»» Nội dung bài viết:
NGƯỜI CẦM QUYỀN KHÔI PHỤC UY QUYỀN
(Trích tiểu thuyết “Những người khốn khổ”)
– V.Huy-gô –
I. Tìm hiểu chung:
1. Tác giả V.Huy-Gô
– Vích-to Huy-gô (1802-1885) là nhà thơ, nhà tiểu thuyết, nhà soạn kịch lớn của nước Pháp thế kỉ XIX. Ông được coi là biểu tượng của tự do và nhân đạo
– Thời thơ ấu, ông đã phải trải qua những giằng xé trong tình cảm do giữa cha và mẹ có mâu thuẫn: ông được thừa hưởng kho sách cùng sự giáo dục sáng suốt của mẹ, có những hành trình vất vả theo cha chuyển quân từ nơi này sang nơi khác. Song những trang đời khắc nghiệt ấy lại là những trải nghiệm vô cùng hấp dẫn để lại những dấu ấn không bao giờ phai trong sáng tạo của thiên tài này
– Phương châm sống của ông: Yêu thương là hành động. Suốt cuộc đời của mình ông đã có những hoạt động xã hội và chính trị tác động mạnh mẽ tới những nhân vật và khuynh hướng tiến bộ của thời đại
– Các tác phẩm chính:
+ tiểu thuyết: Những người khốn khổ, Nhà thờ Đức Bà Pa-ri, Chín mươi ba,….
+ thơ: Lá thu, Tia sáng và bóng tối, Trừng phạt,…
+ kịch: Éc-na-ni
– Đặc điểm sáng tác: thể hiện lòng khao khát tự do, bình đẳng, bác ái, đặc biệt là lòng yêu thương bao la với người khốn khổ.
2. Tác phẩm:
– Xuất xứ: “Những người khốn khổ” là bộ tiểu thuyết nổi tiếng trong sự nghiệp đồ sộ của Huy-gô
– Tác phẩm gồm 5 phần:
+ Phần thứ nhất: Phăng-tin
+ Phần thứ hai: Cô-dét
+ Phần thứ ba:Ma-ri-uýt
+ Phần thứ tư: Tình ca phố Pơ-luy-mê và anh hùng ca phố Xanh Đơ-ni
+ Phần thứ năm: Giăng Van-giăng
* Đoạn trích nằm ở cuối phần 1 (vì muốn cứu một nạn nhân bị Gia-ve bắt oan, Giăng Van-giăng đã buộc phải tự thú mình là ai. Bởi vậy ông đến từ giã Phăng-tin trong khi nàng chưa biết gì về sự thật tàn nhẫn đó)
– Bố cục
– Phần 1 (từ đầu đến Phăng-tin đã tắt thở): Giăng Van-giăng mất hết quyền uy trước tên thanh tra mật thám Gia-ve
– Phần 2 (còn lại): Giăng Van-giăng khôi phục uy quyền
– Nội dung: Qua tác phẩm, tác giả muốn gửi gắm thông điệp: Trong hoàn cảnh bất công và tuyệt vọng, con người chân chính vẫn có thể đẩy lùi bóng tối của cường quyền bằng ánh sáng của tình thương và nhem nhóm niềm tin vào tương lai.
