Thuyết minh di tích chùa Dâu tỉnh Bắc Ninh

thuyet-minh-di-tich-chua-dau-tinh-bac-ninh

Thuyết minh di tích chùa Dâu tỉnh Bắc Ninh

  • Mở bài:

Bắc Ninh là vùng đất cổ kính, nổi tiếng với những làn điệu quan họ ngọt ngào, tha thiết; các di tích chùa, đình, miếu, mạo nhiều bậc nhất cả nước. Bên cạnh chùa Phật Tích, một trong những di tích cổ xưa nhất, có ý nghĩa sâu sắc nhất đối với đời sống tinh thần người Bắc Ninh chính là chùa Dâu, một cổ tự mang đậm dấu ấn Phật giáo vốn rất thịnh hành từ xưa đến nay ở vùng đất này.

  • Thân bài:

Chùa Dâu còn có tên chùa Cả, Cổ Châu Tự, Diên Ứng Tự. Đây là nơi hình thành và phát triển sớm nhất của phật giáo Việt Nam. Chùa Dâu là một danh lam bậc nhất của xứ kinh Bắc xưa nay gắn với kì tích chùa trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp

Chùa Dâu được xây dựng vào buổi đầu Công Nguyên (khoảng từ năm 187 và hoàn thành năm 226) Đây là ngôi chùa lâu đời nhất và gắn liền với lịch sử văn hóa, Phật giáo Việt Nam. Từ buổi đầu sơ khai cho đến tận ngày nay, chùa đã trải qua nhiều lần phục dựng, trùng tu do sự hủy hoại của thời gian và chiến tranh.

Sự phát triển mạnh mẽ của dòng phái Nam Tông từ Ấn Độ truyền bá sang, kết hợp với ảnh hưởng của phật giáo Trung Hoa, khiến chùa Dâu trở thành trung tâm của phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi, nơi trụ trì của nhiều cao tăng Việt Nam, Ấn Độ và Trung Quốc đến để nghiên cứu, biên soạn, phiên dịch kinh Phật, đào tạo tăng ni. Một thời, nơi đây được coi như là trung tâm của phật giáo nước ta.

Cũng như nhiều chùa chiền trên đất Việt Nam, chùa Dâu được xây dựng theo kiểu “nội công ngoại quốc”. Bốn dãy nhà liên thông hình chữ nhật bao quanh ba ngôi nhà chính: tiền đường, thiêu hương và thượng điện.

Tiền đường của chùa Dâu đặt tượng Hộ pháp, tám vị Kim Cương; Gian thiêu hương đặt tượng Cửu Long, hai bên có tượng các vị Diêm Vương, Tam châu Thái tử, Mạc Đĩnh Chi. Thượng điện để tượng Bà Dâu (Pháp Vân), Bà Đậu (Pháp Vũ), và các hầu cận. Các pho tượng Bồ tát, Tam thế, Đức ông, Thánh tăng được đặt ở phần hậu điện phía sau chùa chính.

Ở gian giữa chùa có tượng Bà Dâu, hay nữ thần Pháp Vân, uy nghi, trầm mặc, màu đồng hun, cao gần 2m được bày ở gian giữa. Tượng có gương mặt đẹp với nốt ruồi to đậm giữa trán gợi liên tưởng tới những nàng vũ nữ Ấn Độ, tới quê hương Tây Trúc. Ở hai bên là tượng Kim Đồng và Ngọc Nữ. Phía trước là một hộp gỗ trong đặt Thạch Quang Phật là một khối đá, tương truyền là em út của Tứ Pháp.

Bên trái của thượng điện có pho tượng thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi, vị tổ sư sáng lập phái thiền tông ở việt Nam đã từng đến kiết trụ thiền định ở chùa này.  Bức tượng được đặt trên một bệ gỗ hình sư tử đội tòa sen, có thể có niên đại thế kỷ 14.

Giữa sân chùa trải rộng là cây tháp Hòa Phong. Tháp xây bằng loại gạch cỡ lớn ngày xưa, được nung thủ công tới độ có màu sẫm già của vại sành. Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng dưới, cao khoảng 17 m nhưng vẫn uy nghi, vững chãi thế đứng ngàn năm. Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc chữ “Hòa Phong tháp”. Chân tháp vuông, mỗi cạnh gần 7 m. Tầng dưới có 4 cửa vòm.

Trong tháp, treo một quả chuông đồng đúc năm 1793 và một chiếc khánh đúc năm 1817. Có 4 tượng Thiên Vương cao 1,6 m ở bốn góc. Trước tháp, bên phải có tấm bia vuông dựng năm 1738, bên trái có tượng một con cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Tượng này là dấu vết duy nhất còn sót lại từ thời nhà Hán.

Sự phát triển của chùa Dâu còn gắn chặt với truyền thuyết về phật mẫu Man Nương tạo nên nét độc đáo, thể hiện sự hòa quyện chặt chẽ giữa phạt giáo và tín ngưỡng dân gian vô cùng đặc sắc của nhân dân Bắc Ninh. Mỗi dịp lễ hội hàng năm với sự diễn lại sự tích của các vị Tứ Pháp, Man Nương. Hội chùa Dâu đã biểu lộ sự sùng bái tín ngưỡng phồn thực cổ sơ của cư dân vùng lúa nước. Lễ hội được tổ chức với những nghi lễ trang nghiêm, trọng thể theo đúng phong tục truyền thống kỷ niệm ngày Phật mẫu Man Nương hạ sinh nữ nhi. Lễ hội có nhiều nghi thức sinh hoạt dân gian và nhiều trò diễn xướng phong phú, hấp dẫn, thu hút đông đảo du khách thập phương, tín đồ, tăng, ni phật tử đến cúng lễ, dâng hương, dự hội.

Trải qua hàng ngàn năm, phần “lễ” của hội đã  ít nhiều bị mai một, mặc dù vậy chúng ta vẫn nhận thấy chân nét đẹp, giá trị văn hóa truyền thống phản ánh đời sống tín ngưỡng đa dạng, sự sáng tạo phong phú của người xưa còn được lưu giữ đến ngày nay.

  • Kết bài:

Di tích lịch sử chùa Dâu đi vào đời sống dân gian từ bao đời nay. Mặc dù ngày nay, di tích chùa Dâu không còn như xưa nữa nhưng ý nghĩa và giá trị của nó vẫn còn nguyên vẹn trong lòng con người:

Dù ai buôn đâu bán đâu,
Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về.
Dù ai buôn bán trăm nghề,
Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.

Thuyết minh di tích Chùa Phật Tích tỉnh Bắc Ninh

4 Trackbacks / Pingbacks

  1. Thuyết minh di tích Chùa Phật Tích tỉnh Bắc Ninh - Thế Kỉ
  2. Thuyết minh di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi - Thế Kỉ
  3. Thuyết minh nghệ thuật làm tranh Đông Hồ - Theki.vn
  4. Thuyết minh di tích chùa Một Cột ở Hà Nội - Theki.vn

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.