2 | Bàn luận: – Khoảnh khắc có vai trò, ý nghĩa rất lớn đối với cuộc đời mỗi người: + Cuộc đời mỗi người là sự tiếp nối của rất nhiều khoảnh khắc. Đó là những mảnh ghép cho cuộc sống, dù vui hay buồn, theo năm tháng sẽ tạo nên bức tranh phong phú, muôn màu của cuộc đời con người. + Mỗi khoảnh khắc sống có ý nghĩa sẽ tạo nên một cuộc đời ý nghĩa. Một cuộc đời có ý nghĩa sẽ có nhiều khoảnh khắc có giá trị, đáng trân trọng. + Trong cuộc đời mỗi người, có những khoảnh khắc làm nên giá trị cuộc sống, quyết định số phận con người; cũng có những khoảnh khắc tẻ nhạt, trôi qua vô nghĩa thậm chí có những khoảnh khắc đẩy con người vào số phận bi kịch… Vì cuộc sống không bao giờ hoàn hảo tuyệt đối. Cuộc sống thực sự là một chuỗi khoảnh khắc vui- buồn, thành công – thất bại, đan xen, kết hợp với nhau. – Làm thế nào để tận hưởng từng khoảnh khắc trọn vẹn của cuộc đời. Bạn hãy tập trung vào hiện tại và niềm vui, hạnh phúc của ngày hôm nay để cuộc đời mình không bị trôi qua vô ích. Khoảnh khắc của hiện tại là khoảng thời gian quý giá, giàu ý nghĩa. Khi sống tích cực với hiện tại chúng ta sẽ được kế thừa quá khứ, hiện thực hóa ước mơ, chuẩn bị cho tương lai. Đừng chờ đợi mà hãy sống hết mình cho mỗi phút giây hiện tại để tìm được hạnh phúc đích thực. – Phê phán những người lãng phí từng khoảnh khắc của cuộc đời để thời gian trôi qua vô nghĩa. | 0,5 0,5 0,5 0,5 0,5 |
– | – Sáng tạo ra thế giới: + Thế giới chính là thực tế của thời đại được nhà văn phản ánh trong tác phẩm dựa trên nền tảng sự thật của hiện thực đời sống, thể hiện tư tưởng thẩm mĩ cũng như phong cách nghệ thuật của nhà văn. ⇒ Sáng tạo ra thế giới: là cách nhìn, cách cảm nhận riêng của nhà văn về hiện thực đời sống với những khám phá, phát hiện, khơi dậy những điều mới mẻ, tiềm ẩn trong hiện thực đời sống. Thế giới ấy vừa mang dấu ấn hiện thực nhưng lại chưa có bao giờ để phản ánh sâu sắc thực tế thời đại và con người. – Kiến tạo gương mặt mình: từ sự trải nghiệm hiện thực, nhà văn chắt lọc được những điều quý giá, đẹp đẽ của cuộc đời và con người để hoàn thiện bản thân. Đồng thời tạo ra nét khác biệt, dấu ấn riêng, cá tính sáng tạo trên trang văn của mình. – Quá trình kép: hai hoạt động song song, không tách rời, bổ sung, nâng đỡ nhau: khi tạo ra thế giới mới mẻ từ cách nhìn cách cảm của mình thì đồng thời nhà văn cũng thể hiện rõ cá tính sáng tạo, phong cách riêng trong cách phản ánh hiện thực để bộc lộ tư tưởng quan điểm nghệ thuật của mình. Chính phong cách độc đáo của tác giả khiến cho “ thế giới mới vừa được tạo lập” trở nên cuốn hút đặc biệt ⇒ Ý kiến trên nhấn mạnh bản chất của sáng tạo nghệ thuật và yêu cầu đối với người nghệ sĩ: nhà văn vừa tìm tòi, sáng tạo cái mới, cái chưa từng có trong phản ánh hiện thực, vừa hoàn thiện bản thân và tạo nên phong cách nghệ thuật của riêng mình. | 0,25 0,25 0,25 0,25 |
| – Văn học bắt nguồn từ đời sống, phản ánh hiện thực đời sống nhưng không phản ánh đơn thuần, không sao chép nguyên bản “ những điều trông thấy” mà còn thể hiện tình cảm của người nghệ sĩ trước cuộc đời. Vì thế giới nghệ thuật gắn liền với hoạt động nhận thức, tư tưởng, từ ấn tượng tới cảm xúc. Người nghệ sĩ quan sát rồi ghi lại dấu ấn chủ quan, nhào nặn, tái tạo hiện thực theo quy luật của cái đẹp, in dấu xúc cảm thẩm mỹ của mình. Văn học là sự thật ở đời nhưng chỉ được phơi bày qua lăng kính chủ quan của người nghệ sĩ. Bằng năng lực sáng tạo và độ nhạy bén tinh tế, nhà văn sẽ tạo lập cho mình một thế giới riêng và thế giới ấy là hiện thực được phản chiếu qua ánh sáng tư tưởng của nhà văn. – Trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, người nghệ sĩ không chỉ phản ánh, tái hiện cuộc sống, nêu lên những hiểu biết về thế giới, nhận thức thế giới mà còn bày tỏ thái độ chủ quan của mình, nói lên ước mơ, khát vọng của mình về thế giới, về cuộc sống. Những ưu tư day dứt về cuộc đời, con người sẽ khiến nhà văn càng thêm đầy đủ trong nhận thức về thế giới và đôi mắt sẽ luôn hướng về con người với bao niềm yêu thương và tin tưởng, nhà văn mới dần trở nên hoàn thiện mình, lấp đầy những thiếu xót và bồi dưỡng cho tâm hồn thêm trong sáng và thuần khiết. Đồng thời, nhà văn phản ánh hiện thực bằng cách thức riêng, tạo cho mình dấu ấn không thể trộn lẫn- phong cách riêng, độc đáo. Trong quá trình lao động nghệ thuật, nhà văn chân chính luôn có ý thức tạo ra cho mình một dấu ấn riêng .Văn chương là bản ngã, là cái tôi, là tài năng và tâm hồn người cầm bút. | 0,5 0,5 |
| a. Cảm nhận tác phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam – Vài nét về tác giả Thạch lam và truyện ngắn Hai đứa trẻ . – Hai đứa trẻ “bắt rễ ở cuộc sống hàng ngày của con người” + Hiện thực xã hội đương thời được Thạch Lam phản ánh trong “Hai đứa trẻ” là cảnh đời đơn điệu, hắt hiu ở một phố huyện nhỏ, nghèo nàn, xa xôi hẻo lánh lúc chập choạng tối và khi đêm về. Với những nhân vật bé nhỏ; cử chỉ lặng lẽ, chậm chạp, nói năng kiệm lời và giọng thấp như hòa lẫn hơi thở dài. Tất cả đều vô vọng, bế tắc. Đó là: “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất, đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh mẩu nứa, thanh tre, hay bất kỳ cái gì có thể dùng được của người bán hàng để lại..”; là chị Tý ban ngày mò cua bắt tép, tối đến ra đường dựng cái hàng chè tươi, lèo tèo leo lét ngọn đèn dầu “ chả kiếm được bao nhiêu, nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng từ chập tối cho đến đêm…”, một gánh hàng phở rong ế khách và một đám hát xẩm còn ế hơn. “Gia đình bác xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau trắng để ở trước mặt, nhưng bác chưa hát vì chưa có khách (…) vợ chồng bác xẩm góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng. Thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát ven đường.” Họ ở vị trí tiền cảnh của bức tranh đời buồn thảm, mờ mờ lay động. – Trái hẳn với những nhân vật như: chị Tý, vợ chồng bác xẩm…Liên – An còn ý thức được nỗi đau số kiếp, còn có một khát khao thay đổi. Chị em: “Liên và em cố thức vì cớ khác, vì muốn được nhìn chuyến tàu”, được nhìn thấy toa đèn sang trưng và đoàn tàu chạy về phía ánh sáng phố phường, nghĩa là ánh sáng văn minh.Tuy nhiên, đó chỉ là niềm vui ngắn ngủi và sự buồn tẻ lại lấp tràn cái “ cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu” của chị em Liên. Hiện thực xã hội đương thời là vậy. ⇒ Tác phẩm “Hai đứa trẻ” là bức tranh hiện thực về cuộc sống tù đọng, tối tăm của xã hội Việt Nam trước CMT8- 1945. Một bức tranh được vẽ bằng những gam màu u tối, nhợt nhạt. Ánh sáng chỉ le lói, yếu ớt. Họa vào đó là những âm thanh nhỏ nhoi, uể oải, chậm chạp, mệt mỏi. Những con người tàn tạ, nghèo nàn, khốn khổ sống đơn điệu, quẩn quanh tẻ nhạt… + Tác phẩm phản ánh được những vấn đề tồn tại của hiện thực đời sống. Nhưng tác giả không sao chép thực tế một cách cứng nhắc mà gửi gắm vào đó nhiều điều mới mẻ, sâu sắc. Điều mà tác giả muốn gửi đến độc giả chính là cuộc sống nghèo khó nhưng đầy tình người và khát vọng của những người dân nơi một phố huyện trước Cách mạng tháng Tám. Thạch Lam thể hiện niềm trân trọng thương xót đối với những kiếp người nhỏ bé, sống trong hoàn cảnh nghèo nàn, tăm tối, buồn chán nơi phố huyện; trân trọng, đồng cảm với những khoảnh khắc đẹp, những tâm hồn chưa hẳn đã lụi tàn, những cuộc đời đang cố gắng sống và hi vọng vào một tương lai tốt đẹp, tươi sáng hơn. Thạch Lam dường như còn muốn lay tỉnh những tâm hồn đang buồn chán, đang sống quẩn quanh, lam lũ hay cố vươn tới ánh sáng ? – Quá trình sáng tạo là một hành trình song song, cuộc đời đã được thể hiện qua cái nhìn của nhà văn chất chưa bao duy tư, trăn trở của một tấm lòng yêu thương con người và chính những ưu tư day dứt về cuộc đời con người ấy nhà văn mới dần trở nên hoàn thiện mình, lấp đầy những thiếu xót và bồi dưỡng cho tâm hồn thêm trong sáng và thuần khiết. Nhà văn càng thêm đầy đủ trong nhận thức về thế giới và đôi mắt sẽ luôn hướng về con người với bao niềm yêu thương và tin tưởng. Sau tác phẩm không riêng độc giả vươn đến giá trị chân – thiện – mỹ mà nhà văn, người sáng tạo cũng dần hoàn thiện bản thân hơn. – Đồng thời, truyện khẳng định một phong cách độc đáo của Thạch Lam: giàu chất thơ. Truyện thể hiện một lối kết cấu độc đáo, truyện không có chuyện, không có mâu thuẫn, xung đột, chỉ là những chi tiết, hình ảnh khơi gợi cảm giác, suy tư trăn trở về những kiếp người sống tàn tạ, lay lắt nơi ga xép, phố huyện nghèo nàn. Truyện đi sâu vào miêu tả tâm lý, tâm trạng nhân vật với những biểu hiện cảm xúc vi tế, mơ hồ mà có sức lay động tâm hồn sâu sắc. Giọng điệu trữ tình, nhẹ nhàng, câu văn mang đậm chất thơ, diễn tả được nhiều sắc thái tâm trạng nhân vật. b. Liên hệ với “Chuyện chức Phán sự đền Tản Viên” của Nguyễn Dữ – Nguễn Dữ phơi bày hiện thực xã hội mà ông đang sống – đầu thế kỉ XVI với nhiều bất công ngang trái: kẻ ác lộng hành, được hưởng an nhàn, sung sướng, người hiền phải chịu nhiều oan khuất, sống khổ cực; quan lại tham lam của đút, người đại diện cho pháp luật bị lấp tai, che mắt. Đó chính là hiện thực hết sức bất ổn được Nguyễn Dữ phản ánh trong tác phẩm. – Qua hiện thực được phản ánh Nguyễn Dữ gửi gắm nhiều tư tưởng, quan điểm sâu sắc: đề cao tinh thần khảng khái, cương trực, dám đấu tranh chống lại cái ác trừ hại cho dân của, một trí thức yêu chính nghĩa, dũng cảm, cương trực, dám đấu tranh. Truyện thể hiện khát vọng công lí, niềm tin công lí, chính nghĩa nhất định sẽ chiến thắng. Tác phẩm cũng là lời kêu gọi của tác giả, mọi người hãy đứng lên để cùng đấu tranh tiêu diệt cái xấu, cái ác, bảo vệ công lí, chính nghĩa. – Chuyện chức phán sự đền Tản Viên của Nguyễn Dữ là một tác phẩm nghệ thuật mà ở đó hiện thực cuộc sống được phản ánh theo cách riêng của thể loại truyền kì và tài năng của người nghệ sĩ. Chuyện chức phán sự đền Tản Viên tiêu biểu cho đặc trưng thể loại truyền kì với tính chất kì ảo, phản ánh đúng tinh thần chung của Nguyễn Dữ trong cuốn Truyền kì mạn lục là lấy cái “kì” để nói cái “thực”. Kì ảo là phương thức đặc biệt chuyên chở nội dung và cảm hứng hiện thực làm cho câu chuyện sinh động hấp dẫn, tạo dấu ấn riêng cho trang văn Nguyễn Dữ. | 4.0
0,5
2.01.52.5 1.0 0.5 1.0 |