II. Đọc – hiểu văn bản:
1. Chân dung tên thanh tra mật thám Gia-ve – con ác thú đội lốt người.
– Nhà văn đã dùng bút pháp nghệ thuật so sánh và ẩn dụ có tính chất phóng đại để khẳng định: bộ dạng, ngôn ngữ và hành động của Gia-ve chẳng khác gì ác thú sắp vồ mồi
+ tiếng thét Mau lên nghe như tiếng thú gầm phóng vào Giăng Van-giăng cặp mắt như cái móc sắt
+ hành động: túm lấy cổ áo…. hắn cười phá lên, cái cười ghê tởm phô ra tất cả hàm răng
– Nội tâm của hắn còn được khắc họa qua thái độ và cách cư xử độc ác với Phăng-tin, người đàn bà tội nghiệp đang hấp hối và trước cái chết của cô:
+ trước khi Phăng-tin tắt thở: ngôn ngữ và hành động man rợ, điên cuồng, hung hãn đối với Giăng Van-giăng: độc ác, tàn nhẫn vùi dập niềm tin và hi vọng của Phăng-tin
+ sau khi Phăng-tin tắt thở: tiếp tục quát tháo đời bắt Giăng Van-giăng, không quan tâm đến cái chết của Phăng-tin mặc dù chính hắn là kẻ gây ra cái chết ấy con quỷ dữ không còn lương tâm
2. Chân dung ông thị trưởng Ma-đơ-len (tức Giăng Van-giăng)- một vị cứu tinh nhân đức
– Trái ngược với Gia-ve, Giăng Van-giăng luôn sẵn sàng hi sinh vì người khác. Ông biết Gia –ve đến bắt ông nên tìm mọi cách trấn an Phăng-tin cho cô đỡ sợ hãi và vẫn tin tưởng vào ông
– Vì sự sống của cô, ông chấp nhận hạ mình năn nỉ Gia-ve đê tiện, xin hắn thư cho ba ngày để ông tìm con của Phăng-tin
– Hoảng sợ và tuyệt vọng trước những lời nói, hành động thô bỉ, tàn nhẫn của Gia-ve, trước sự thực phũ phàng (Cô-dét chưa được tìm về), Phăng-tin đã chết. Cái chết của cô khiến cho thái độ và hành động của Giăng Van-giăng thay đổi đột ngột từ nhẫn nhịn, kiềm chế thành mãnh liệt dữ dội
– Khi cô chết ông phản ứng quyết liệt với Gia-ve, hướng về Phăng-tin với những cử chỉ âu yếm, xót thương và thì thầm lời hứa hẹn khiến linh hồn người chết như cũng cảm nhận được mà thanh thản ra đi: gương mặt Phăng-tin như sáng rỡ lên một cách lạ thường
– Đoạn văn tả Giăng Van-giăng trước cái chết của Phăng-tin đậm chất trữ tình và tính nhân văn khiến người đọc cảm động. Giăng Van-giăng nhân hậu, vị tha là hình tượng điển hình của chủ nghĩa lãng mạn với tình yêu thương con người sâu sắc
– Chi tiết nụ cười nở trên môi Phăng-tin sau khi chị đã chết là ảo tưởng nhưng ý nghĩa của nó lại rất thực
3. Nghệ thuật
– Bút pháp lãng mạn làm nổi bật tâm hồn đầy yêu thương của Giăng Van-giăng
– Thủ pháp tương phả được sử dụng thành công làm nổi bật sự đối lập giữa thiện-ác, tốt-xấu, yêu thương-tàn bạo,…thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm
– Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, nghệ thuật xây dựng, miêu tả tính cách nhân vật sinh động
4. Ý nghĩa văn bản:
Quyền uy mà người cầm quyền khôi phục được chỉ là cái tạm thời; “trên đời chỉ có một điều ấy thôi, đó là thương yêu nhau” mới là vĩnh viễn.
III. Luyện tập:
Câu 1 (trang 80 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
Trong đoạn trích, Phăng-tin không đóng vai trò là một nhân vật chính. Tuy nhiên, cách thể hiện nhân vật vẫn góp phần thể hiện những nét đặc trưng nghệ thuật nổi bật của Huy-gô. Ở nhân vật này, một lần nữa, ta có thể minh hoạ lại nghệ thuật đối lập, như là một nét đặc trưng cho thế giới hình tượng của Huy-gô. Đó là:
a. Nghệ thuật miêu tả nhân vật. Tác giả sử dụng thủ pháp nghệ thuật đối lập:
+ Sự đối lập giữa: Phăng-tin (Nạn nhân) >< Gia-ve (Đao phủ)
+ Sự đối lập giữa: Phăng-tin (Kẻ gặp nạn) >< Giăng Van-giăng (Vị cứu tinh)
b.
