Tình huống truyện trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu

tinh-huong-truyen-trong-truyen-ngan-chiec-thuyen-ngoai-xa-cua-nguyen-minh-chau
Phân tích chi tiết nghệ thuật của tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa

Tình huống truyện trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu.

 

  • Mở bài:

Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm xuất sắc của nhà văn Nguyễn Minh Châu giai đoạn sau 1975. Lấy bối cảnh cuộc sống đầy ẩn khuất của gia đình hàng chài, nhà văn đã có những phát hiện mới mẻ và sâu sắc về hiện thực cuộc sống. Tình huống truyện góp phần to lớn trong việc thể hiện ý nghĩa nhân văn của tác phẩm này.

  • Thân bài:

1. Tình huống được hé mở ngay trong nhan đề tác phẩm.

Chiếc thuyền ngoài xa là một nhan đề có ý nghĩa biểu tượng, khơi gợi suy tưởng, hé mở tình huống và góp phần thể hiện chủ đề tác phẩm. Nhan đề bao gồm cả đối tượng quan sát là chiếc thuyền và cự li quan sát là ở ngoài xa. Cùng mọi người quan sát, cùng một đối tượng quan sát, và gần như cùng một thời điểm quan sát, nhưng ở những cự li khác nhau sẽ cho những kết quả khác nhau, dẫn đến những xúc cảm và nhận thức khác nhau. Chiếc thuyền xuất hiện trong truyện ngắn trước hết ở ngoài xa, đó là hình ảnh một cánh buồm nhòa mờ trong màn sương huyền ảo của buổi sớm mai trên mặt biển xa, vẻ đẹp hài hòa, toàn bích, cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh khiến nghệ sĩ bàng hoàng xúc động trong cảm nhận: Cái Đẹp là đạo đức! Nhưng khi chiếc thuyền tới gần, đó lại là sự hiện hữu một không gian sống đầy bi kịch của những người dân chài bị cầm tù bởi đói nghèo, tăm tối và bạo lực; một thực tế khiến nghệ sĩ kinh hoàng và phẫn nộ.

Sự đối lập tàn nhẫn giữa ngoại cảnhhiện thực cuộc sống ở những cự li và góc độ quan sát khác nhau khiến nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa trở thành một biểu tượng khơi gợi những ý nghĩa, nhưng thông điệp sâu sắc về cách nhìn cuộc sống, về trách nhiệm của người nghệ sĩ với nghệ thuật và con người.

2. Tình huống trong chuyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa được tạo dựng bởi những phát hiện đầy nghịch lí:

* Phát hiện của Phùng trên bờ biển:

Phát hiện ra cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoài cảnh. Để làm một bộ lịch phong cảnh, Phùng được giao nhiệm vụ đi chụp một tấm ảnh cảnh biển buổi sáng có sương, một tấm ảnh không có con người! Suốt một tuần kiên nhẫn trên một vùng biển miền Trung, nơi có phong cảnh đẹp thơ mộng, có sương mù tháng bảy, cũng là chiến trường xưa, anh vẫn chưa chụp được bức ảnh nào ưng ý. Chi tiết này đã cho thấy những phẩm chất đáng quý trọng của một nghệ sĩ có trách nhiệm với sứ mệnh sáng tạo nghệ thuật, có ý thức nghiêm túc trong lao động nghệ thuật – một công việc đòi hỏi tài năng, tâm huyết và công phu.

Điều kì diệu của nghệ thuật đã bất chợt đến với Phùng và một buổi sáng, khi anh nhìn thấy một chiếc thuyền buồm trên mặt biển xa: mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Trong cảm nhận của Phùng, đó là cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh; là cảnh đắt trời cho quý giá, hi hữu, kì diệu, là bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ, cái đẹp cổ điển, chuẩn mực tưởng chỉ có trong một thời quá vãng nay bất ngờ hiện hữu ngay  trước mắt, trong hiện tại; là một vẻ đẹp đơn giản và toàn bích – vẻ đẹp nguyên sơ, thuần khiết, lí tưởng, thánh thiện. Cái đẹp đã đem đến những cảm xúc mãnh liệt, những khoảng khắc tràn ngập hạnh phúc cho người nghệ sĩ, anh thấy bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào, đó là sự xúc động vì thấy mình vừa may mắn được tạo hóa ân thưởng, sự may mắn không có nhiều trong cuộc đời những người luôn khao khát được khám phá và sáng tạo cái Đẹp.

Trong giây phút thăng hoa của cảm xúc, thậm chí nghệ sĩ còn như phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức, anh như vừa khám phá thấy chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn – đó là khoảng khắc con người cảm thấy tâm hồn mình như được thanh lọc, gột rửa để trở nên trong sáng, thánh thiện khi đứng trước cái đẹp trong trẻo của thiên nhiên. Đó cũng chính là sự giác ngộ, nhận thức về sức mạnh kì diệu của cái đẹp, của nghệ thuật đối với con người, bởi nói như quan niệm của Dostoiepxki: “cái Đẹp cứu rỗi thế giới” – khi đứng trước cái đẹp, người ta thường không nghĩ đến cái xấu, cái ác, cái dung tục, tầm thường của cuộc đời mà để tâm hồn mình bay bổng hướng thiện.

Vậy là phát hiện thứ nhất đã diễn ra trong khoảnh khắc gặp gỡ kì diệu giữa một tâm hồn nghệ sĩ say mê sự tận thiện, tận mĩ với bức tranh thiên nhiên toàn bích khi chiếc thuyền được nhìn từ ngoài xa, qua làn sương mù huyền ảo – phát hiện đã giúp Phùng có được một tác phẩm nghệ thuật có giá trị thẩm mĩ mà mãi mãi về sau… vẫn được treo ở nhiều nơi, nhất là trong các gia đình sành nghệ thuật.

Nhưng ngay lập tức là phát biện thứ hai thật trớ trêu với người nghệ sĩ đang bàng hoàng xúc động bởi cảm giác cái đẹp chính là đạo đức! Sự thật trần trụi, tàn nhẫn của cuộc sống khiến nghệ sĩ kinh hoàng, sợ hãi, phẫn nộ đã hiện ra khi chiếc thuyền không còn ở ngoài xa, trong làn sương mù huyền ảo để hiện lên như cái Đẹp hi hữu trời cho; chiếc thuyền ngoài xa tiến lại gần và hiện hữu trên đó là bi kịch của cuộc sống thường ngày, là cái xấu, cái ác do con người tạo ra khi hai vợ chồng hàng chài rời thuyền và người chồng đánh đập vợ tàn nhẫn ngay trước mắt Phùng. Sự thật còn đáng sợ hơn khi Phùng tiếp tục chứng kiến cảnh đứa con trai đánh lại bố để bênh vực mẹ, cảnh người mẹ nhẫn nhục trước trận đòn khủng khiếp của chồng, xấu hổ và đau đớn trước đứa con Phùng còn phải chứng kiến những cảnh tượng đau lòng ấy lần thứ hai, và được biết đó là chuyện thường ngày của gia đình họ khi người chồng vũ phu cứ đánh vợ ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng.

Như vậy, cùng một thời điểm, cùng một người quan sát, cùng một đối tượng quan sát, nhưng với hai cự li và góc độ khác nhau, người nghệ sĩ đã phát hiện hai bức tranh hoàn toàn tương phản: phía sau cái đẹp thánh thiện trong trẻo của ngoại cảnh lại là sự độc ác, xấu xa, u tối trong cuộc sống con người. Nghịch lí đau đớn này sẽ đưa đến những nhận thức sâu sắc, mới mẻ cho người nghệ sĩ về cách nhìn với hiện thực cuộc đời.

* Phát hiện của Phùng ở Tòa án huyện:

Từ thực tế nhìn thấy trên bờ biển đến thực tế nghe thấy trong câu chuyện của người đàn bà hàng chài trong Tòa án huyện, Phùng và Đẩu đã có những nhận thức sâu sắc hơn bởi những phát hiện đầy nghịch lí của cuộc đời.

Với tấm lòng nhân hậu và sự bất bình trước cái ác của bạo lực gia đình, cả Phùng và Đẩu đều hi vọng góp phần giải thoát người đàn bà hàng chài khỏi người chồng vũ phu, tàn nhẫn, và thái độ của người đàn bà khốn khổ đã khiến các anh phát hiện ra nghịch lí không thể hiểu nổi của cuộc sống con người. Cả Phùng và Đẩu đề tin rằng việc khuyên người đàn bà khốn khổ li hôn là giải pháp đúng đắn và nhân đạo nhất; họ cũng hoàn toàn tin vào thiện chí của mình chắc chắn sẽ được người đàn bà chấp nhận, thậm chí biết ơn. Nhưng họ đã kinh ngạc khi phát hiện ra một nghịch lí trớ trêu: người đàn bà đau khổ ấy lại không hề muốn bỏ người chồng tàn nhẫn, con người bị cầm tù bởi đói nghèo, tăm tối và bạo lực ấy lại tuyệt đối không muộn được giải thoát, thậm chí chị còn khẩn thiết van xin: Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó.

Sau khi đã có sự tin cậy và cảm thông, người đàn bà hàng chài đã kẻ cho Đẩu và Phùng nghe về cuộc đời mình, giải thích cho họ hiểu vì sao dù có khổ sở đến đâu chị cũng không thể bỏ chồng, không thể đi tìm sự giải thoát cho riêng mình, giúp các anh phát hiện ra sự giản đơn chua xót của nghịch lí. Hiện thực với những lí lẽ giản dị mà nghiệt ngã, những mâu thuẫn, éo le qua câu chuyện của người đàn bà thất học, quê mùa nhưng sâu sắc từng trải khiến Đẩu và Phùng bỗng trở thành những người nông nổi, ngây thơ; lòng tốt của các anh mới chỉ dừng lại ở những lí thuyết đẹp đẽ nhưng phi thực tế khi giải pháp các anh đưa ra chỉ có thể giúp người đàn bà bỏ chồng để thoát khỏi đòn roi mà chưa thể giúp chị thoát khỏi cuộc sống lam lũ, vất vả, đói nghèo… Câu chuyện của người đàn bà hàng chài làm vỡ ra nhiều điều trong suy nghĩ của Đẩu và Phùng, đó chính là sự nhận thức, giác ngộ về những nghịch lí vẫn luôn tồn tại đâu đó trong cuộc sống, những nghịch lí mà dù có đau đớn hay phẫn nộ, con người nhiều khi vẫn buộc phải chấp nhận.

3. Tình huống còn được đẩy tới cao độ của nhận thức và xúc cảm qua trải nghiệm của nghệ sĩ Phùng trước trận bão biển.

Nếu phát hiện kinh hoàng trên bờ biển về bức tranh bạo lực tăm tối của cuộc sống gia đình người hàng chài là những điều nhìn thấy, phát hiện chua xót trong tòa án huyện về bi kịch của họ là những điều nghe thấy thì tình huống nhận thức trong tác phẩm đã được đẩy đến tận cùng khi Phùng bắt đầu sống và trải nghiệm với cuộc sống người dân chài trong trận bão biển.

Trong đoạn cuối tác phẩm., khi biển động, trời trở gió đột ngột, Phùng lang thang một mình trên bờ biển, anh chia sẻ cảm giác lo lắng với ông lão làm nghề sơn tràng, anh trăn trở trước một chiếc thuyền vó bè đang đậu trơ trọi giữa phá nước, một mình chống chọi với sóng gió; anh gào lên vì nỗi lo lắng trước những diễn biến bất ưng của cơn bão…; – đó là những biểu hiện của một tâm hồn nghệ sĩ gắn bó sâu sắc với tất cả những buồn vui của cuộc đời và số phận con người. Khi miêu tả hình ảnh một nghệ sĩ đang bối rối vì vừa nhận ra những nghịch lí trớ trêu, những bất lực, bế tắc của cuộc đời, một ông lão sơn tràng ngoài sáu mươi tuổi vẫn phải lo lắng nhìn ra mặt phá, một chiếc thuyền trơ trọi, một cái bếp lửa cũng bị gió ném tung ra khắp bãi cát, những tàn lửa đỏ rực bay quẩn lên… một xoong cơm đã sống nhăn…, – tất cả đặt trong sự đối lập với một bức tranh thiên nhiên khủng khiếp khi những tảng mây đen xếp ngổn ngang trên mặt biển đen ngòm… biển gào thét, sóng bạc đầu ngoài cửa lạch nổi cồn lên, cao như những ngọn núi tuyết trắng, nhà văn đã gieo vào lòng người đọc những dự cảm lo âu đầy bất ổn: trước cái mênh mông rộng lớn của thiên nhiên, trước những đe dọa, cuồng nộ của sóng gió và bão táp, con người hình như vẫn thật nhỏ bé, yếu đuối và đơn độc.

Và khi đã “chạm” vào cuộc sống của những người dân chài, dù chỉ thoáng qua trong trận bão biển, với những dự cảm lo âu, với những mong manh chới với, có lẽ Phùng đã thấu hiểu thấm thía hơn câu nói của người đàn bà hàng chài sâu sắc, từng trải: Cũng có khi biển động sóng gió chứ chú!; càng thấu hiểu một cách chua xót rằng hành trình tìm kiếm một bến bờ bình yên ấm áp hình như vẫn quá mong manh, xa vời; có lẽ Phùng đã hiểu thêm phần nào những nghịch lí mà trước đó, cả anh và Đẩu đều không thể nào hiểu được: không chỉ khi đứng trước cái đẹp, người ta mới quên đi cái xấu, cái ác để say đắm hướng thiện; kể cả khi đứng trước sự cuồng bạo khốc liệt của thiên nhiên, khi da diết hướng về sự sống, lúc ấy, mọi sự tầm thường, xấu xa, mọi bi kịch, đau khổ của con người trong cuộc sống đời thường cũng đều trở nên nhỏ bé, không đáng kể, họ đều có thể quên đi hoặc đơn giản là chấp nhận nó để cùng nhau chung vai sát cánh, để nương tựa vào nhau, bất chấp những đau khổ, nhục nhã, vượt qua cơn cuồng nộ của thiên nhiên, cùng nhau sống, cùng nhau tồn tại.

4. Tình huống đặc sắc trong “Chiếc thuyền ngoài xa” đã giúp nhà văn gửi gắm những thông điệp lớn lao, thấm đẫm giá trị nhân đạo tới cuộc đời.

* Thông điệp về cách nhìn cuộc sống:

Từ sự đối lập giữa cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh với hiện thực phũ phàng, tàn nhẫn của cuộc sống, nhà văn cho thấy không phải bao giờ cái đẹp cũng thống nhất với cái thiện, không phải bao giờ cái bên ngoài cũng là sự thể hiện bản chất thật bên trong. Vì vậy, muốn đúng về bản chất cuộc sống, con người, phải có cái nhìn thấu đáo, toàn diện, sâu sắc từ nhiều góc độ, không thể nhận xét, đánh giá đơn giản, dễ dãi, một chiều căn cứ vào kết quả cảm tính của cái nhìn hời hợt, nông cạn bên ngoài sự vật, sự việc. Chiếc thyền ngoài xa đã xua tan làn khói lãng mạn phủ lên hình ảnh đã trở nên quen thuộc về một ngư phủ dưới cánh buồm mờ ảo trong không gian xa rộng của biển cả (I. Nikulin – 1988) để đưa đến một cách nhìn khác, sâu sắc hơn, thực hơn và cũng chua xót hơn về cuộc sống con người.

Từ câu chuyện của người đàn bà hàng chài, tình huống cũng đưa đến một thức nhận thấm thía nỗi chua xót: cái xấu, cái ác nhiều khi vẫn tồn tại trong cuộc sống con người như một lẽ bất khả kháng; con người cần có cái nhìn thấu đạt nhân tình, không phải để chấp nhận, dung túng mà để tìm ra cội nguồn phát sinh nhằm loại bỏ nó, đem lại sự bình yên, tốt đẹp cho cuộc sống con người.

Không chỉ đưa ra thông điệp về cái nhìn toàn diện, sâu sắc, thấu đáo với cuộc sống, tình huống truyện còn đưa đến một nhận thức quan trọng: để giải phóng con người khỏi cảnh đói nghèo, khổ đau, tăm tối cần phải có những giải pháp thiết thực mang tính toàn xã hội chứ không phải chỉ bằng những lí thuyết đẹp đẽ mà xa rời thực tiễn, những phương cách cực đoan duy ý chí.

* Thông điệp về trách nhiệm của người nghệ sĩ với nghệ thuật và con người.

Không thể tách rời nghệ thuật với hiện thực cuộc sống con người; hãy rút ngắn khoảng cách giữa nghệ thuật với hiện thực bởi nghệ thuật đích thực luôn gắn bó khăng khít và phản ánh chân thực cuộc sống con người.

Nghệ sĩ không chỉ cần những phẩm chất đáng quý trọng trong lao động nghệ thuật và sứ mệnh sáng tạo nghệ thuật, cũng không chỉ cần có tư chất nghệ sĩ biết rung động trước cái Đẹp, nghệ sĩ cần phải có tấm lòng nhân ái, có tình thương yêu sâu nặng với con người, biết trăn trở cho số phận con người, có đủ sự sắc sảo, tinh tế để có thể nhìn ra những mảng khuất tối trong cuộc sống, có sự dũng cảm và bản lĩnh trung thực để khám phá và phản ánh những hiện thực dẫu là tàn nhẫn của cuộc sống con người. Nguyễn Minh Châu đã từng khẳng định: Nhà văn không có quyền nhìn sự vật một cách đơn giản mà nhà văn cần phấn đấu để đào xới bản chất của con người vào các tầng sâu lịch sử.

* Tình huống cũng giúp nhà văn thể hiện những tư tưởng nhân đạo sâu sắc nhất cho truyện ngắn của mình.

Thấu hiểu, xót thương cho số phận bất hạnh của con người trong cuộc sống mưu sinh., trong hành trình tìm kiếm hạnh phúc và sự bình yên.

Biết quý trọng những vẻ đẹp dẫu là khuất lấp trong tâm hồn, tình cảm những con người khốn khổ, bất hạnh.

Thể hiện niềm tin vào sức mạnh của con người có thể vượt qua những khó khăn, thử thách, gian truân để duy trì sự sống và tình yêu thương.


Tham khảo:

  • Mở bài:

Chiếc thuyền ngoài xa là tên một truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Đây là tác phẩm tiêu biểu cho đề tài đời tư – thế sự của Nguyễn Minh Châu sau năm 1975. Tạp chí Văn nghệ Quân đội (số 1 tháng 10 năm 2007) cũng chọn và coi đây là tác phẩm hay nhất của nhà văn.

  • Thân bài:

Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa xoay quanh một tình huống chủ chốt: Nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng tìm vào vùng quê miền biển mong chụp được bức ảnh nghệ thuật về làm lịch và tưởng đã thành công khi thu vào ống kính khung cảnh chiếc thuyền ngoài xa đẹp như một giấc mơ. Nhưng ngay sau đó, anh đã phải chứng kiến một nghịch cảnh trớ trêu: cảnh bạo hành trong một gia đình hàng chài vừa bước xuống từ con thuyền ấy. Những ngày sau, cảnh bạo hành đó vẫn tiếp diễn. Chánh án Đẩu đã mời người đàn bà làng chài đến tòa án để giải quyết chuyện gia đình của chị.

Tình huống truyện được tạo nên bởi nghịch cảnh giữa vẻ đẹp chiếc thuyền ngoài xa với cái thật gần là sự ngang trái trong gia đình thuyền chài. Sau nhiều ngày “phục kích”, Phùng mới được “một cảnh “đắt” trời cho”. Nó giống như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”. Toàn bộ khung cảnh “từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Nhưng oái oăm thay, cảnh đẹp nhất, có hồn nhất lại là cảnh ẩn chứa những điều tệ hại nhất, xót xa nhất: bước ra từ thuyền là một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi; một người đàn ông to lớn dữ dằn; một cảnh tượng tàn nhẫn: gã chồng đánh đập vợ một cách thô bạo; đứa con thương mẹ, đánh lại cha.

Cuộc gặp gỡ của Đẩu, Phùng và người đàn bà hàng chài ở tòa án đã đẩy tình huống truyện lên tầm cao của giá trị nhận thức. Chánh án Đẩu đứng về phía người vợ để khuyên chị ly hôn nhưng thật bất ngờ, bằng những lý lẽ rất chân tình, người vợ từ chối, thậm chí van xin tòa án cho chị không bỏ chồng. Theo chị, gã chồng là chỗ dựa quan trọng của người phụ nữ làng chài, nhất là khi biển động phong ba. Hơn nữa, chị còn có những đứa con, chị phải sống vì con, sống cho con chứ không thể sống vì bản thân. Và trên thuyền cũng có những lúc vợ chồng con cái sống vui vẻ.

Qua câu chuyện của người đàn bà ở tòa án, chúng ta hiểu thêm về nguyên nhân bi kịch và tính cách của các nhân vật. Gánh nặng mưu sinh đã làm cho người chồng thay đổi tính cách từ hiền lành sang thô bạo. Người chồng vừa là nạn nhân của cuộc sống đói nghèo vừa là thủ phạm gây ra nỗi đau cho vợ và con. Người vợ là một phụ nữ nhẫn nhịn, cam chịu, giàu lòng vị tha, bao dung, giàu lòng thương con. Chị thấu hiểu sâu sắc lẽ đời.

Đẩu hiểu được nguyên do người đàn bà không thể bỏ chồng là vì những đứa con. Anh vỡ lẽ ra nhiều điều trong cách nhìn nhận cuộc sống. Anh hiểu rằng, con người và cuộc sống phong phú, phức tạp chứ không dễ dàng lý giải và can thiệp như anh tưởng lúc ban đầu. Còn nhân vạt Phùng như thấy chiếc thuyền nghệ thuật ở ngoài xa, còn sự thật cuộc đời lại ở rất gần. Cái đẹp ngoại cảnh anh ngỡ là hoàn hảo, toàn bích có thể che khuất cái bề bộn, ngổn ngang của đời sống. Bề ngoài nhếch nhác, lam lũ, cơ cực lại có thể chứa đựng những vẻ đẹp tiềm ẩn trong con người. Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện giúp anh hiểu rõ hơn cái có lí trong cái tưởng như nghịch lí ở gia đình thuyền chài. Anh hiểu thêm tính cách của Đẩu và hiểu thêm chính mình.

Tình huống truyện chứa đựng những suy ngẫm, phát hiện sâu sắc của nhà văn về cách để nhìn nhận, đánh giá con người, cuộc sống và về mối quan hệ giữa nghệ thuật với hiện thực, người nghệ sĩ với cuộc đời. Cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều mà chứa đựng nhiều nghịch lý. Cần nhìn nhận mọi sự việc, hiện tượng trong hoàn cảnh cụ thể của nó và trong mối quan hệ với nhiều yếu tố khác nữa. Muốn giúp đỡ con người không chỉ dựa vào thiện chí hay kiến thức sách vở mà phải thấu hiểu cuộc sống của họ và có những biện pháp thiết thực. Con người ta luôn phải nhìn lại mình. Hoạt động tự ý thức khiến con người ngày càng hoàn thiện hơn. Và hơn hết, nghệ thuật chân chính không bao giờ rời xa cuộc sống. Nghệ thuật chân chính là cuộc sống và phải luôn luôn vì cuộc sống.

  • Kết bài:

Dựng lên tình huống đối lập giữa hình ảnh chiếc thuyền trên bức ảnh nghệ thuật và tấn bi kịch của gia đình người ngư dân bên trong chiếc thuyền đẹp đẽ ấy, nhà văn thể hiện rõ quan niệm nghệ thuật của mình: nghệ thuật chân chính bao giờ cũng bắt nguồn từ cuộc sống, phục vụ cuộc sống; tài năng và tấm lòng của người nghệ sĩ là những nhân tố không thể thiếu được trong sự sáng tạo nghệ thuật.

Xem thêm:

2 Trackbacks / Pingbacks

  1. Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, hãy làm tỏ những suy tư, chiêm nghiệm đầy tính triết lí của Nguyễn Minh Châu về cuộc đời và nghệ thuật. - Theki.vn
  2. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa Nguyễn Minh Châu đã xây dựng được một tình huống truyện mang ý nghĩa khám phá, phát hiện về đời sống - Theki.vn

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.