van-ban-dong-song-den

Văn bản: Dòng sông đen (trích “Hai vạn dặm dưới đáy biển” của Giuyn Véc-nơ)

Dòng “Sông đen”
(trích “Hai vạn dặm dưới đáy biển” của Giuyn Véc-nơ)

Thuyền trưởng Nê-mô cáo từ rồi đi ra. Tôi ở lại với những ý nghĩ của mình. Tôi nghĩ về Nê-mô. Liệu sau này tôi có biết được quốc tịch của con người bí ẩn đã từ bỏ Tổ quốc mình không? Cái gì đã khiến ông ta căm ghét loài người, một lòng căm ghét, khao khát trả thù? Phải chăng ông ta là một trong số những nhà bác học không được thừa nhận, là một thiên tài “bị người đời hắt hủi”, như Công-xây nói? Chẳng ai biết! Số phận đã ném tôi lên tàu ông ta, tính mệnh tôi nằm trong tay ông ta. Ông ta tiếp đón chúng tôi một cách lạnh lùng nhưng vẫn chu đáo. Chưa lần nào ông ta bắt tay tôi. Cũng chưa lần nào đưa tay cho tôi bắt.

Tôi suy nghĩ liên miên suốt một tiếng đồng hồ và cố gắng đi sâu vào bí mật của con người ấy. Mắt tôi vô tình dừng lại nơi tấm bản đồ thế giới trải trên bàn. Tôi lần ngón tay trên bản đồ và tìm thấy giao điểm độ kinh và độ vĩ mà thuyền trưởng Nê-mô đã chỉ. Các đại dương cũng như các lục địa đều có những dòng sông của riêng mình. Đó là những hải lưu rất dễ nhận ra theo màu sắc và nhiệt độ. Hải lưu đáng kể nhất là Gơn-xtrim (Gulf Stream). Khoa học đã ghi vào bản đồ Trái Đất năm hải lưu lớn nhất: hải lưu thứ nhất ở phía bắc Đại Tây Dương, thứ hai ở phía nam Đại Tây Dương, thứ ba ở phía bắc Thái Bình Dương, thứ tư ở phía nam Thái Bình Dương, hải lưu cuối cùng ở phía nam Ấn Độ Dương.

Tàu Nau-ti-lơtx chạy theo một hải lưu kể trên, có cái tên Nhật Bản là Cư-rô-xi-ô (Kuroshioa), nghĩa là “Sông Đen”. Ra khỏi vịnh Băng-gan (Bengal), được những tia thẳng đứng của mặt trời sưởi nóng, hải lưu này chảy qua eo Ma-lắc-ca (Malacca), dọc theo bờ biển châu Á rồi vòng theo bờ biển phía bắc Thái Bình Dương, tới quần đảo A-lê-út (Aleutian). Nó cuốn theo những thân cây long não, những thực vật nhiệt đới, màu xanh thẳm của hải lưu ấm áp khác hẳn với nước đại dương lạnh ngắt.

Tôi nghiên cứu đường đi của hải lưu trên bản đồ và thấy nó bị mất hút giữa Thái Bình Dương mênh mông. Óc tưởng tượng đã làm tôi say sưa đến nỗi Nét Len và Công-xây vào phòng khách lúc nào không hay.

Nét và Công-xây sững sờ trước cảnh huyền diệu đang hiện ra trước mắt.

– Chúng ta đang ở đâu thế này? Ở đâu? – Nét kêu lên. – Có phải ở Viện bảo tàng Quê-bếch (Quebec) không?

– Các bạn của tôi ơi, — Tôi mời họ xích lại gần, – không phải các bạn đang ở Ca-na-đa (Canada) hay ở Pháp đâu, mà đang ở trên tàu Nau-ti-lơtx, dưới mặt biển năm mươi mét.