– Nghệ thuật miêu tả tâm trạng: trong đoạn trích, Phăng-tin từ tin tưởng tuyệt đối vào Giăng Van-giăng đến lo lắng, sợ hãi (khi Giăng Van-giăng bị Gia-ve lấn át) và đến khi Gia-ve nói: “Tao đã bảo không có ông Ma-đơ-len,… chỉ có thế thôi!” thì chị đã không thể chịu đựng nổi. Chị hoảng hốt rồi mất đi.
⇒ Quá trình diễn biến tâm lí của nhân vật cho ta thấy hiện lên hình ảnh một người phụ nữ thật đáng thương, thật tội nghiệp khi niềm tin về một chỗ dựa có thể giúp vượt qua cái ác bị đổ vỡ. Tuy nhiên, ngôn ngữ và hành động của Phăng-tin lại thể hiện một sức mạnh khác thường. Sức mạnh ấy là niềm tin vào tình thương yêu của con người; tin rằng cái ác không thể ngự trị mãi mãi; tương lai là của tình yêu thương và sự công bằng. Tuy vậy, sự đối lập giữa Phăng-tin và Giăng Van-giăng không bác bỏ sự thật là cả Giăng Van-giăng cũng vẫn là nạn nhân, và cả hai nhân vật đều cùng một tuyến nhân vật nếu xét theo tiêu chí Thiện – Ác.
Câu 2 (trang 80 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
* Vai trò của Phăng- tin trong diễn biến cốt truyện:
– Xúc tác thúc đẩy câu chuyện phát triển
– Nhân vật kiểm chứng sự thể hiện của tính cách Giăng Văn- giang và Gia- ve.
Câu 3 (trang 80 SGK Ngữ văn 11 tập 2)
Sự phân tuyến nhân vật ở đây gần gữi với hệ thống nhân vật của văn học dân gian:
– Sự đối lập thiện >< ác, tốt >< xấu giữa các nhân vật trong truyện.
Gia-ve >< Giăng-van-giăng
(ác) (thiện)
– Qua việc xây dựng hai nhân vật đối lập nhau đoạn trích đã ngợi ca tình cảm yêu thương con người, ước mơ thoát khỏi những bất công của xã hội. Bằng ánh sáng của ình thương yêu con người chúng ta có thể đẩy lùi bóng tối và cường quyền.
Bài văn tham khảo: Phân tích đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” (trích Những người khốn khổ của Vích- to Huy-gô)
Vích-to Huy-gô đã chứng kiến những biến – động lớn lao của nước Pháp gần suốt thế kỉ XIX. Ông đã dần trở thành “nhân vật trung tâm của chủ nghĩa lãng mạn tiến bộ Pháp”. Những tác phẩm của ông thấm nhuần tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, tiêu biểu là Những người khốn khổ. Đoạn trích Người cầm quyển khôi phục uy quyền trong cuốn tiếu thuyết bất hủ này của Huy-gô thể hiện tập trung cảm hứng phê phán và xót thương, phê phán sự tàn ác, vô nhân đạo và xót thương những con người khốn khổ.
Những người khốn khổ (1862) được thai nghén từ năm 1823, trải qua nhiều năm chuẩn bị cống phu, mãi đến ngày 21-5- 1X61 mới viết xong. Những bước thăng trầm của lịch sử đã tác động đến tư tưởng nhà văn trong cả quá trình hư cấu, xây dựng, sửa chữa. Bộ “tiểu thuyết nhân dân”, bản “anh hùng ca của những con người bình thường” này chỉ có thể hoàn thành vào thời kì nhà văn chiến đấu bất khuất vì Công lí, Tự do.
