Tứ gắn với tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ giữa lúc đói kém; bà cụ cảm thấy ai oán, xót thương cho số kiếp đứa con mình và cũng xót tủi cho chính thân phận mình. Còn dòng nước mắt của người đàn bà hàng chài chan chứa sau sự việc thằng Phác đánh lại bố để bảo vệ mẹ và hoàn cảnh éo le, ngang trái của gia đình bà đã diễn ra trước mắt nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng; người phụ nữ vùng biển này thấy đau đớn, nhục nhã vì không thể giấu được bi kịch gia đình, vì thương xót, lo lắng cho con. Phía trước chị là một màu mù xám, bế tắc.

3 Trackbacks / Pingbacks

  1. Phân tích truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" của Nguyễn Minh Châu - Theki.vn
  2. Hướng dẫn cách làm bài văn nghị luận văn học dạng so sánh - Theki.vn
  3. Cảm nhận vẻ đẹp của nhân vật người vợ "nhặt" ("Vợ nhặt" - Kim Lân) và người đàn bà hàng chài ("Chiếc thuyền ngoài xa" - Nguyễn Minh Châu) - Theki.vn

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.