Cảm nhận tâm trạng của nhân vật Liên trong buổi chiều tàn nơi phố huyện

tam-trang-cua-nhan-vat-lien-trong-buoi-chieu-tan-noi-pho-huyen-7564-2

Cảm nhận tâm trạng của nhân vật Liên trong buổi chiều tàn nơi phố huyện.

  • Mở bài:

Trong nền văn học Việt Nam thế kỉ 20, Thạch Lam thực sự đã thực hiện một cuộc hành trình đơn độc trong thế giới văn chương. Khác với các nhà văn trong nhóm Tự lực văn đoàn với phong cách nồng nhiệt và mạnh mẽ đổi mới, Thạch Lam âm thầm trở về với sự hồn hậu của làng quê và những xức cảm tinh vi, nhỏ bé. Ông trân trọng từng cảm xúc nảy nở và cố gắng diễn đạt nó bằng tất cả sức mạnh của ngôn ngữ. Bởi thế, cái thế giới vốn không ai để ý đến đã được Thạch Lam khám phá một cách trọn vẹn, tinh tế và tài hoa. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” là một thành công đặc sắc của lối văn chương ấy. Tâm trạng của nhân vật Liên trong buổi chiểu tàn nơi phố huyện đã được nhà văn đặc tả bằng một lối văn chương mềm mại, nâng niu và trân trọng.

  • Thân bài:

Thạch Lam đã rất chú tâm khi miêu tả tâm trạng của chị em Liên trước bức tranh chân thực về đời sống phố huyện nghèo lúc chiều tối. Ngoài việc mở ra bức tranh thiên nhiên, còn đi sâu vào tái hiện bức tranh chân thực về đời sống phố huyện nghèo. Qua bức tranh đó, ngòi bút nhân đạo, cái nhìn tinh tế, tâm hồn nhạy cảm của Thạch Lam mới có dịp phát huy đầy đủ nhất.

Khác với các nhà văn khác, Thạch Lam không hướng ngòi bút vào cái hiện thực khắc nghiệt đương thời. Có lẽ, ông đã cảm thấy nó quá đủ làm con người đau khổ. Ông cũng không lảng tránh hiện thực ấy mà phản ánh mặt bề sâu của nó: tìm kiếm những rung động tinh tế còn sót lại trong tâm hồn đầy khổ nhục của con người. Hiện thực cuộc sống trong tác phẩm của Thạch Lam không phải là sự cày xới ngổn ngang những mảnh đời đau thương, bi đát, quằn quại như cuộc đời nhân vật trong tác phẩm của Nam Cao, Ngô Tất Tố, Trọng Phụng,… Hiện thực trong tác phẩm của Thạch Lam được thể hiện qua những chi tiết bình thường, giản dị như trên nhưng lại có sức ám ảnh đặc biệt cho tâm hồn người đọc. Chính số phận quẩn quanh, bế tắc của những kiếp người tàn, bức tranh của ngày tàn đã như thấm thía vào tâm hồn ngây thơ của Liên, gây cho Liên một nỗi buồn man mác.

Thạch Lam đi sâu vào khai thác bức tranh tâm trạng nhân vật trước hoàn cảnh. Nhìn bề ngoài, nó tĩnh lặng như không có gì nhưng kì thực đang vận động mạnh mẽ ở bên trong. Và bước cuối cùng đạt đến sự chuyển hóa và thăng hoa mãnh liệt. Mở đầu tác phẩm là bức tranh bầu trời chiều muôn thuở của làng quê Việt Nam. Buổi chiều trôi đi như những tiếng chuông đồng hồ điểm từng tiếng chuông thảng thốt: “Chiều, chiều rồi. Một buổi chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran từ ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”. Liên như cảm nhận được sự trôi chảy của thời gian và ánh sáng chiều tàn buông trên không gian phố huyện. Bởi cô đã sống với nơi đây bằng tất cả trái tim mình.

Cuộc sống con người phố huyện trong thế giới “chìm chìm, nhạt nhạt” và vắng lặng của buổi chiều tối được dựng lên bằng những nét kí hoạ rất chân thực, được nhà văn gửi gắm qua cái nhìn ngây thơ của chị em Liên. Trong con mắt của hai đứa trẻ, từ cảnh vật cho đến cảnh sinh hoạt nơi phố huyện, đâu đâu cũng gợi lên sự tàn tạ, quẩn quanh, bế tắc. Bóng tối chiếm ngự cả không gian lẫn tâm hồn. Những cái nhìn ngẩn ngơ, mờ mịt, buồn rười rượi đến tê lòng.

Cái cảm giác buồn man mác: “Chợ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Một mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi của cát bụi quen thuộc quá, khiến chị em Liên tưởng là mùi của đất, của quê hương này” thực sự được thăng hoa từ một tâm hồn đầy tinh tế.

Đi liền với hình ảnh chiều tàn, chợ tàn là hình ảnh những kiếp người tàn như là linh hồn ủ rủ. Đây chính là đỉnh cao trong miêu tả cảnh quan bức tranh chân thực về đời sống ở phố huyện nghèo. Trong khung cảnh chiều tàn, phố huyện tiêu điều sau phiên chợ vãn người, cuộc sống sinh hoạt vất vả, đơn điệu của những người dân nghèo khổ lam lũ hiện lên đáng thương biết bao.

Chợ vãn, chiều buông là một thời gian buồn thảm của một ngày. Nhưng với Liên không thế. Cô bé ấy không nghĩ nhiều về sự tàn lụi. Liên chỉ lặng lẽ sống với buổi chiều phố huyện bằng cả tâm hồn mình: lặng lẽ ngắm nhìn cuộc mưu sinh của lũ trẻ con nhà nghèo bằng cả trái tim trắc ẩn. Đó là mấy đứa trẻ con nhà nghèo ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi “chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre hay bất cứ thứ gì có thể dùng được của người bán hàng để lại”. Dường như gánh nặng cuộc đời cũng đang đè nặng lên đôi vai chúng. Cái vô tư, hồn nhiên, tinh nghịch vốn có ở những đứa trẻ đã sớm mất đi bởi đời sống khốn khổ, tàn tạ nơi phố huyện. Những kiếp đời hắt hiu, nhỏ bé và cô độc đến đáng thương không khỏi khiến Liên thấy chạnh lòng lo lắng vẩn vơ.

Rồi đến gia đình chị Tý, một gia đình nhỏ bé lẩn chìm trong cuộc đơi. Những chén trà bán được bồi đắp cho niềm vui. Sự chắt chiu vụn vặt làm nên cuộc sống mẹ con chị. Tuy khó khăn vất vả nhưng cũng có nơi để đi về và làm những công việc đều đặn và quen thuộc. Cùng với số phận của chị Tý là số phận của bác phở Siêu với gánh hàng phở leo lét ánh lửa. Đó là thứ hàng dù ngon nhưng “là một thứ quà xa xỉ” với người dân phố huyện nhưng vẫn không mấy được hào hứng đón nhận. Và cả gia đình bác Xẩm nữa. Dù không nhìn thấy bóng tối của bầu trời nhưng bóng tói của cuộc đời đã luồn sâu vào số kiếp ấy. Nó kết đọng lại trong tiếng dàn bầu róe rắt gợi lên cảm giác đơn điệu, hiu hắt của một cuộc đời tàn lụi.

Cả phố huyện giờ chỉ thu nhỏ vào cái ngọn đèn con leo lắt ấy, còn xung quanh, bóng tối làm chủ tất cả “tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”. Tất cả mấy đốm sáng, hột sáng thưa thớt tù mù. Những hột sáng nhỏ nhoi ấy chẳng thể làm cho đêm sáng ra, mà trái lại càng khiến cho đêm tối thêm mịt mùng dày đặc.

Đi vào những số phận nhỏ bé, những cuộc đời thường của người dân trên phố huyện, Thạch Lam đã nhóm lên ở đó chất thơ của đời thường, chất thơ của lòng trắc ẩn, của sự đồng cảm, chia sẻ nhân đạo. Tất cả những nghịch cảnh ấy trải dài trước mắt Liên bao ngày. Nó cứ lặp đi lặp lại một cách quen thuộc và buồn chán. Và mỗi ngày một buồn hơn. Thế nhưng, Liên đã kịp thanh lọc tất cả qua tầm hồn đầy rung cảm và mơ mộng của mình. Phố huyện dẫu nghèo nhưng dưới mắt Liên vẫn rất đẹp, vẫn nên thơ. Bởi cô đã dành cho nó một tình yêu máu thịt. Cái mùi âm ẩm của đất đai, của cát bụi vẫn gieo lại ở Liên ấn tượng sâu đậm về mùi riêng của đất, của quê hương, xứ sở. Bởi nó là tình yêu thương, sự gắn bó, là chốn đi về của tâm hồn cô.

Khi màn đêm dần buông trên phố huyện, ánh mắt của Liên vẫn âm thầm dõi theo cuộc mưu sinh của những con người nhỏ bé trong đêm tối đầy cảm thông và chia sẻ. Nỗi thương ấy vừa dáng quý, đáng thương  và thật đáng trân trọng. Bởi cô cũng chẳng khác gì họ, đang vật lộn với cuộc đời đầy vất vả, cơ cực, mỏi mòn, tù động và trống vắng những niềm vui. Liên bâng khuâng nhớ về “Hà Nội nhiều đèn quá, tạo nên một vùng sáng rực và lấp lánh”. Nhưng giờ đây, ánh sáng ấy chỉ là bóng mờ kí ức trong đêm. Cô lặng lẽ lắng tâm hồn mình quay ngược thời gian trở về với phố thị phồn hoa, rực rỡ để cố tìm lại những kỉ niệm xa xam vời vợi. Hà Nội có đầy đủ âm thanh, sắc màu. Hà Nội có cuộc sống vui vẻ, nhộn nhịp. Hà Nội có những thứ sa sỉ mà ở cái phố huyện nghèo này không có. Liên và An ngửi thấy mùi phở thơm và nhớ lại khi ở Hà Nội “chị được hưởng những thứ quà ngon lạ như thế… được đi chơi Bờ Hồ, uống những cốc nước lạnh xanh đỏ”.

Có lẽ cái cảnh chờ đợi chuyến tàu đến đi qua của những con người nơi phố huyện là đoạn miêu tả đặc sắc nhất trong tác phẩm.  Liên cùng những người bán hàng rong xung quang gắng đợi đoàn tàu qua phố huyện. Một sự chờ đợi đầy chán chường bởi họ biết sẽ không có gì mới khi đoàn tàu chạy qua. Bóng tối sẽ trở về với bóng tối. Cuộc đời vẫn lầm lụi, hiu hắt và buồn thương. Thế nhưng, trong khoảnh khắc bừng sáng hiếm hoi ấy, họ đã kịp gửi tâm hồn mình theo những ước mơ xa xôi về một cuộc sống nhiều cung bậc, nhiều thanh âm và ánh sáng.

Trong bối cảnh của bức tranh phố huyện tối tăm, tù túng, vốn là người có trái tim rất nhạy cảm nên Liên đã để lại cho tâm hồn mình vượt ra khỏi hiện thực ngột ngạt, vươn tới một giấc mơ, một khát vọng khác với cảnh sống nghèo nàn, tăm tối, bế tắc hiện tại:  “Muốn được nhìn chuyến tàu, đó là hoạt động cuối cùng trong đêm”.

Liên khát khao, khắc khoải, háo hức chờ mong một sự đổi thay. Liên khao khát một cái gì khác thường khuấy động cái không khí đơn điệu, buồn tẻ, quẩn quanh, tù túng, lụi tắt dần trong đêm tối. Con tàu như đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn chị Tý và ánh lửa bác Siêu leo lắt giữa cái đêm tối mênh mông của đất trời phố huyện. Liên hân hoan, ngây ngất ngắm nhìn chuyến tàu đó. Chuyến tàu đi qua. Miền quê lặng lẽ lại đi vào cái tĩnh mịch vốn có. Nó lại trầm tư như chưa từng có gì xảy đến. “Sao trên trời vẫn lấp lánh, cả phố huyện bây giờ mới thật là hết náo động, chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn ma”.

Có lẽ, bây giờ chỉ còn mình Liên thao thức với một tâm hồn mang nặng nỗi niềm u uẩn. Tâm hồn cô nán lại lay lắt cùng ánh đèn dầu của chị Tý. Ánh đèn nhỏ nhoi, mông lung, vô định trong tâm hồn thơ dại của Liên. Ánh sáng cùng tâm hồn cô bây vụt vào bóng tối khi đoàn tàu vội qua, để chìm vào giấc ngủ yên tĩnh. một giấc ngủ yên tĩnh như đêm phố huyện tịch mịch và đầy bóng tối. Nó làm động lại trong ta biết bao suy nghĩ về thân phận con người trong một thời kì buồn thảm của lịch sử dân tộc. Nỗi bận bụi vô hạn mà nhà văn Nguyễn Tuân cảm nhận khi đọc hai đứa trẻ có lẽ cũng bắt nguồn từ chính những suy nghĩ về thân phận con người ấy chăng.

  • Kết bài:

Tâm trạng của nhân vật Liên trong đêm tối và cuộc sống mòn mỏi nơi phố huyện nghèo nàn đã được nhà văn ghi nhận chân thực bằng tấm lòng yêu mến thiết tha. Người đọc vẫn sẽ tìm đọc Hai đứa trẻ để sống trọn vẹn một mảnh hồn của làng quê đất Việt. Quan trọng hơn, ta vẫn đọc Hai đứa trẻ để thêm trân quý cuộc sống xung quanh; để biết rằng cuộc sống có thế nào đi chăng nữa thì nó vẫn tươi đẹp, vẫn nên thơ, vẫn mãi là một miền thương nhớ trong tâm tưởng. Bởi đơn giản, đó chính là tình quê hương chan chứa không bao giờ nguôi cạn.


Tham khảo:
Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên trong truyện ngắn “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Từ đó nêu những đóng góp mới mẻ của Thạch Lam trong việc thể hiện cảm hứng nhân đạo độc đáo. Nhận xét về một số nét đặc sắc của truyện ngắn này.
  • Mở bài:

“Xúc cảm của Thạch Lam thường bắt nguồn và nảy nở từ những chân cảm đối với những con người ở tầng lớp dân nghèo thành thị và thôn quê. Thạch Lam là nhà văn quí mến cuộc sống, trang trọng trước cuộc sống của mọi người xung quanh”. Chính tình cảm quí mến và trang trọng ấy giúp Thạch Lam cảm nhận sâu sắc những cảm xúc tinh tế của Hai đứa trẻ trong truyện ngắn cùng tên. Qua đó, tác giả thể hiện cảm hứng nhân đạo mới mẻ, đặc sắc.

– Truyenj ngắn Hai đứa trẻ in trong tập Nắng trong vườn, xuất bản năm 1938. Truyện nhưng không có chuyện, chỉ là câu chuyện tâm tình. Câu chuyện không phát triển theo logic sự kiện mà giống như một bài thơ trữ tình đầy xót thương, gói gọn trong không gian nhỏ hẹp nơi phố huyện nghèo hẻo lánh với những con người nhỏ bé, những cảnh đời đơn điệu hắt hiu. Toàn truyện là những cảm xúc và tâm trạng của những đứa trẻ nơi phố huyện đó trong khoảng thời gian từ chiều đến đêm. Ngòi bút của Thạch Lam tỏ ra thật tinh tế trong việc diễn tả những rung động của hai đứa trẻ.

  • Thân bài:

1. Diễn biến tâm trạng của nhân vật Liên.

a) Trước hết là tâm trạng của hai đứa trẻ trước cảnh chiều tàn.

– Câu chuyện mở ra trong một khung cảnh chiều buồn man mác.

– Liên và An là những đứa trẻ từng sống ở Hà Nội, nay theo mẹ về vùng quê hẻo lánh. Liên ngồi trong không gian bóng tối để những nỗi buồn chiều quê thấm thía vào tâm hồn ngây thơ.

+. Liên cảm nhận được cái yên lặng của khung cảnh chiều quê quen thuộc. Đó là tiếng trống thu không, phương Tây đỏ rực như lửa cháy, những áng mây ánh hồng như hòn than sắp tàn…gợi lên cái nhịp thời gian đang trôi, gieo vào lòng người một sự nuối tiếc mơ hồ, có cái gì đó quá khó nắm bắt.

+. Cùng với cảm giác về thời gian còn là âm thanh tiếng ếch nhái văng vẳng ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve, mùi âm ẩm và mùi cát bụi quen thuộc… Đó là những xúc cảm rất quen thuộc, thể hiện sự gắn bó với quê hương.

– Cảnh chợ tàn người về hết và tiếng ồn ào cũng mất…càng khiến lòng Liên thấm đẫm nỗi buồn về một cuộc sống xác xơ, tiêu điều, đang đi vào chiều tàn lụi.

b) Trong bóng tối:

– Từ quán hàng chật hẹp nhỏ bé của mình, Liên hướng tầm nhìn ra khung cảnh xung quanh và càng thêm xót thương cho những kiếp người nhỏ bé, mong manh:

+ Thương xót cho những đứa trẻ nghèo phải nhặt nhạnh tất cả những thứ còn xót lại của một phiên chợ tàn.

+ Liên chia sẻ với mẹ con chị Tí bằng sự thấu hiểu cuộc sống tẻ nhạt, quanh quẩn của mẹ con chị.

+ Liên còn chia sẻ với sự ế ẩm của gánh phở bác Siêu, gánh đi gánh về gợi lên một nhịp sống buồn tẻ.

+ Thương xót, thậm chí còn sợ hãi trước tiếng cười khanh khách của bà cụ Thi điên. Đó là cảm nhận về sự mỏng mang của kiếp người.

+ Liên còn cảm nhận được cái tù túng trong cuộc sống của chính bản thân mình: giam hãm trong gian hàng nhỏ, lắm muỗi, chiếc chõng tre sắp gãy, tính nhẩm, “ngày phiên mà bán cũng chẳng ăn thua gì”.

