Vẻ đẹp khát vọng tình yêu tuổi trẻ trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh và Vội vàng của Xuân Diệu

ve-dep-khat-vong-tinh-yeu-tuoi-tre-trong-song-va-voi-vang

Cảm nhận về hai khổ thơ cuối bài thơ “Sóng” (Xuân Quỳnh). Liên hệ với đoạn thơ “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm… Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi” (“Vội vàng”, Xuân Diệu) để làm bật lên vẻ đẹp khát vọng ở hai đoạn thơ.


  • Mở bài:

Ngàn vạn năm rồi kể từ khi tiếng đàn Orphee vang lên thay cho niềm nhớ nhung vô hạn gửi đến người vợ Euridice của mình. Nỗi nhớ thương ngày ấy lay động cả đỉnh Olympus và ngục sâu thẳm của thế giới Vong Hồn. “Sóng” của Xuân Quỳnh đã đi giữa những xúc cảm mãnh liệt tình yêu ấy để thoáng chốc gọi mở cho bản thân mình những xúc cảm giản dị của người phụ nữ thời đại : nỗi lo âu và khát vọng bất tử hóa tình yêu. Để từ đó chính “Sóng” với những triết lý của riêng mình lại gặp “Vội Vàng” của Xuân Diệu khi xưa về triết lý thời gian.

  • Thân bài:

Khánh Ly trong quyển sách duy nhất của mình – Đằng sau những nụ cười- đã tâm sự rất mực chân thành về những người phụ nữ làm nghệ thuật : là ca sĩ hay là thi sĩ. Bà nói rằng bất cứ người phụ nữ nào, dù có kiêu sa với ánh đèn ,tiếng hát hay vinh quang tột bậc với những con chữ, thì sau tất cả , ai cũng giữ cho mình một đóa hoa hồng nhỏ bé trong trái tim. Đó là những ước vọng đời thường, những khát khao bình dị, những niềm yêu chân. Xuân Quỳnh cũng là người phụ nữ như thế. Chị ngay từ những buổi đầu của thơ ca đã chạm vào thơ ca bằng đôi bàn tay kì diệu của một trái tim hồn hậu yêu thương. Ở đôi bàn tay ấy có một đóa hoa ngâu vàng đang nở rộ trong tiếng đàn của anh . Đông đầy nơi ấy là tiếng “À ơi …cái ngủ đang về cùng con”. Nhưng đi giữa tình yêu người ta vẫn thấy thấp thoáng đâu đó một nỗi nhớ, lo sợ và phấp phỏng. “Lời yêu mỏng manh như màu khói? Ai biết tình ai có đổi thay ?” (Hoa cỏ may).

Để các dòng thơ của chị lại tạo thành dòng mạch ngầm êm đềm len lỏi trong tâm hồn. Chúng âm ỉ nỗi đau của một người phụ nữ đã từng trải qua mất mát đau thương của cuộc đời. Nhưng vẫn thường trực đâu đó trong mạch ngầm ấy là một niềm tin mãnh liệt vào tình yêu .Mang trong mình khát vọng tình yêu của Xuân Quỳnh nên “Sóng” đã được chị ưu ái đặt và nở rộ giữa rừng hoa chiến tuyến trong tập thơ “Hoa  dọc chiến hào” (1967). Tập thơ này chị viết nhiều về đất nước. Có lẽ vì suốt tập thơ ấy, Xuân Quỳnh chỉ dành duy nhất góc nhỏ này cho tình yêu nên “Sóng “ đã tu hội trong nó tất cả những gì là đặc trưng nhất của thơ chị: vừa hiện đại vừa truyền thống, lúc cuộn xoáy khát khao, lúc dâng trào mãnh liệt, lúc trầm ấm thiết tha, lúc thâm trầm nghĩ ngợi. “Sóng” ấy trong hai khổ thơ cuối, sau một đoạn đường dài trải nghiệm về tình yêu lại trầm tư trong  những nỗi lo âu thường trực, trong những triết lý tình yêu vĩnh hằng.

Trong thơ có một ngưỡng cửa mà bất kì ai cũng phải vượt qua nếu muốn trở thành thi nhân chân chính:  sự thành thật. Nhiều người mới bước vào thi đàn thơ ca lại cứ quen lối chau chuốt ngôn từ hay cường điệu tình cảm. Chau chuốt quá hóa sáo mòn, cường điệu lắm thành ra giả tạo. Xuận Quỳnh không thế. Chị xem mình là người phụ nữ bình thường và chị cho phép mình  giải bày nỗi niềm lo âu trước sự mong manh của tình yêu vào hình tượng sóng độc đáo mà không khoa trương :

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa.”

Đứng trước biển, đứng trước sự vô hồn, vô tận của biển cả, sự vô thủy, vô chung của thời gian, con người lại rợn ngợp và đầy nỗi lo. Xuân Quỳnh trước biển lớn lại như óng chơi vơi đầy nỗi niềm. Có lẽ thế nên giọng thơ của chị quãng này chùng xuống , lắng đọng đầy chiêm nghiệm. “Cuộc đời” vì vậy cất lên ngay đầu câu như một tiếng thở dài . Bởi bản thân nó đang gánh trên vai tình yêu, sự sống và niềm tin. Nhưng thời gian vẫn thế, vẫn nhẹ nhàng lả lướt đi trên từng bước nhịp cuộc đời để lại những vấn vương riêng tư thời đại. Người xưa đứng trước sự chảy trôi ấy vẫn giữ cho mình một trái tim an nhiên tự tại để sống trọn một đời để rồi chết đi lại về với đất trời:

“Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao.”

(Nguyễn Bỉnh Khiêm).

Ta sẽ bỗng có cảm tưởng như thể thời gian vẫn cứ tuần hoàn theo tháng năm như cái bản chất vốn có của nó. Nhịp thơ ấy khi đến với mặt biển rộng của Thơ Mới lại như chuyển dòng vòng giữa những khúc quanh đầy ám ảnh của chia ly mất mát. Xuân Diệu nhạy cảm nhận ra: “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi ”để rồi tiếng thơ ông vang lên như một cơn lũ cảm xúc,hối hả cuốn theo tất cả sự đắm say trước vẻ đẹp thời gian trong bước nhịp dồn dập của cuộc đời. Xuân Quỳnh giữa thời gian lại như cánh chuồn chuồn bơ vơi tìm cho tình yêu chỗ nương thân trong nắng nôi dông bão của cuộc đời.

Phải chăng thời tgian đã thực sự đã bào mòn cái mầm sống le lói của tình yêu để nó trở nên hữu hạn? Bởi lẽ bi kịch của tình yêu không phải là cái chết hay sự chia ly mà là sự lãnh đạm đi qua đời nhau ? Cặp quan hệ từ chỉ y nhượng bộ “tuy…vẫn”, “dẫu…vẫn…” tiếp nối sau đó đã thể hiện sự trăn trở của con người trước sự hữu hạn ấy của cuộc đời. Vì đời người tuy dài đến cả trăm năm thì theo năm tháng, tất cả rồi sẽ đi qua. Biển kia cũng vậy. Nó tuy rộng nhưng không phải vô tận nên chẳng thể giữ mây ở lại vĩnh viễn.

Vũ trụ thì bao la nhưng con người lại nhỏ bé quá. Đời người thì ngắn ngủi nhưng khát vọng tình yêu của con người lại quá to lớn. Con người trước những nghịch lý ấy lại chỉ là một thân phận phù du ôm mộng tình yêu vĩnh hằng, hạnh phúc muôn đời. Và vì vậy con người luôn lo lắng, sợ hãi trước sự phôi phai của tình yêu . Mang trong mình những sự sợ sệt cố hữu nên con người càng gan dạ để sẵn sàng vượt qua mọi thử thách của thời gian để vì nhau và cùng nhau tìm kiếm hạnh phúc chân thực.

Không gian và thời gian tuy từng trở đi trở lại trong thơ Xuân Quỳnh như  một nỗi ám ảnh về tình yêu phai nhạt lại trở về trong “Sóng” như một động lực, một nguồn sức mạnh để hun đúc cho người sự mạnh mẽ để hành động và sống vì tình yêu của mình. Chính “Sóng” đã đưa tình yêu “Trở về đúng nghĩa trái tim em/ Biết khát khao những điều mơ ước. Biết xúc động qua nhiều nhận thức/ Biết yêu anh và biết được anh yêu.” (Tự Hát). Và cũng để chén rượu thơ của Xuân Quỳnh rót ra trên bề mặt chữ sớm gặp những nỗi lòng tri âm của thế hệ – những người vẫn mang khát vọng yêu thương và sẻ chia.

Phan Thị Thanh Nhàn trong những vần thơ của mình đã rót vào thành trì yêu thương những giọt buồn: “Nếu anh đi với người yêu/ Chỉ mong anh nhớ một điều nhỏ thôi/ Nếu cùng người mới dạo chơi/ Xin anh tránh những nẻo đường vui ban đầu “. Xuân Quỳnh không vậy. Sóng trong thơ chị vẫn là người con gái vị tha và mạnh mẽ trước giông tố cuộc đời. Chị đã hóa thân vào sóng để bày tỏ khát vọng được vươn mình ra sự vĩnh hằng của tình yêu :

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giua biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.”

Vẫn là một Xuân Quỳnh “Bao ngày tháng đi về trên mái tóc/ Chỉ có em là đã khác em thôi.”, hay lo sợ về cái mong manh , ngắn ngủi của đời người. Câu hỏi “làm sao” cùng kết cấu “làm sao…được thành…” đã bộc lộ khát vọng đau đáu đến khắc khoải của nhà thơ. Làm sao để tình yêu như cánh phượng tồn tại mãi trong lưu bút tâm hồn? Làm sao được hòa mình vào tình yêu? Làm sao để tìm kiếm tình yêu đích thực giữa muôn ngàn khuôn mặt từa tựa nhau? Tất cả những câu hỏi đó vẫn thường trực, trăn trở trong nỗi lòng của Xuân Quỳnh. Chị nghĩ mình là con sóng trong lòng biển, lại thấy lo âu về sự tàn phai của tình yêu. Kì thực trong nỗi lo đầy nhân tính ấy. chị càng tin vào tình yêu , cháy bỏng để hòa mình vào sóng. “Được tan ra” chính là sự từ bỏ của chính chị- một cái tôi ích kỷ để hoàn toàn hòa nhập vào đại dương.

Và khi tâm hồn chị tan trong khát vọng, mọi suy nghĩ và tình cảm đều tan thành “trăm con sóng nhỏ” để hướng đến bờ yêu. “Tan” ở đây là sự dâng hiến hòa mình. Đó không phải là một tham vọng chiếm hữu. Bởi chị không có ý muốn vươn đến cái cực hạn. Mà điều chị mong là sự vô hạn giữa biển lớn . Để từ đó , từ một thân phận bé nhỏ của một con sóng vẫn ráo riết rong ruổi “tìm ra tận bể” , nhìn về biển lớn với vẻ ngây ngô “Từ nơi nào sóng lên?”, vẫn chực chờ bao nỗi ám ảnh trước thời gian chảy trôi, sóng cuối cùng vẫn có thể tự nở thành những đóa hoa tình yêu bất tử giữa biển khơi.

Chúng ta vẫn thường hay lo sợ về tình yêu. Chúng ta luôn đòi hỏi tình yêu sự hồi đáp. Nhưng có lẽ chúng ta chưa bao giờ tự hỏi và tự nhắc nhở bản thân về trách nhiệm của mình với tình yêu, về hành động của mình với tình yêu. Vì vậy Xuân Quỳnh đã thay lời “Sóng” để giúp con người nhận ra rằng chỉ có sống và yêu hết mình thì tình yêu mới đủ sức mạnh để vượt qua sự băng hoại của thời gian để chạm khắc vào thành trì thời gian những nét bút rực lửa của một tình yêu đẹp  và vĩnh cửu. Chính phút giây ấy, giây phút mà sóng tìm được cho mình một lối sống phù hợp trước thời gian ây thì sóng không còn là những con sóng xa tít biển khơi mà nó đã trở thành em, trở thành nỗi lòng muôn thế hệ.

Sóng không bao giờ lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ. Và sóng sau một đoạn hành trình dài biến hóa qua biết bao hồn thơ và tình thơ thì nó lại trở về cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng vẫn khao khát yêu và được yêu trong thơ Xuân Quỳnh. Việc sử dụng hình tượng “Sóng” vì vậy không mới. Tuy nhiên, “Sóng” của Xuân Quỳnh vẫn giữ được một góc riêng vì lời của sóng là lời tâm sự đầy tha thiết, đầy suy tư về những triết lý tình yêu nhưng từ ngữ lại hết sức giản dị.

Xuân Quỳnh đã phát hiện những quy luật của sóng ở đại dương và đồng nhất chúng với quy luật tình yêu. Chị vừa thổ lộ trực tiếp những nguy nghĩa vừa mượn hình tượng Sóng để thể hiện quy luật rằng : Tựa như sóng vẫn cứ vỗ bờ mãi ngàn năm không biết mệt mỏi thì tình yêu sẽ vĩnh cửu khi con người chân thành và hết mình vì nó. Xuân Quỳnh đã từ bỏ cái tôi chật hẹp đầy riêng tư để tìm đến một tình yêu bao la rộng lớn muôn đời. (Bởi lẽ chị đã vượt qua cái gọi là hiện đại hay truyền thống mà người ta vẫn thường gán cho thơ chị, thật sự đến với tình yêu và “Sóng” bằng hai chữ “chân thành”. Chính vì thế chị yêu như đúng nghĩa một tình yêu mãnh liệt  và chị lo lắng như nỗi lo muôn đời của con người. Trong chị không có dấu vết của lễ giáo gia phong của những quan niệm khép mình của Phương Đông xưa, cũng không có cái tự do và táo bạo nhiều đên thiếu đi phần nữ tính của phương Tây hiện đại. Mà điều còn lại trong thơ chị, tồn tại ở nơi đây, vĩnh hằng trong sóng muôn đời là một tình yêu của một người phụ nữ hiện đại với tất cả tâm tình chảy ra từ suối nguồn vô tận của thương yêu )

Nếu những năm tháng sau này chúng ta trầm tư với những lời thơ cảu Xuân Quỳnh trong triết lý tình yêu vĩnh cửu của chi thì trước đây đã từng có một nhà thơ dùng lời thơ để gửi gắm triết lý sống đúng đắn trước thời gian. Đó là Xuân Diệu với triết lý sống “Vội vàng” trong bài thơ cùng tên

“Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái  hôn nhiều
Và non nước,và cây và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùa thơm , cho đã đầy ánh sáng.
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
-Hỡi xuân hồng , ta muốn cắn vào ngươi.”

Đã có năm lần cụm từ “ta muốn” nhấn xuống bề mặt thơ. Đã có lúc đại từ “tôi” chuyển thành đại từ “ta” . Và đã có khi ông cuống quýt cùng với bướm, mây ,… Trái tim ông tràn đầy nhựa sống. Và ông gửi gắm vào thơ. Những vần thơ vì vậy như hồn Xuân Diệu muốn mở ra, như tay Xuân Diệu muốn chìa ra ôm lấy, như  tấm lòng của Xuân Diệu muốn gửi gắm đến bạn đọc một triết lý sống: triết lý vội vàng.Bởi Xuân Diệu từng lo lắng: “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua/ Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”. Và ông tiếc nuối: “Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật/ Không cho dài thời trẻ của nhân gian”. Vì vậy ông luôn vội vã “Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm”.

Lòng ham sống và sự say mê cuồng nhiệt với mùa xuân và tuổi trẻ đã tạo cho Xuân Diệu một động lực lớn lao để sống thật trọn vẹn, để sống cống hiến hết mình cho cuộc đời. Và triết lý sống ấy đến với người đọc đã tạo nên một niềm tin để con người vượt qua những thử thách, những lúc yếu đuối, nản chí để tiếp tục theo đuổi đam mê để tuổi trẻ trôi qua không lãng phí. Người ta gọi thơ Xuân Diệu là “nguồn sống dào dạt chưa từng có ở chốn non nước lặng lẽ này” chính là vì Xuân Diệu đã gọi dậy được lòng ham sống, thôi thúc được trong người đọc sự vội vàng để tạo nên những phút giây ý nghĩa.

Chế Lan Viên đã từng nói rằng: “Những ngày tôi đang sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả/ Dù mai sau đời muôn vạn lần hơn”. Đúng là thế, bởi lẽ dù là ngày trời xanh nắng đẹp hay ngày mây mù âm u thì chúng ta sẽ không có cơ hội nhìn thấy bầu trời chính xác như thế này lần nữa. Hiểu được và từng đau đớn, lo âu vì sự nhanh vội của thời gian, cả Xuân Quỳnh và Xuân Diệu đã gặp nhau trong triết lý thời gian tuyến tính. Với họ, thời gian không tuần hoàn. Thời gian sẽ trôi đi và không bao giờ trở lại. Và nếu con người không hành động, con người sẽ bỏ lỡ. Vì vậy cả bài thơ đã truyền cho con người khát vọng sống tích cực và mãnh liệt để tận hưởng, tận hiến những gì đẹp đẽ nhất cho cuộc đời.

Tuy nhiên mỗi bài thơ lại mang những khát khao hướng đến những điều thân thương khác nhau. Nếu “Sóng” là khát vọng của người phụ nữ trong tình yêu, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người để sống mãi với tình yêu lớn của mình thì “Vội vàng” lại thể hiện khát khao được sống hối hả, cuồng nhiệt như một cách khắc phục giới hạn đời người trong dòng chảy thời gian. Nhưng giữa những khát vọng riêng tư ấy, điểm khác biệt lớn lao nhất là cách mà cả hai nhà thơ hành động vì khát khao của mình. Với Xuân Quỳnh, chị ước vọng được tan mình trong tình yêu và tình cảm lớn lao để bất tử hóa tình yêu. Với Xuân Diệu, ông lại say riết, ôm xiết với những gì ông yêu thương.