“Khi trên mặt đất, dốt nát và khốn khổ còn tồn tại, thì những quyển sách như loại này còn có thể không phải là vô ích” (Huy-gô). Tác phẩm đã gợi lên lòng thương vô hạn những kẻ khốn cùng trong xã hội va cố gắng mở ra con đường giải quyết số phận của họ. Huy-gô đã khẳng định một điều là chỉ có những con người khốn khổ mới thật sự yêu thương nhau. Tiếng kêu thảm thương của những cháu bé đang đói lả thôi thúc Giăng Van-giăng phải đập vỡ kính lấy trộm miếng bánh-cho các cháu. Phăng-tin mất việc làm phải bán cả tóc lẫn răng để nuôi đứa con nhỏ. Van-giăng phải đi cứu Sin-nia-chi-ơ khói nanh vuốt của tòa án. Họ quên mình vì nghĩa đến người khác.
Tình mẹ con Phăng-tin – Cô-dét, tình cha con Van-giăng – Cô-dét, tình yêu của E-pô- nin và tình đồng chí của những con người ở xóm thợ Xanh Ăng-toan, Hơi mà “những nỗi nghèo khổ và cảm hờn ẩn náu”, những mối tình cao thượng ấy không phải ngẫu nhiêu mà chúng ta chỉ thấy ở những người khốn khổ, bất hạnh. Họ cần phải phản không lại trật tự xã hội bất công. Van-giăng phải vượt ngục, Phăng-tin phải kháng cự Gia-ve. Và cao hơn hết là phải cùng nhau đứng vé phía cách mạng, một sống một chết với kẻ thù. Huy-gô đã khắc họa những gương mặt không phai mờ, những con người đau khổ nhìn về tương lai, sinh động hơn cả những người đang sống. Giá trị hiện thực chính là những con người đang sống thúc đẩy tác giả miêu tả.
Người cầm quyền khôi phục uy quyền là một đoạn trích trong tiếu thuyết Những người khốn khổ của Vích-to Huy-gô. “Người cầm quyền” ở đây ứng với nhân vật Giăng Van-giăng hay Gia-ve? Lâu nay, Gia-ve vẫn một mực phục tùng ông thị trưởng, tuy có lúc nghi ngờ ông chính là tên tù khổ sai Giăng Van-giăng. Bây giờ, Giăng Van-giăng đã trở lại với tên họ thật cũa mình nên gã thanh tra mật thám “khôi phục” quyền hành của hắn. Như vậy có thể nghĩ “người cầm quyền” ứng với nhân vật Gia-ve. Nhưng xét riêng đoạn trích tiểu thuyết chiếm trọn vẹn mục này, tên thanh tra mật thám đang hống hách với Giăng Van-giăng, bỗng phải nem nép nghe theo Giăng Van-giăng… thì ngựời “khôi phục uy quyền” chính là Giăng Van-giăng. Khả năng thứ hai có sức thuyết phục hơn.
Trong toàn bộ tác phẩm, đặc biệt là trong đoạn trích này, nhà văn có dụng ý miêu tả nhân vật Gia-ve như một loài cầm thú: Diện mạo “ác thú”, “chó dữ”, “cọp”,… chỉ “còn chút gần nhân loại” ở chỗ đôi lúc hút thuốc. Bộ dạng, ngôn ngữ, hành động: Thoạt tiên là tiếng thét “Mau lên!” với lời bình của người kế chuyện: “Không còn là tiếng người nói mà là tiếng thú gầm”. Hắn vừa gầm vừa như thôi miên con mồi, “cứ đứng lì một chỗ”, phóng vào con mồi “cặp mắt nhìn như cái móc sát”. Sau đó hắn mới lao tới phía con mồi, ngoạm lấy cổ con mồi (rúm lấy cổ áo), hắn đắc ý phá lên cười, nhưng là “cái cười ghê tởm phô ra tất cả hai hàm răng”.
