Bài thơ Nhớ rừng (Thế Lữ), SGK Ngữ văn 8 – Tập 2

nho-rung-the-lu-sgk-ngu-van-8-tap-2

Nhớ rừng
(Thế Lữ)

(Lời con hổ ở vườn bách thú[1], Tặng Nguyễn Tường Tam)

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn[2], ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai linh[3] rừng thẳm,
Nay sa cơ[4], bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự[5].

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung hoành hống hách những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm[6], bóng cả[7], cây già,
Với tiếng gió gào ngàn[8], với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Ta biết ta chúa tể[9] của muôn loài,
Giữa chốn thảo hoa[10] không tên, không tuổi.

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối,
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,
Ta lặng ngắm giang sơn[11] ta đổi mới?
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
– Than ôi! Thời oanh liệt[12] nay còn đâu?

*

Nay ta ôm niềm uất hận[13] ngàn thâu,
Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,
Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:
Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;
Dải nước đen giả suối, chẳng thông dòng
Len dưới nách những mô gò thấp kém;
Dăm vừng lá hiền lành, không bí hiểm[14],
Cũng học đòi bắt chước vẻ hoang vu
Của chốn ngàn năm cao cả, âm u.

Hỡi oai linh, cảnh nước non hùng vĩ[15]!
Là nơi giống hùm thiêng[16] ta ngự trị[17].
Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,
Nơi ta không còn được thấy bao giờ!
Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,
Ta đương theo giấc mộng ngàn[18] to lớn
Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,
– Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

Chú thích.

[1] Vườn bách thú: công viên có nuôi nhốt các loại chim thú quý hiếm.
[2] Ngạo mạn: kiêu ngạo, coi thường người khác.
[3] Oai linh (hoặc uy linh): sức mạnh linh thiêng.
[4] Sa cơ: lâm vào cảnh không may, phải thất bại.
[5] Vô tư lự: không lo nghĩ.
[6] Sơn lâm: rừng núi (sơn: núi, lâm: rừng).
[7] Cả (từ cũ): lớn
[8] Ngàn: rừng.
[9] Chúa tể: kẻ ở ngôi chủ, có quyền lực thống trị tối cao.
[10] Thảo hoa: hoa cỏ, cây cối (thảo: cỏ; hoa: hoa).
[11] Giang sơn: sông núi, chỉ đất đai có chủ quyền.
[12] Oanh liệt: (tiếng tăm) lừng lẫy, vang dội.
[13] Uất hận: căm giận, uất ức dồn nén trong lòng.
[14] Bí hiểm: dường như chứa đựng nguy hiểm khó dò biết.
[15] Hùng vĩ: to lớn, mạnh mẽ, toát lên vẻ đẹp gây ấn tượng về sự lớn lao, hùng mạnh (hùng: khí thế mạnh mẽ; vĩ: rất to lớn).
[16] Hầm thiêng (hoặc hùm thiêng): con hổ tinh khôn và dũng mãnh, được coi là linh thiêng.
[17] Ngự trị: chiếm địa vị thống trị cao nhất (thường dành nói về vua chúa).
[18] Giấc mộng ngàn: mộng tưởng về chốn rừng núi.

1936

Nhớ rừng là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Thế Lữ và là tác phẩm góp phần mở đường cho sự thắng lợi của thơ mới.

Nguồn:
1. Tinh tuyển văn học Việt Nam (tập 7: Văn học giai đoạn 1900-1945), Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, NXB Khoa học xã hội, 2004
2. Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 2007.

Cảm nhận tâm sự của con hổ trong vườn bách thú (Nhớ rừng-Thế Lữ)

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.