→ Liên cảm nhận được nỗi buồn thấm thía trước cảnh quá quen của những kiếp người nhỏ bé, leo lét trong không gian mênh mông tă tối của phố huyện.

– Tầm hồn nhỏ bé và nhạy cảm của Liên cũng buồn và nuối tiếc một quá khứ xa xăm-những ngày sống ở HN- một Hà Nội sáng rực và huyên náo với những cốc nước xanh đỏ. Đó là một quá vãng xa xôi mà giờ đây trong tâm trí Liên tất cả hiện lên đều không rõ ràng.

– Liên có cái nhìn huyền diệu về vũ trụ bao la thăm thẳm và bí ẩn. Đó là một vò trời ngàn sao lấp lánh, dải Ngân Hà, ông thần Nông cùng con vịt. Thế nhưng vũ trụ lại quá xa lạ với tâm hồn trẻ thơ, nó làm “mỏi trí nghĩ” của hai chị em. Nên chỉ một lúc sau, hai chị em “lại cúi nhìn về mặt đất”.

– Cảnh đồng quê về đêm thật yên tĩnh, lặng lẽ. Tất cả sự dày đặc của bóng tối đang vây quanh “ đường phố và các con ngõ chứa đầy bóng tối” trong khi đó các cửa nhỏ chỉ để hé ra “một khe ánh sáng”, những vệt sáng của đom đóm, các “quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn”. Sự đối lập gay gắt giữa bóng tối và ánh sáng tô đậm sự buồn tẻ, lay lắt của phố huyện – một cuộc sóng mù sáng. Điều đó càng khiến tâm hồn Liên thấm thía nỗi buồn.

c) Trong tâm trạng buồn Liên hoài niệm về quá khứ và khao khát, hi vọng đợi chờ: đó là hi vọng chờ đợi một chuyến tàu đêm đi qua. Diễn biến tâm trạng chờ tàu của hai chị em Liên được Thạch Lam miêu tả khá tinh tế.

– Liên chờ tàu không phải để bán hàng mà là nhu cầu tinh thần hàng đêm. Bởi vậy, An mặc dù đã buồn ngủ díu cả mắt vẫn cố dặn chị “tàu đến chị đánh thức em dậy nhé”.

– Hai chị em Liên chờ đợi tàu trong tâm trạng háo hức, bồi hồi như chờ đợi phút giao thừa thiêng liêng. Liên lặng lẽ chờ đợi với tâm trạng yên tĩnh trong tâm hồn.

– Đoàn tàu đến trong sự mong chờ của chị em Liên. Liên và An hướng cả hồn mình vào đoàn tàu khi còn ở xa “tiếng còi đã rít lên và tàu rầm rộ đi tới với những toa hạng sang, kèn và đồng lấp lánh, các cửa kính sáng. Con tàu đã đem đến một thế giới khác đi qua, một thế giới rực rỡ, vui vẻ, huyên náo – một thế giới khác hẳn với sự nghèo khôt hàng ngày.

– Đoàn tàu chỉ xuất hiện trong một khoảnh khắc rất ngắn rồi vụt qua đi vào đêm tối. Ta bắt gặp phía sau đoàn tàu một nguồn ánh sáng nhỏ nhoi chỉ trực tan hòa vào bóng tối. An nhận ra tàu hôm nay “kém sáng hơn”, nhưng Liên vẫn “lặng theo mơ tưởng”. Đoàn tàu không làm thay đổi cuộc sống nơi phố huyện nhưng sự xuất hiện của nó đủ để lại niềm khao khát cho những con người nơi đây “chừng ấy con người…của họ”.

2. Những đóng góp mới mẻ của Thạch Lam trong việc thể hiện cảm hứng nhân đạo.

– Đọc truyện của Thạch Lam ta thấy nhà văn không đi vào tố cáo sự đàn áp bất công của xã hội, cũng không khiến người đọc phải uất ức, căm giận những cảnh bóc lột, hành hạ của giai cấp thống trị đương thời. Nhưng tác phẩm vẫn chất chứa tư tưởng nhân đạo đặc sắc. Tư tưởng nhân đạo ấy được toát lên trước hết ở niềm thương xót chân thành của nhà văn trước những cảnh đời đơn điệu, hắt hiu nơi phố huyện nhỏ bé. Nhà văn xót xa bởi họ phải sống một cuộc sống vô nghĩa trong “cái ao đời bằng phẳng”, cuộc “đời tẻ nhạt như tàu không đổi chuyến”. Từ chị em Liên, mẹ con chị Tí đến bà cụ Thi Điên, gia đình bác Sẩm, bác Siêu, họ đang tồn tại chứ không phải đang sống.

+ Họ tồn tại trong một nhịp sống uể oải, tù túng , bế tắc với những công việc tẻ nhạt, buồn chán, lặp đi lặp lại “ngày nào cũng vậy”, “chiều nào cũng thế”, “đem ra rồi lại dọn vào”, “gánh đi rồi lại gánh về”…

+ Đọc thấu được nhịp điệu ấy, nhà văn thương họ, thương cho tất cả những ai phải sống một cuộc đời tẻ nhạt, bằng phẳng như Huy Cận nói:

Quanh quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu
Tới hay lui vẫn từng ấy mặt người
Vì quá quen nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện.

(Quanh quẩn)

–  Thấm đẫm tinh thần xót thương ấy, tác phẩm của Thạch Lam có giá trị nhân đạo mới mẻ, sâu sắc. Đó cũng là điểm gặp gỡ giữa Thạch Lam với các tác giả khác: Xuân Diệu (tỏa nhị Kiều), Nam Cao (Sống mòn).

– Không chỉ dừng lại ở sự xót thương, với hình ảnh đoàn tàu đi qua phố huyện TL dường như còn muốn gióng lên trong tâm trí con người một hi vọng mong manh. Ánh sáng của con tàu hay chính là niềm khao khát đổi thay, khao khát cuộc sống có ý nghĩa hơn, dẫu chỉ là trong mong ước “Chừng ấy con người…họ”.

– Đặt trong hoàn cảnh cã hội Việt Nam những năm 30- 45, những khao khát ấy cũng chính là sự thức tinh ý thức cá nhân mới mẻ. Nói lên điều này, tác phẩm của Thạch Lam đã góp phần làm phong phú hơn cho tư tưởng nhân đạo của văn học giai đoạn này.

3. Một số nét đặc sắc về nghệ thuật

a. Cách dựng truyện:

+ Truyện ngắn Hai đứa trẻ là một truyện không có truyện, không có những biến cố căng thẳng dồn nén, những xung đột gay gắt, những tình tiết căng thẳng, thời gian ngắn, nhân vật không nhiều.

+ Nhưng câu chuyện vẫn hấp dẫn người đọc bởi chính mạch tâm tình của nó. Cả truyện được phát triển theo những diễn biến tâm trạng tinh tế, phức tạp của các nhân vật. Từ đó khơi ngợi cho người đọc những xúc cảm thân quen, những nỗi niềm về quá vãng…Cách kể chuyện tâm tình là một sáng tạo riêng của Thạch Lam góp phần tạo nên sự độc đáo, hấp dẫn .của tác phẩm.

b. Xây dựng nhân vật.

– Nhân vật trong tác phẩm Hai đứa trẻ không được xây dựng là những tính cách điển hình mà được khám phá ở chiều sâu tâm trạng. Nghệ thuật phân tích tâm lí của ngòi bút Thạch Lam tạo nên sự thành công của thiên truyện.

+ Những đoạn văn miêu tả nỗi buồn của Liên trong buổi chiều tà.

+ Xúc cảm mênh mông trước vũ trụ bao la.

→  Là những đoạn văn rất giàu chất thơ, thể hiện khả năng diễn tả tâm lí nhân vật của Thạch Lam, gợi lên những cảm xúc thân quen trong lòng người.

c. Thủ pháp nghệ thuật độc đáo.

+ Đối lập giữa ánh sáng và bóng tối tạo nên những ám ảnh trong lòng người: bóng tối bao trùm toàn tác phẩm. Nó xuất hiện ngay đoạn văn mở đầu, dần lan tỏa khắp thiên truyện: đường phố…bóng tối, tối hết cả…nữa, đêm tối…yên lặng.Thậm chí bóng tối còn ngập dần đầy trong mắt Liên.

+ Ngoài ý nghĩa tả thực hình ảnh bóng tối rất ám ảnh. Cảnh phố phường chìm trong bóng tối được diễn tả chi tiết khiến người đọc dễ liên tưởng tới xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.

+. Nhưng trong bóng tối không phải không có áng sáng:

  • Ánh sáng xang hắt qua khe cửa những hiệu khách.
  • Ánh sáng từ những ngôi sao xa xanh.
  • Ánh sáng từ ngọn đèn chị Tí chỉ là một quầng sáng thân mật.

→ Ánh sáng nhỏ bé, lẻ loi chỉ đủ soi rọi xung quanh. Sự xuất hiện của ánh sáng khiến ta càng thấm thía hơn sự nhỏ bé của kiếp người mong manh. Và người ta càng khát khao biết bao trước ánh sáng rực rỡ, chói lòa – ánh sáng đoàn tàu hay là thứ ánh sáng khác từ cái tăm tối hàng ngày của họ.  Sự xuất hiện của ánh sáng- bóng tối chính là sự sáng tạo độc đáo làm bật sức sống của tác phẩm.

+. Ngôn ngữ văn xuôi giàu chất thơ:

“chiều chiều rồi…đưa vào”
“Một đêm mùa hạ…gió mát”.

  • Kết bài:

“Hai đứa trẻ” là một truyện ngắn hay của Thạch Lam. Nó không hấp dẫn người đọc bằng những tính cách sắc nét, tình huống li kì. Nó hấp dẫn người đọc bằng chính vẻ đẹp của cuộc sống đời thường đã được khám phá, cảm nhận bằng chính ngòi bút tinh tế và giọng văn nhẹ nhàng của tác giả. Tác phẩm là một bài thơ trữ tình đượm buồn thể hiện những giá trị nhân đạo mới mẻ, đặc sắc của Thạch Lam. Qua đó, chúng ta còn thấy được ngòi bút tài hoa của người nghệ sĩ trước sự sống.


Phân tích bức tranh phố huyện trong truyện ngắn hai đứa trẻ. Từ đó nhận xét về giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.

  • Mở bài:

Thạch Lam là cây bút nhạy cảm, có khả năng khơi gợi những rung động mong manh, tinh tế. Hai đứa trẻ là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo của TL. Tác phẩm được in trong tập Nắng trong vườn. Qua những rung cảm và dòng suy nghĩ miên man của cô bé Liên, tác giả đã thể hiện niềm xót thương trước cuộc sống tù đọng, bế tắc trong xã hội cũ của người lao động và niềm khao khát của họ về một cuộc sống có ý nghĩa hơn. Thể hiện chủ đề này, TL đã miêu tả những cảnh đầy ấn tượng bằng việc vẽ lên bức tranh phố huyện ám ảnh, day dứt tâm hồn mỗi người.

  • Thân bài:

1. Khung cảnh thiên nhiên.

– Câu chuyện mở ra bằng khung cảnh một buổi chiều tà gợi buồn chiều chiều rồi. Nhịp điệu câu văn đều đều nhưng vẫn có một chút thảng thốt nghe như một tiếng thở dài.

– Buổi chiều được gợi ra trước hết với những chi tiết thật tinh tế:

+ Tiếng trống: từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều, nhịp trống chậm rãi, thong thả như điểm vào nhịp bước đi của thời gian.

+ Sắc màu: phương Tây đỏ rực như lửa cháy, những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn. Bức tranh có sắc đỏ rực của mặt trời nhưng không mang đến cho người đọc cảm giác ấm áp mà chỉ là cảm giác vội vã của cảnh ngày sắp tắt.

+ Tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve càng tô đậm hơn sự yên lặng, vắng vẻ của một phố huyện trong cảnh chiều tàn.

→ Không nhiều tình tiết, chỉ bằng vài nét phác họa nhưng cũng đủ để có một nỗi buồn bâng khuâng, man mác, mơ hồ trong khung cảnh buổi chiều quê. Trong một đoạn văn ngắn, 5 từ chiều, hai từ buồn cùng với nhịp điệu câu văn chậm rãi, thong thả, ru hồn người vào nỗi buồn man mác. Bức tranh thiên nhiên ngay từ khúc dạo đầu đã tạo không khí trầm buồn hắt hiu cho toàn thiên truyện.

2. Bức tranh đời sống

Thạch Lam đã chọn một phiên chợ tàn để nói lên được tất cả bộ mặt của phố huyện:

– Nói đến chợ người ta thường nghĩ ngay đến một nơi đông vui tấp nập. Nó là nơi biểu hiện sức sống của một làng quê, là nơi biểu hiện thuần phong mĩ tục. Thạch Lam đã khéo léo tả cảnh ngày phiên để nói hết xơ xác, tiêu điều của phố huyện.

– Cảnh chợ mở ta bằng hình ảnh: người về hết và tiếng ồn ào cũng mất; trên đất chỉ còn rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, nhãn và lá mía. Mặc dù thế nhưng lũ trẻ vẫn cố bòn mót trong đám phế thái đó một chút gì còn sót lại. Ngày chợ phiên như thế thì sức sống đã thực kém. Tất cả mọi người đều trông chờ vào nhau nhưng chỉ là sự quẩn quanh, vô vọng, trông chờ vào sự quẩn quanh, vô vọng. Mùi vị tỏa ra từ khung cảnh ấy là mùi của rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị…một mùi âm ẩm, ngai ngái. Đó là thứ mùi rất đặc trưng để nói tới sự nghèo nàn. Nó đã góp phần làm khung cảnh thêm tàn lụi, héo úa.

– Thạch Lam đã sử dụng thật tài tình nghệ thuật đối lập giữa ánh sáng và bóng tối: câu chuyện mở ra trong lúc giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối.

+ Ánh sáng nhạt dần: phương Tây đỏ rực…, ánh ngày sắp tàn rồi bóng tối xuất hiện trên ngọn tre và cuối cùng bao trùm lên cả phố huyện là cái bóng tối mênh mông.

+ Ánh sáng thu hẹp phạm vi: như ánh sáng của ngôi sao xanh trên bầu trời, ánh sáng yếu ớt, ảm đạm lọt qua khe cửa khép hờ, ánh sáng hắt ra từ ngọn đèn của chị Tí… tất cả đều mờ nhạt,yếu ớt, không đủ soi tỏ.

+ Bóng tối thì chiếm lĩnh và bao phủ: đường phố và các con ngõ chứa đầy bóng tối, tối hết cả, tối cả con đường ra sông, con đường qua chợ về nhà, thậm chí bóng tối còn ngập dần đầy trong đôi mắt Liên

→ Sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối thể hiện sự ám ảnh về cuộc sống ngột ngạt, tù túng, không lối thoát.

– Trên cái nền ấy, những cảnh đời, những con người – chứng nhân của cuộc sống nghèo nàn, đơn điệu hiện lên thật ám ảnh.

+ Điển hình cho những kiếp người đó là chị Tí với nhịp sống quẩn quanh. Ngày cho mò cua bắt tép, tối đến chị mới dọn hàng nước. Nhưng cái đáng sợ là dẫu biết sớm hay muộn có ăn thua gì chị vẫn dọn. Đây không phải là cuộc sống thật sự mà sự cầm chừng giao tranh với sự sống. Ngay cả cách trả lời Liên “ Ôi chao! …gì” cũng góp phần cho ta thấy cuộc sống tẻ nhạt, quẩn quanh của nhân vật.

+ Bà cụ Thi điên: chỉ đủ tiền mua một cút rượu uống một hơi cạn sạch. Đó là một hình ảnh đầy sức ám ảnh với dáng đi lảo đảo và tiếng cười khanh khách tan vào trong bóng đêm. Phải chăng đó chính là sản phẩm của một cuộc sống mòn mỏi, quẩn quanh. Người điên, người thì còn đó nhưng đời đã tàn quá nửa.

+ Bác Siêu – với gánh phở của mình hi vọng sẽ kiếm được chút gì để tồn tại, để cầm cự với sư sống. Nhưng ở nơi phố huyện nghèo này, Phở trở thành một thứ quà xa xỉ, vì vậy nguy cơ ế hàng càng cao.

+ Gia đình bác Xẩm: dùng lời ca tiếng hát của mình để kiếm sống. Nhưng ở nơi cái ăn còn chẳng có thì người dân nghèo làm gì có thời gian để thưởng thức âm nhạc. Vì vậy, cái nghèo, cái đói luôn rình rập gia đình bác.

+ Tiền cảnh bức tranh đời buồn thảm, héo tàn là bóng hai chị em Liên cũng âm thầm không kém với cái cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu, khách hàng là những con người khốn khổ không đủ tiền mua lấy nửa bánh xà phòng. Liên thương cho những kiếp người lay lắt nhưng bản thân cuộc sống của Liên cũng không tránh khỏi cuộc sống nghèo nàn đơn điệu. Trong nỗi buồn chung của mọi người, bi kịch của Liên là ý thức được nỗi buồn và sự đơn điều, bủa vây.

+ Chi tiết ấn tượng nhất là cảnh đoàn tàu: đó là hoạt động cuối cùng của đêm khuya. (phân tích hình ảnh đoàn tàu) → khát vọng về sự đổi thay trong xã hội.

3. Giá trị hiện thực và nhân đạo.

a) Giá trị hiện thực:

– Bức tranh phố huyện là hình ảnh khái quát đầy đủ cái tăm tối, chật hẹp của xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Thân phận con người ở đây thật nhỏ bé, đáng thương. Thạch Lam đã thực sự gặp gỡ với nỗi buồn chán, bế tắc trong tâm hồn những người cùng thời.

Quanh quẩn mãi giữa vài ba dáng điệu
Tới hay lui cũng chừng ấy mặt người
Vì quá thân nên quá đỗi buồn cười
Môi nhắc lại chỉ có ngần ấy chuyện.

(Huy Cận)

“Cuộc sống cứ mòn đi, rỉ ra, mốc lên” (Nam Cao)

b) Giá trị nhân đạo:

– Cảm xúc xót thương của tác giả cho những cảnh đời phải sống không ra sự sống.