– Giáo sư đã nói vậy thì phải tin thôi! Công-xây đáp. – Nhưng xin thú thật rằng phòng khách có thể làm cho một người Phơ-le-mít’ (Flemish) như tôi cũng phải ngạc nhiên.

– Anh bạn ơi, bạn cứ ngạc nhiên đi và hãy xem kĩ những tủ kính này. Ở đấy bạn sẽ thấy nhiều điều kì lạ đối với một người chuyên phân loại như bạn.

Công-xây thì chẳng cần phải cổ vũ nhiều. Anh ta cúi xuống xem xét và lẩm bẩm những thuật ngữ sinh vật học.

Trong khi đó, Nét Len, vì không thạo lắm về nhuyễn thể học, nên hỏi han tôi về cuộc gặp gỡ vừa qua với thuyền trưởng Nê-mô, về lai lịch ông ta, về ý đồ của ông ta. Tóm lại, anh ta hỏi tôi liên miên làm tôi không kịp trả lời.

Tôi nói lại với Nét tất cả những gì tôi biết, đúng hơn là những gì tôi không biết. Rồi tôi lại hỏi Nét về những điều anh ta nghe và thấy được.

– Tôi chẳng nghe, chẳng nhìn thấy gì cả, – Nét trả lời. – Thậm chí chẳng thấy một bóng thuỷ thủ nào. Chẳng lẽ thuỷ thủ cũng bằng điện?

– Bằng điện sao được!

– Ấy ấy, có thể bằng điện lắm chứ! Nhưng thưa ngài A-rô-nắc, Nét bị ý nghĩ của mình ám ảnh, – Ngài có thể cho tôi biết số người trên tàu này không? Mười người, hai mươi người, năm mươi người, một trăm người?

– Ông Nét ơi, tôi không thể trả lời ông được đâu! Ông hãy nghe tôi, hãy từ bỏ ngay cái ý định đoạt tàu Nau-ti-lơtx, hay bỏ trốn đi. Chiếc tàu này là một kì công của kĩ thuật hiện đại và tôi sẽ rất ân hận nếu không được tìm hiểu nó kĩ càng. Có lẽ nhiều người mong được ở vào địa vị chúng ta để được ngó qua những kì quan này! Vì vậy, ông hãy bình tĩnh lại, chúng ta sẽ cùng quan sát những gì đang xảy ra xung quanh.

− Quan sát những cái gì! – Nét hét lên. – Trong cái ngục tù bằng sắt này thì còn thấy gì nữa mà quan sát! Chúng ta đang đi như những thẳng mù…

Nét chưa kịp nói hết câu thì phòng khách bỗng tối sầm, khiến mắt tôi nhức nhối như khi từ trong bóng tối

bước ra chỗ sáng gay gắt.

Chúng tôi đứng sững tại chỗ và chẳng biết sau đó sẽ là điều hay, điều dở. Nhưng bỗng có tiếng rầm rì, tựa như vỏ tàu bằng sắt bắt đầu tách ra.

– Thôi chết rồi! – Nét nói.

– Bộ sứa thuỷ tức’! — Công-xây lẩm bẩm.

Phòng khách đột nhiên lại sáng lên. Ánh sáng từ hai phía rọi vào phòng qua những ô kính hình bầu dục lớn ở tường. Nước biển chan hoà ánh điện. Ô cửa bằng pha lê ngăn cách chúng tôi với đại dương. Thoạt tiên tôi rùng mình khi nghĩ tới chuyện những tấm kính mỏng manh kia có thể vỡ. Nhưng khung kính vững vàng bằng đồng khiến ô cửa có độ bền không gì phá vỡ nổi.

Biển sâu được chiếu sáng một hải lí. Quang cảnh trước mắt tôi đẹp tuyệt vời, không bút nào tả xiết. Chẳng bàn tay hoạ sĩ nào vẽ được tất cả cái dịu dàng của màu sắc, của ánh sáng lung linh trong nước biển vắt từ đáy lên.