Ở Xuân Diệu, người ta cảm nhận được cái tôi đầy ích kỷ để sống trọn vẹn vì bản thân với mảnh đất trần gian. Sự khác nhau ấy đến từ phong cách và trào lưu văn học của thời đại tác giả sinh sống. Thơ Xuân Quỳnh ra đời và lớn lên trong thời đại văn hóa phát triển theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước. Vì vậy, “Sóng” của thơ chị không chỉ mang thân phận của người con gái hết mình vì tình yêu mà còn gắn thân phận của mình với số mệnh đất nước. Tiếng lòng của thơ chị cũng là tiếng lòng của những nhà thơ cùng thời : “Anh yêu em như anh yêu đất nước” (Tố Hữu). “Trong anh và em hôm nay / Đều có một phần Đất Nước” (Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm).

Vì mỗi cá nhân đều có ảnh hưởng nhất định đến số phận của đất nước. Chúng ta, mỗi người cần “phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở / Làm nên Đất Nước muôn đời”. Âm hưởng sử thi ấy rõ ràng đã vọng vào bài thơ, đặc biệt là khổ thơ cuối, trong sự hòa nhập của tình yêu đôi lứa với “biển lớn tình yêu”- một tình yêu chung của cộng đồng rộng lớn: tình yêu đất nước. Cho nên trong “Sóng”, Xuân Quỳnh đã chọn sự cho đi để lưu giữ tình yêu vào cõi bất tử.

Nhưng “Vội vàng” của Xuân Diệu lại không vậy. Ông ra đời trong thời đại đề cao giá trị chữ tôi. Chữ “tôi” ấy cho phép và đòi hỏi ở mỗi ca nhân một cá tính,  một sự dũng cảm để đấu tranh cho quyền tự do yêu đương và bảo vệ chúng. Ở “Vội Vàng”, người ta cảm nhận được cái tôi ấy đầy mãnh liệt trong tình yêu vơi mùa xuân và tuổi trẻ. Và chinh vì yêu và cuồng si. Xuân Diệu tham lam và ích kỷ để cất giữa những điều tuyệt vời cho riêng mình. Vì vậy trong thơ Xuân Diệu luôn tồn tại sự níu kéo tuổi trẻ trong những cái “ôm”, “riết”, “thâu”, “say”, “cắn” vì với ông đó là các duy nhất để ông không tiếc nuối và day dứt trong việc bảo vệ điều mà ông yêu quý.

Hai nhà hai cách thức, hai lối viết khác nhau đều là những khúc ca đẹp về tuổi trẻ. Từ đó từng lời thơ cất lên như đưa giai điệu và lòng người để người đọc nâng niu và trân trọng những điều mình đang có, hạnh phúc mang mình đang sở hữu.

  • Kết bài:

Người nghệ sĩ nào bỗng một hôm cư ôm đàn ra vào ngẩn ngơ, điệu nhạc buôn ra theo tiếng thở dài và những nụ cười vụt đến rồi lại vụt đi. Bạn bè hỏi , anh ta mà khe khẽ : “Tôi đang nhớ nghĩa là tôi đang yêu” (cách diễn đạt của Decaster). Tình yêu và nỗi nhớ, nỗi lo âu là những đứa trẻ giống nhau, tình yêu đến và những nhung nhớ, những nỗi lo lại theo về. Tựa như lời của “Sóng” cất lên vẫn say đắm chảy hoài, chảy mãi cho tâm sự, cho khát vọng bất tử hóa tình yêu của con người. Tựa như lời Xuân Diệu rất nhiều năm về trước đầy tha thiết gửi gắm triết lý sống “Vội vàng” thôi thúc mãi cho con người thời xưa, thời nay, những năm tháng sau này và mãi mãi…

2 Trackbacks / Pingbacks

  1. Dàn bài: So sánh khát vọng sống mãnh liệt quả khổ thơ cuối bài thơ Sóng (Xuân Quỳnh) và Vội vàng (Xuân Diệu) - Theki.vn
  2. Tình yêu đất nước và tình yêu lứa đôi trong giai đoạn văn học 1945-1975 luôn đan xen hài hòa tạo nên tình yêu cao đẹp của con người Việt Nam. Qua đoạn thơ Đất Nước (Nguyễn Khoa Điềm) và bài thơ Só

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.