– Thức dậy ở con người những khát vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn, khác với cuộc sống tù đọng tối tăm, bế tắc của họ: hình ảnh đoàn tàu. Đặt trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam 30 – 45, khát vọng mà Thạch Lam hướng tới chính là sự thức tỉnh của ý thức cá nhân sâu sắc. Đây chính là giá trị nhân bản có chiều sâu, gặp gỡ với khát vọng sống của Xuân Diệu: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt/Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”, gặp gỡ với khát vọng xây dựng được một sự nghiệp có ích cho mình và cho xã hội trong những tác phẩm của Nam Cao.

  • Kết bài:

Hai đứa trẻ là một bài thơ trữ tình đầy xót thương. Tác phẩm thể hiện đậm chất phong cách Thạch Lam.

– Với giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, tác phẩm Thạch Lam sẽ còn sống mãi trong lòng người đọc.


Phân tích vẻ đẹp tâm hồn cô bé Liên trong “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.

  • Mở bài:

– Giới thiệu tác giả Thạch Lam.

Hai đứa trẻ là tác phẩm hay, tiêu biểu cho phong cách Thạch Lam: sức hấp dẫn của tác phẩm là đã khơi dậy được “những rung động cực điểm của một tâm hồn thơ dại”. Đó là vẻ đẹp tâm hồn của Liên và đó cũng là sức hấp dẫn, chất thơ của tác phẩm.

  • Thân bài:

Khác với những đứa trẻ nơi phố huyện, Liên và An đã từng sống ở Hà Nội ồn ào, náo nhiệt nay phải theo mẹ về vùng quê hẻo lánh. Tâm hồn Liên khác với những cô gái quê khác, luôn có những rung động hết sức tinh tế. Cuộc sống của Liên và An quẩn quanh trong gian hàng đơn điệu, nhưng cuộc sống quanh quẩn không làm mất đi vẻ đẹp phong phú trong tâm hồn Liên.

Ngòi bút của Thạch Lam tinh tế trong diễn tả diễn biến tinh vi trong tâm hồn con người:

a. Tâm hồn Liên thật nhạy cảm tinh tế:

+ Cảm nhận được cảnh buổi chiều quê thật thấm thía.

+ Cảnh chợ tàn gợi lên nỗi buồn mong manh mơ hồ nhưng thấm sâu vào đáy tâm hồn con người.

+ Mùi riêng của đất, của quê hương này. Tâm hồn Liên đặc biệt gắn bó, yêu mến chốn quê hương thân thuộc.

+. Bức tranh phố huyện vào đêm…. tạo cảm giác mênh mông, bí ẩn. Bầu trời chứa đựng trong đó cái bí mật thăm thẳm, cái huyền diệu của tuổi thơ.

b. Tâm hồn giàu tình thương – nhân ái:

– Mặc dù phải bán quán hàng tạp hóa nhỏ…nhưng sự nghèo nàn, tù túng không làm chai sạn tâm hồn Liên. Tâm hồn Liên vẫn rung lên niềm trắc ẩn chân thành:

+ Những đứa trẻ nghèo: Liên rất thương chúng nhưng chính chị cũng không có tiền cho.

+ Chị Tí: hỏi han chân thành, đồng cảm với cuộc đời khó khăn, nghèo khổ, tù túng, quẩn quanh của chị. +. Thấu hiểu nỗi khổ của bác Siêu.

+ Cụ Thi Điên tuy hơi sợ nhưng vẫn ân cần chu đáo, rót rượu đầy cho cụ.

+ Đối với em: dành cho em những tình cảm yêu thương của người chị lớn chăm sóc em rất ân cần chu đáo. Không phải vô tình tác giả nhắc tới quầng sáng thân mật xung quanh ngọn đèn chị Tí. Quầng sáng ấy chính là tình người ấm áp nơi đây tỏa ra, từ tâm hồn Liên và những người nghèo khổ khác.

c. Biết khao khát một cuộc sống có ý nghĩa hơn:

– Thể hiện ở ngay nỗi buồn man mác trong tâm hồn Liên trước giờ khắc của ngày tàn. Liên buồn thấm thía trước cảnh chiều quê đơn điệu. Đó là nỗi buồn của cái tôi có ý thức về cuộc sống, không khỏi nuối tiếc về cuộc sống khi thời gian một đi không trở lại.

– An dễ dàng chìm vào giấc ngủ của tuổi thơ trong khi Liên thao thức chờ đợi một chuyến tàu đêm đi qua. Hình ảnh đoàn tàu chính là niềm mơ ước của chị em Liên về một cuộc sống khác với cuộc sống buồn tẻ nơi đây. (phân tích cảnh chờ tàu).

  • Kết bài:

Hai đứa trẻ thực sự như một bài thơ để lại cảm xúc vấn vương, man mác trong lòng người đọc. Trong hoàn cảnh 30 – 45 xã hội đầy rẫy những bất công, mâu thuẫn, ngòi bút Thạch Lam vẫn biết nâng niu, trân trọng những vẻ đẹp tinh tế trong tâm hồn con người. Điều đó chứng tỏ Thạch Lam là một tâm hồn giàu yêu thương, giàu lòng nhân hậu biết bao với cuộc sống với con người. Chính điều đó đã tạo nên giá trị lâu bền và sức hấp dẫn riêng biệt của những trang viết Thạch Lam.


Phân tích những đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn “Hai đứa trẻ” để thấy rõ phong cách riêng, độc đáo của nhà văn Thạch Lam.

  • Mở bài:

– Giới thiệu nhà văn Thạch Lam:  một phong cách riêng độc đáo.

– Hai đứa trẻ là truyện ngắn hay, tiêu biểu cho phong cách văn chương Thạch Lam.

– Câu chuyện dựng lên bức tranh hiện thực về xã hội Việt Nam trước cách mạng với những số phận nhỏ bé, đáng thương của những kiếp người và niềm khát khao đổi thay của họ. – Sức hấp dẫn của truyện chính ở giá trị nghệ thuật độc đáo.

  • Thân bài:

1. Cách dựng truyện:

– Đây là loại truyện tâm tình, truyện không có truyện, không khai thác mâu thuẫn căng thẳng dồn nén, tích tụ mà đi sâu vào những chi tiết bình dị, đời thường.

+ Thời gian ngắn: một khoảnh khắc chiều tà và vào đêm.

+ Không gian nhỏ hẹp: một góc phố huyện nghèo nàn, hẻo lánh.

+ Thế giới nhân vật ít.

– Chi tiết đơn giản không có gì: cả truyện chỉ là những tâm tư, cảm xúc của những đứa trẻ nghèo tạo nên những ám ảnh, day dứt về cuộc sống nghèo nàn đơn điệu của xã hội Việt Nam trước cách mạng trong đó số phận con người nhỏ bé, đáng thương.

+ Cái đơn điệu, tẻ nhạt của cuộc sống ấy được cảm nhận qua bức tranh thiên nhiên Cảnh chiều: buồn tàn lụi (phân tích)

+ Cảm giác tiêu điều về cuộc sống: chợ tàn (phân tích).

+ Hình ảnh con người nơi đây: tác giả không miêu tả nhiều chỉ cần một vài phiến ảnh nhưng cũng đủ làm nổi bật hình ảnh những kiếp người lay lắt, nhỏ bé, đang phải sống cuộc sống buồn tẻ, đáng thương:

  • Chị Tí.
  • Bác Siêu.
  • Bác Xẩm.
  • Bà cụ Thi điên.
  • Chị em Liên,

– Văn Thạch Lam không cần những mâu thuẫn gay gắt, nóng bỏng, không khiến cho lòng người phải uất ức, căn hờn. Văn TL chỉ cần những chi tiết, hình ảnh bình dị, chân thực nhưng gợi lên nỗi xót thương về cuộc sống không lối thoát, về những kiếp người nhỏ bé, đáng thương.

2. Thủ pháp tương phản: ánh sáng và bóng tối.

– Câu chuyện mở ra trong lúc giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối:

+ Ánh sáng nhạt dần, yếu ớt không đủ soi tỏ cuộc sống xung quanh.

+ Bóng tối dần chiếm lĩnh, bao phủ toàn tác phẩm tạo nên nỗi ám ảnh về một cuộc sống tối tăm, tù đọng. Con người thật nhỏ bé trước vũ trụ.

– Trong bóng tối, ánh sáng rực rỡ của đoàn tàu thực sự có ý nghĩa (phân tích). Nó đã đánh thức tâm hồn con người: khao khát một sự đổi thay, khao khát về một cuộc sống khác có ý nghĩa hơn.  Bóng tối tương phản với ánh sáng chính là một thành công độc đáo của tác phẩm. Nó góp phần thể hiện chủ đề của thiên truyện.

3. Khả năng miêu tả những rung động mong manh, tinh tế trong tâm hồn con người:

– Cảm giác mong manh mơ hồ như cánh bướm non, xúc cảm trong sáng tinh tế trong tâm hồn con người: diễn biến tâm trạng của Liên.

– Trong buổi chiều quê buồn thấm thía, Liên cảm nhận được từng bước đi của thời gian. Cái lặng lẽ, man mác của buổi chiều quê như thấm vào tâm hồn ngây thơ của chị:

+ Tiếng trống… nhịp thời gian trôi chảy.

+ Tiếng ếch nhái… cảm giác thân thuộc với cảnh đồng quê.

+ Mùi vị đất cát quê hương…mùi riêng.

→ Chỉ bằng vài nét chân thực đã khơi gợi được cảm giác thân quen của con người Việt. Thạch Lam đã miêu tả diễn biến tâm trạng hết sức tinh tế tạo sức gợi trong lòng người đọc.

– Giữa cái mênh mông, yên lặng của quê hương Liên thả tâm hồn mình mơ tưởng tới vũ trụ xa xanh với bầu trời đêm huyền bí đưa Liên trở về với quá vãng chưa xa thật êm đềm. Đó là giây phút lòng người neo đậu những cảm xúc thật yên tĩnh.

+ Xúc cảm của Liên hướng tới việc chờ đợi đoàn tàu. Những trang viết miêu tả tâm trạng thật tinh tế (phân tích ngắn gọn tâm trạng Liên chờ tàu). Hấp dẫn trong những trang văn của Thạch Lam là ở khả năng khơi gợi những rung động tinh tế như thế trong tâm hồn con người. Tác phẩm của Thạch Lam đậm đà tình cảm và rất giàu chất thơ, không phải ai cũng dễ dàng có được những trang văn tinh tế như thế nếu không xuất phát từ tấm lòng nhân hậu với cuộc sống, với con người.

4. Văn Thạch Lam đẹp như thơ: ngữ điệu nhỏ nhẹ, thủ thỉ, câu văn giàu hình ảnh, nhạc điệu ru hồn người tạo nên những xúc cảm tinh tế mà trong sáng.

– Quên làm sao được những trang văn miêu tả chiều quê đẹp thế. Nhịp điệu chậm rãi, êm ả, tạo ấn tượng mơ hồ về một quá vãng. Điều đó thể hiện tâm hồn gắn bó rất sâu với quê hương, với ruộng đồng. Nó đã gióng lên trong tâm hồn con người một nỗi niềm tha thiết: “Chừng ấy con người trong bóng tối…của họ”.

– Văn đẹp như thơ góp phần thanh lọc tâm hồn con người, khiến cho những rung động mơ hồ trở nên thấm thía hơn. III. Kết thúc vấn đề Hai đứa trẻ là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Thạch Lam. Đó là một bài thơ trữ tình xót xa. Với những gì mà Thạch Lam đã thể hiện, “Hai đứa trẻ” sẽ sống mãi trong lòng người đọc, giúp chúng ta biết nâng niu quiý trong cái đẹp, dù nhỏ nhoi ở xung quanh ta, làm tâm hồn ta trong sáng hơn.

Phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam

1 bình luận

2 Trackbacks / Pingbacks

  1. Vì sao chị em Liên cố thức để đợi chuyến tàu đêm đi qua? - Theki.vn
  2. Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong truyện ngắn "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam - Theki.vn

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.