“Văn tế” là gì?

van-te-la-gi

“Văn tế” là gì?

I. Khái niệm.

Vắn tế là văn bản dùng để tế lễ trời đất, núi sông thường có bài văn cầu chúc. Về sau, khi chôn cất người thân người ta cũng dùng văn tế để tưởng nhớ người đã mất.

Cùng với sự phát triển của xã hội, nội dung văn tế cũng ngày một phong phú thêm. Đó là sự uất ức về cảnh nước mất nhà tan, xót thương cho những người dám hi sinh vì nghĩa lớn, lên án bất công như Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, Văn tế đồng bào chết vì nạn bão lụt ở Nghệ – Tĩnh của Phan Bội Châu…; hay bộc lộ nỗi đau thương có pha lẫn tiếng cười trong Văn tế sống vợ của Trần Tế Xương, mỉa mai giễu cợt trong Văn tế thuốc phiện, Văn tế xôi thịt của tác giả khuyết danh, châm biếm và đả kích trong Văn tế Cutxô của Nguyễn Văn Từ…

Văn tế nói chung là loại văn đọc khi tế, cúng người chết (trong một số trường hợp đặc biệt cũng dùng để tế lễ người sống); bởi vậy nó có hình thức tế – hưởng.

III. Hình thức.

Về hình thức, văn tế có thể là văn vần, văn xuôi và biền văn.

Một bài văn tế thường có các phần:

– Lung khởi: luận chung về lẽ sống chết, thường bắt đầu bằng mấy chữ “Than ôi”, “Than rằng”, “Thương ôi”…

– Thích thực: kể phẩm hạnh, công đức, cuộc đời của người đã chết, thường bắt đầu bằng mấy chữ ” Nhớ cha (linh, ông) xưa”…

– Ai vãn: nói lên niềm thương tiếc đối với người đã chết, thường bắt đầu bằng mấy chữ “Hỡi ôi” hoặc “Ôi”…

– Kết: bày tỏ lòng tiếc thương và lời cầu nguyện, lời mời của người đứng tế đối với linh hồn người chết, thường bắt đầu bằng mấy chữ “con (tôi, chúng tôi, bản chức…) nay” và kết lại bằng mấy chữ “Phục duy”, “Thượng hưởng”…

Tuy nhiên, do văn tế có thể được viết theo nhiều lối, cho nên tùy theo người viết chọn thể loại nào đấy, sẽ phải tuân thủ tính quy định của thể loại đó.

Bài văn tế phỏng theo phú Đường luật về cách thức hiệp vần (thường dùng một vần), đặt câu bằng trắc giống như phú; riêng lối đặt câu (kiểu: cách cú, gối hạc, song quan…) có phần uyển chuyển và linh hoạt hơn, như bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu.

III. Những bài văn tế tiêu biểu.

– Thể biền ngẫu: “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu

– Thể song thất lục bát: “Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du”.

– Văn xuôi: “Văn tế chị” của Nguyễn Hữu Chỉnh.

– Thể tán: “Văn tế một công chúa”‘ của Mạc Đĩnh Chi.

– Văn vần có đối: “Văn tế Trương Quỳnh Như” của Phạm Thái.

– Thể phú cổ thể hoặc lưu thủy: tức làm theo kiểu “Bạch Đằng giabng phú” của Trương Hán Siêu…

Tuy vậy, thông dụng nhất là lối văn tế làm theo thể phú, nhất là phú Đường luật như Văn tế Võ Tánh và Ngô Tùng Châu và biến thể của lối này.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.