Ai cũng biết nước biển rất trong. Người ta đã xác định rằng nước biển sạch hơn nước suối nhiều. Những chất khoáng và chất hữu cơ trong nước biển chỉ làm nó trong hơn. Ở một số nơi ngoài đại dương, gần quần đảo Ăng-ti (Antilles), qua lớp nước sâu một trăm bốn nhăm mét có thể thấy rất rõ đáy biển phủ cát, còn tia sáng mặt trời có thể sâu tới ba trăm mét…

Những ô cửa ở hai bên phòng khách nhìn ra đáy biển mênh mông. Bóng tối trong phòng càng tăng thêm ánh sáng rực rỡ bên ngoài. Nhìn qua ô cửa, ta có cảm tưởng như đứng trước một bể nuôi cá khổng lồ.

Tàu Nau-ti-lơtx dường như đứng yên một chỗ, vì xung quanh chẳng thấy một điểm nào động đậy. Tuy nhiên nước biển do mũi tàu rẽ ra hai bên đôi khi lao qua vun vút trước mắt chúng tôi.

Say mê cảnh đẹp biển sâu, chúng tôi tựa vào khung cửa, dán mắt nhìn qua ô kính, mãi chẳng nói nên lời. Cuối cùng, Công-xây bảo Nét:

– Anh Nét thân mến ơi! Anh vẫn muốn được xem, bây giờ hãy xem đi cho thỏa!

– Kì diệu thật! Kì diệu thật! – Nét phấn khởi. Anh ta đã quên cả sự giận dữ lẫn những kế hoạch chạy trốn của mình. – Từ xa đến đây để ngắm cảnh thần tiên này cũng đáng!

Tôi nói:

– Đúng, bây giờ tôi đã hiểu được cuộc sống của con người này. Ông ta đã đi sâu vào một thế giới đặc biệt, và thế giới đó đã mở ra trước mắt ông ta những bí mật thầm kín nhất của mình.

[…] Công-xây bỗng reo lên. – Kìa cá! Có thể nói trước mắt chúng ta là một bể nuôi cá!

– Không đúng! – Tôi nói – Bể nuối cá dù sao cũng chỉ là một cái chậu, còn những con cá này tự do thoải mái như chim trên trời…

Đàn cá hộ tống tàu Nau-ti-lơtx suốt hai tiếng đồng hồ. Chúng tôi ngây người ra vì thích thú. Nét gọi tên từng loại cá.

Công-xây phân loại chúng, còn tôi thì say sưa nhìn chúng tung tăng. Tôi chưa từng được thấy những con cá đẹp như thế này trong môi trường tự nhiên của chúng….

Phòng khách bỗng lại bật đèn sáng. Những cánh cửa sổ bằng sắt khép lại. Cảnh thần tiên biến mất. Có lẽ tôi sẽ còn bị mê đi lâu nữa nếu mắt tôi không vô tình trông thấy những dụng cụ treo trên tường. Kim địa bàn vẫn chỉ hướng đông bắc, áp kế chỉ năm át-mốt-phe (atmosphere), cho biết độ sâu là năm mươi mét, đồng hồ điện chỉ tốc độ mười lăm hải lí một giờ.

Tôi chờ thuyền trưởng Nê-mô, nhưng ông ta không đến. Đồng hồ chỉ năm giờ chiều.

Nét Len và Công-xây đã trở về phòng mình. Tôi cũng về phòng riêng. Bữa ăn đã dọn sẵn trên bàn.

Tối hôm đó, tôi đọc, viết và suy nghĩ. Khi thấy buồn ngủ, tôi nằm xuống giường và thiếp đi trong lúc tàu Nau-ti-lơtx băng theo dòng “Sông Đen” chảy xiết.

Dòng sông đen (trích Hai vạn dặm dưới đáy biển) (Bài 9, Ngữ Văn 7, tập 2, sách Chân trời sáng tạo).

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang