Soạn bài Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu)

soan-bai-chiec-thuyen-ngoai-xa-nguyen-minh-chau

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA
– Nguyễn Minh Châu –

I. Tìm hiểu chung:

1. Tác giả: Nguyễn Minh Châu.

– Nguyễn Minh Châu (1930- 1989), quê ở làng Thơi, xã Quỳnh Hải (nay là xã Sơn Hải), huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Ông là người mở đường cho văn học Việt Nam thời kì đổi mới.

– Trước 1975, Nguyễn Minh Châu là ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn, đến 1980 ông chuyển sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh.

– Tâm điểm những khám phá nghệ thuật của ông là con người trong cuộc mưu sinh, trong hành trình nhọc nhằn kiếm tiền hạnh phúc và hoàn thiện nhân cách.

– Tác phẩm chính : Cửa sông (tiểu thuyết, 1967), Những vùng trời khác nhau (tập truyện ngắn, 1970), Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972),…

⇒ Năm 2000 ông được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

2. Tác phẩm:

– Xuất xứ: Truyện ngắn lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn (in năm 1987).

– Nội dung: Từ câu chuyện về một bức ảnh nghệ thuật và sự thật cuộc đòi đằng sau bức ảnh, truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người: một cách nhìn đa diện, nhiều chiều, phát hiện ra bản chất thật sau vẻ đẹp bên ngoài của hiện tượng.

– Bố cục (3 phần):

– Phần 1 (từ đầu đến “chiếc thuyền lưới vó đã biến mất”): Hai phát hiện của nghệ sĩ Phùng

– Phần 2 (tiếp đó đến “chống chọi với sóng gió giữa phá”): Câu chuyện về người đàn bà hàng chài

– Phần 3 (còn lại): Tấm ảnh được chọn trong bộ lịch năm ấy

– Tóm tắt

Theo yêu cầu của trưởng phòng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đến một vùng ven biển miền trung (cũng là nơi anh đã từng chiến đấu) để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau. Sau nhiều ngày “phục kích”, người nghệ sĩ đã phát hiện và chụp được “một cảnh đắt trời cho” – đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sương. Nhưng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã kinh ngạc hết mức khi chứng kiến từ chính chiếc thuyền đó cảnh một gã chồng vũ phu đánh đập vợ hết sức dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình. Những ngày sau, cảnh tượng đó lại tiếp diễn và lần này người nghệ sĩ đã ra tay can thiệp… Theo lời mời của chánh án Đẩu (một người đồng đội cũ của Phùng) người đàn bà hàng chài đã đến tòa án huyện. Tại đây, người phụ nữ ấy đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng nhất quyết không bỏ người chồng vũ phu. Chị đã kể về cuộc đời mình và đó cũng là lí do giải thích cho việc từ chối trên. Rời vùng biển với khá nhiều ảnh, người nghệ sĩ đã có được tấm ảnh cho bộ lịch năm ấy. Tuy nhiên mỗi lần đứng trước tấm ảnh, người nghệ sĩ đều thấy hiện lên hình ảnh người đàn bà nghèo khổ, lam lũ ấy từ tấm ảnh bước ra.

II. Đọc – hiểu văn bản:

1. Hai phát hiện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh:

* Phát hiện thứ nhất:  Một “cảnh đắt trời cho” là cảnh chiếc thuyền lưới vó ẩn hiện trong biển sơm mờ sương có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào…Với người nghệ sĩ, khung cảnh đó chứa đựng “chân lí của sự hoàn thiện”, làm dấy lên trong Phùng những xúc cảm thẩm mĩ, khiến tâm hồn anh như được gột rửa, thanh lọc.

+ Điểm nhìn: từ xa, trong làn sương mờ ảo.

+ Với đôi mắt tinh tường của nhà nghề, Phùng đã phát hiện ra được vẻ đẹp “trời cho” trên mặt biển mờ sương, vẻ đẹp mà cả đời bấm máy anh chỉ gặp một lần: “Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”

– Cái đẹp tuyệt diệu của thiên nhiên. Khoảnh khắc ấy làm dấy lên trong Phùng những cảm xúc thẩm mĩ, khiến tâm hồn anh được rột rửa, thanh lọc. Và đã nhận ra “bản thân cái đẹp chính làm đạo đức”, bởi đối với người nghệ sĩ, khung cảnh đó chứa đựng “chân lí của sự hoàn thiện” à Đó là chất thơ, vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, cũng là biểu tượng của nghệ thuật.

* Phát hiện thứ hai:  Một cảnh tượng phi thẩm mĩ (một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi; gã đàn ông to lớn, dữ dằn), phi nhân tính (người chồng đánh vợ một cách thô bạo, đứa con thương mẹ đã đánh lại cha,…) giống như trò đùa quái ác, làm Phùng “ngơ ngác” không tin vào mắt mình.

– Điểm nhìn: chiếc thuyền đâm thẳng vào trước chỗ Phùng đứng, gần và rõ nét.

– Hình ảnh: từ chiếc thuyền ngư phủ đẹp như trong mơ bước ra một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi và cam chịu; khuôn mặt mệt mỏi, tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới; người đàn ông với một lão đàn ông thô kệch: tấm lưng rộng và cong, mái tóc tổ quạ, hàng lông mày cháy nắng, hai con mắt đầy vẻ độc dữ. Đánh vợ một cách thô bạo, đứa con thương mẹ mà đánh lại cha. Đây là hình ảnh đằng sau cái đẹp “toàn bích, toàn thiện” mà anh vừa bắt gặp trên biển. Nó hiện ra bất ngờ, làm cho Phùng “ngơ ngác” không tin vào mắt mình “kinh ngạc đến mức, trong mấy phút đầu …. vứt chiếc máy ảnh xuống đất, chạy nhào tới”à Đó là hiện thân của những lam lũ, khốn khó, là sự thật của cuộc đời.

⇒ Đó là sự đối lập giữa cái đẹp và cái xấu, cái thiện và cái ác, giữa cái bề ngoài và bản chất bên trong của hiện thực cuộc sống.

– Qua hai phát hiện của người nghệ sĩ, nhà văn cho thấy: cuộc đời chứa đựng nhiều nghịch lí, mâu thuẫn; không thể đánh giá con người, cuộc sống ở dáng vẻ bên ngoài mà phải đi sâu tìm hiểu, phát hiện bản chất bên trong. Người nghệ sĩ không chỉ cần có tâm hồn nhạy cảm, say mê với cái đẹp mà cũng cần lắm tấm lòng trăn trở, lo âu về thân phận của con người và cuộc đời.

⇒ Qua hai phát hiện của người nghệ sĩ, nhà văn chỉ ra: cuộc đời chứa đựng nhiều nghịch lý, mâu thuẫn; không thể đánh giá co  người, cuộc sống ở dáng vẻ bên ngoài mà phải đi sâu tìm hiể, phát hiện bản chất bên trong.

2. Câu chuyện của người đàn bà hang chài ở tòa án huyện.

–  Đó là câu chuyện về cuộc đời nhiều bí ẩn và éo le của một người đàn bà hàng chài nghèo khổ, lam lũ:

+ Lí do xuất hiện: chánh án Đẩu mời đến để giải quyết việc gia đình.

+ Tình huống truyện: dù thường xuyên chịu những trận đòn, bị đánh đập nhưng người đàn bà hàng chài chấp nhận đánh đổi mọi thứ để không phải bỏ chồng.

+ Nguyên nhân người đàn bà hàng chài không chịu bỏ chồng:

  • Người đàn ông là trụ cột của gia đình.
  • Nuôi những đứa con.
  • Có lúc vợ chồng sống hòa thuận lắm.

+ Sự thay đổi trong thái độ, lời nói, cách xưng hô của người đàn bà hàng chài:

  • Xưng hô: con – quý tòa sang chị – các chú.
  • Thái độ từ sợ sệt, van xin sang cách nói đầy sắc sảo

→ Người đàn bà không cam chịu một cách vô lí mà ngược lại, bà rất am hiểu sự đời, suy nghĩ sắc sảo, thấu tình đạt lí và giàu đức hi sinh, bà không thể chỉ sống cho mình mà còn vì cả những đứa con.

– Người đàn bà kể về chồng của mình:

+ Một người đàn ông cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập vợ

+ Cuộc sống nghèo khổ, ngày càng túng quẫn, người đàn bà đẻ nhiều, thuyền chật nên chồng bà mới trở nên độc dữ như vậy

→ Trong suy nghĩ của bà, sự độc dữ của chồng bà chỉ là sản phẩm của sự nghèo đói, lam lũ

– Sự khác nhau trong cách nhìn người chồng vũ phu của Phùng, Đẩu, thằng Phán và người đàn bà:

+ Phùng, Đẩu, thằng Phán: chỉ nhìn ở vẻ bề ngoài

+ Người đàn bà: ngoài vẻ bề ngoài bà còn nhận ra bản chất bên trong và nguyên nhân dẫn tới sự độc ác, hung dữ của chồng bà

⇒ Thông qua câu chuyện về người đàn bà ở tòa án huyện, tác giả Nguyễn Minh Châu gửi đến thông điệp về cách nhìn nhận cuộc đời: đừng nhìn cuộc đời, con người một cách phiến diện mà phải có cái nhìn đa chiều, trong nhiều mối quan hệ khác nhau

– Câu chuyện đã giúp nghệ sĩ Phùng hiểu về người đàn bà hàng chai (một phụ nữ nghèo khổ, nhẫn nhục, sống kín đáo, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời, có tâm hồn đẹp đẽ, giàu đức hi sinh và lòng vị tha); về người chồng của chị(bất kể lúc nào thấy khổ quá là lôi vợ ra đánh); chánh án Đẩu (có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng kinh nghiệm sống chưa nhiều) và về chính mình (sẵn sàng làm tất cả vì sự công bằng nhưng lại đơn giản trong cách nhìn nhận, suy nghĩ).

⇒ Qua câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài và cách ứng xử của các nhân vật, nhà văn muốn gửi đến người đọc thông điệp: đừng nhìn cuộc đời, con người một cách đơn giản, phiến diện; phải đánh giá sự việc, hiện tượng trong các mối quan hệ đa diện, nhiều chiều.

3. Tấm ảnh được chọn trong “bộ lịch năm ấy”.

+ Mỗi lần nhìn kĩ vào bức ảnh đen trắng, người nghệ sĩ thấy “hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai” (đó là chất thơ, vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, cũng là biểu tượng của nghệ thuật). Và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh” (đó là hiện thân của những lam lũ, khốn khó, là sự thật cuộc đời).

+ Ý nghĩa: Nghệ thuật chân chính không thể tách rời, thoát li cuộc sống. Nghệ thuật chính là cuộc đời và phải vì cuộc đời.

4. Nghệ thuật.

– Tình huống truyện độc đáo, có ý nghĩa khám phá, phát hiện về cuộc sống.

– Tác giả lực chọn ngôi kể, điểm nhìn thích hợp làm cho câu chuyện trở nên gần gũi, chân thực và có sức thuyết phục.

– Ngôn ngữ nhân vật sinh động, phù hợp với tính cách . Lời văn giản dị mà sâu sắc, đa nghĩa.

5. Ý nghĩa văn bản.

Thể hiện những chiệm nghiệm sâu sắc của nhà văn về nghệ thuật và cuộc đời: nghệ thuật chân chính phải luôn luôn gắn với cuộc đời, vì cuộc đời; người nghệ sĩ cần phải nhìn nhận cuộc sống và  con người một cách toàn diện, sâu sắc. tác phẩm cũng rung lên hồi chuông báo động về tình trạng bạo lực gia đình và hậu quả khôn lường của nó.

III. Luyện tập.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.