Người kể chuyện cố ý khắc họa “thế giới nội tâm” của con thú Gia-ve qua thái độ, cách xử sự của hắn trước người bệnh. Chẳng quan tâm tới người bệnh nặng là Phăng-tin, hắn cứ quát tháo trong bệnh xá. Chẳng cần biết Phăng-tin gần đất xa trời chỉ còn bấu víu vào cuộc sồng ở chỗ tưởng rằng ống Thị trưởng đã chuộc được Cô-dét về cho chị, hắn đã tàn nhẫn nói toạc ra: “mày nói giỡn! Chà chà (…) tốt thật đấy. Nhưng còn ông thị trưởng thì chị vẫn hi vọng sẽ gặp được con. Hắn dập tắt nốt tia hi vọng cuối cùng của Phăng-tin bằng cách tuyên bố thẳng thừng là ờ đây chẳng còn ai là ông thị trường nữa
“Thế giới nội tâm” của con thú Gia-ve còn thể hiện qua thái độ, cách xử sự của hắn trước nồi đau của tình mẫu tử. Đã là người, ai đứng trước nỗi đau ấy chắc cũng phải mủi lòng. Gia-ve ngược lại, vẫn lòng lim dạ đá. Trước tiếng kêu tuyêt vọng của Phăng-tin , Gia-ve đã quát: “Giờ lại đến lượt con này…”
Trước người chết, Gia-ve không những không mảy may xúc động mà hắn vẫn tiếp tục quát: “Đừng có lôi thôi! Tao không đến đây để nghe lí sự…” Khắc họa nhân vật Gia-ve với bản tính cùa loài cầm thú, Vích-to Huy-gô muốn kịch liệt phê phán cái ác, sự vô nhân đạo đang có nguy cơ hoành hành trong xã hội.
Trái ngược với tính cách của Gia-ve là nhân vật Giăng Van-giăng. Nhà văn chú ý khắc họa những nét tinh tế trong ngôn ngữ và hành động của Giăng Van-giăng đối với Phăng-tin và đối với Gia-ve, tất cả đều nhằm mục đích cứu vớt Phăng-tin trong lúc bệnh tình nguy kịch. Khi Gia-ve xuất hiện, ông biết hắn đến để bắt mình, nhưng nói thế nào đây để Phăng-tin yên tâm? Sự thể sẽ ra sao nếu thay cho câu Tôi biết là anh muốn làm rồi “bằng câu “Tôi biết hắn đến để bắt tôi rồi”.
Phần thứ hai của đoạn trích, khi Phăng-tin đã biết rõ sự thật, Giăng Van-giăng cứ muốn nói nhỏ, nói riêng với Gia-ve. Giăng Van-giăng không phải sợ Gia-ve mà sợ người đàn bà xấu số không còn có thể sống được nữa.
Cho đến phần cuối của đoạn trích, Giăng Van-giăng thì thầm bên tai Phăng-tin lúc ấy đã chết rồi. Người kế chuyện không rõ nhưng chúng ta đoán biết được ông đã thầm hứa với Phăng-tin sẽ tìm mọi cách cứu cô-dét cho chị về sau, Giăng Van-giăng đã thực hiện được lời hứa ấy.
Qua hai nhân vật Phăng-tin và Giăng Van-giăng, V. Huy-gô đã thể hiện tình thương của mình đối với những con người đau khổ, bất hạnh.
Hai tính cách trái ngược nhau của Gia-ve và Giăng Van-giăng là hai đại diện đối lập giữa tình thương. Nếu Gia-ve luôn “hoài nghi” và có thái độ ngang ngược, hống hách thì Giăng Van-giăng lại là một người đàn ông sống có trách nhiệm và luôn thường trực một tình thương cao cả đối với những người nghèo khổ, ở nhân vật Giăng Van-giăng, hiện hữu trong phẩm chất con người ấy là lẽ sống tình thương. Ông có một khát vọng muốn xua tan nồi đắng cay, oan trái ở những con người khốn khổ bẳng tình thương. Với một tâm hồn cao thượng như vậy, Giăng Van-giăng luôn cận kề bên cạnh bao cảnh sống cơ hàn. Lẽ sống của ông dã che chở và nâng clỡ bao cảnh đời tủi nhục. Đối với Giăng Van-giăng, tình người, tình đời thật lớn lao. Ông chính là đại diện của lẽ sống vì tình thương.
Tính cách ấy trái hẳn với Gia-ve, một kẻ không có tình người Với chức thanh tra, hắn luôn tác oai, tác quái và gây ra bao nhiêu hậu quả khốc liệt. Cái chết của bà Phăng-tin vì tuyệt vọng cũng do sự tàn nhẫn và thiếu lương tâm của Gia-ve mới tạo nên cơn giằng xé đến nỗi bà phải chết.
Trong đoạn trích, nhân vật Phăng-tin hiện lên là một người mẹ nghèo khổ, tình cảnh đến mức bi đát. Phăng-tin có con gái là Cô-đét nhưng số phận đã chia lìa hai mẹ con dẫn đến nỗi đau giằng xé trong cõi lòng người mẹ. Xuất hiện trong đoạn trích nhân vật Phăng-tin tỏ ra là một người ốm yếu và bao trùm lên tâm trạng là sự lo lắng cho sứ mệnh của mình và cuộc đời người con gái duy nhất. Đặc biệt, khi có mặt của Gia-ve, lời nói và hành động hiện lên nỗi nơm nớp lo sợ của một người phụ nữ yếu đuối.
Nhà văn đã miêu tả Phăng-tin trong cơn tuyệt vọng bằng những điệu bộ của một người sắp chết. Phăng-tin cố gắng chống chọi lại với tử thần vì còn chút sức mạnh của tình yêu thương mà người mẹ dành cho người con gái. Hoạt động cuối cùng của người đàn bà khốn khổ ấy gây xúc động mạnh đến trái tim người đọc và để lại ấn tượng thương xót khôn nguôi. Có được ấn tượng ẩy là vì tác giả đã khắc họa nhân vật bằng tài năng nghệ thuật của mình làm cho nhân vật hiện lên những nét cơ cực nhất ngay cà nhũng giây phút cuối cùng của cuộc đời.
Vai trò của nhân vật Phăng-tin là góp phần làm cho cốt truyện thêm sâu sắc và hấp dẫn. Xuất phát từ số phận nghiệt ngã và oan trái của nhân vật này đã lôi kéo Giăng Van-giăng vào cuộc để rồi nội dung câu chuyện dần dần biến đổi, Giá như Phăng-tin khủng trở nên ốm yếu và bất lực tnrớc số phận thì chua hẳn đã có một Giăng Van-giăng hào phóng và giàu tình thương như vậy. Đoạn trích thổ hiện tư tưởng nhân đạo của nhà văn. Bằng việc khắc họa các hình tượng nhân vật, tác giả muốn gửi tới người đọc thông diệp của lẽ sồng tình thương. Nhà văn đã lên tiếng bênh vực cho lẽ sống ấy, qua đó thể hiên thái độ phê phán những thế lực đã ngăn chặn và đè nén khát vọng sống cao quý của con người. Phăng tin đã chết rồi, vậy mà trên đôi môi nhợt nhạt của chị vẫn nở nụ cười. Thực tế là vô lí. Nhưng người duy nhất chứng kiến và phát hiện điều đó là bà Xem-pli (bà là người không bao giờ biết nói (dối). Kết hợp với chi tiết Giăng Van- giăng thì thầm bên tai Phăng-tin thì đấy lại là một ảo tưởng có thể xảy ra.
Người chết mà khuôn mặt còn rạng rỡ, điều đó cũng vô lí. Nhưng người kể chuyện khi kể đến đây đã rất xúc động trước tình cảm của Giăng van-giăng đối với Phăng-tin, tường chừng thấy khuôn măt người chết rạng rỡ hẳn lên. Đấy cũng là một ảo tưởng có thế có thật. Nhà văn đã xây dựng chi tiết này với ngòi bút hết sức lãng mạn.
Qua câu chuyện đầy éo le, oan trái với những tính cách trái ngược, nhà văn muốn gửi gắm một thông điệp: Cuộc sống khi phải đối diện với những bất công và tuyệt vọng, con người có thể sưởi ấm và che chở cho nhau bằng tình thương. Chỉ có tình thương mới có thể đẩy lùi thế lực hắc ám của cường quyền và thắp lên niềm hi vọng tươi sáng ở tương lai.