NGƯỜI THẦY ĐẦU TIÊN
(Ai-ma-tốp)
Ngày hôm sau đến trường, tôi nhận thấy ngay thầy Đuy-sen vẻ mặt sa sầm, như đang có điều gì lo nghĩ, mặc dầu thầy cố giấu đi. Tôi còn nhận thấy có điều nữa là không hiểu tại sao thầy không hề nhìn về phía tôi. Sau buổi học, khi chúng tôi ào ào chạy ra khỏi trường như ong vỡ tổ, thầy Đuy-sen gọi giật tôi lại:
– An-tư-nai, đứng lại thầy bảo. – Thầy bước lại gần tôi, nhìn chằm chằm vào mắt rồi đặt tay lên vai tôi – Em đừng về nhà nữa. An-tư-nai, em có hiểu thầy không?
Tôi lặng người đi vì kinh hãi. Bây giờ, tôi mới hiểu thím tôi định làm gì tôi.
Thầy Đuy-sen nói:
– Thầy sẽ chịu trách nhiệm về em. Em ở tạm nhà bác Ka-tan-bai (Kartanbai) với thầy. Và lúc nào cũng phải đi theo thầy.
Chắc hẳn lúc ấy tôi không còn chút máu mặt nào nữa. Thầy Đuy-sen lấy tay nâng cằm tôi lên, nhìn thẳng vào mắt tôi và mỉm cười như mọi khi:
– An-tư-nai, em đừng sợ! – Thầy vừa cười vừa nói – Thầy còn ở bên em, thì em không phải sợ ai cả. Em cứ học đi, cứ đến trường như cũ và đừng nghĩ ngợi gì… Vì thầy vẫn biết là em nhát lắm.
[…] Dù tôi có cố gắng can đảm lên bao nhiêu cho thầy Đuy-sen khỏi bận tâm, những ý nghĩ lo sợ cũng vẫn không buông tha tôi. Vì bất thần lúc nào thím tôi cũng có thể đến cưỡng bức lôi tôi đi. Rồi ở nhà họ muốn làm gì thì làm, không ai ở trong làng cấm được họ cả. Suốt đêm, tôi trằn trọc không ngủ được vì mải lo nghĩ tới tai họa sắp đến.
Tất nhiên thầy Đuy-sen hiểu rõ tâm trạng tôi. Cũng có thể vì muốn xua đuổi những ý nghĩ đen tối đó của tôi nên ngày hôm sau thầy mang về trường hai cây phong nhỏ. Sau buổi học, thầy cầm tay tôi dẫn sang một bên. Thầy mỉm cười một nụ cười bí ẩn và bảo tôi:
– An-tư-nai, bây giờ thầy với em cùng làm chung một việc. Hai cây phong này thầy mang về cho em đấy. Chúng ta sẽ cùng trồng. Và trong khi chúng lớn lên, em sẽ là một người tốt. Em có một tâm hồn đẹp và một đầu óc ham học. Thầy bao giờ cũng nghĩ rằng em sẽ trở thành người thông thái. Thầy tin như vậy, em ạ, số phận em nhất định sẽ như thế. em bây giờ trẻ măng như một thân cây non, như đôi cây phong nhỏ này. An-tư-nai ạ, ta sẽ tự tay trồng lấy hai cây phong này. Và mong sao em sẽ tìm thấy hạnh phúc trong học tập, ngôi sao nhỏ trong sáng của thầy ạ…
Hai cây phong ấy còn non, vừa cao bằng người tôi, thân biêng biếc. Và khi hai chúng tôi đã trồng xuống khoảnh đất cạnh trường, từ chân núi đưa lên một làn gió nhẹ, lần đầu tiên chạm vào những khóm lá bé lăn tăn như thổi một luồng sinh khí vào chúng. Mấy khóm lá run rẩy, hai cây phong bắt đầu lay động, đung đưa…
– Em trông, đẹp chưa kìa! – Thầy Đuy-sen cười, lùi lại ngắm – Bây giờ ta hãy đào một đường dẫn nước ở ngọn suối đằng kia về. Rồi em sẽ thấy hai cây phong của chúng ta đẹp đến nhường nào! Chúng nó sẽ đứng trên ngọn đồi này, sát cánh nhau như hai anh em. Và mọi người sẽ luôn luôn nhìn thấy chúng và những người lành sẽ thấy lòng vui lên khi nhìn thấy chúng. Đến khi ấy cả cuộc sống cũng sẽ khác, An-tư-nai ạ. Tất cả những gì đẹp nhất đều hãy còn ở phía trước…
Ngay cả bây giờ tôi cũng không sao tìm được những lời lẽ có thể nói lên ít nhiều lòng cảm kích của tôi trước tâm hồn cao thượng của thầy Đuy-sen. Còn khi ấy, tôi chỉ đứng yên nhìn thấy. Tôi nhìn như thể lần đầu tiên tôi được thấy hết vẻ đẹp sáng ngời trên gương mặt thầy, tấm lòng trìu mến và trung hậu ánh lên trong đôi mắt thầy, dường như trước kia tôi chưa từng biết đôi bàn tay của thầy mạnh mẽ và khéo léo như thế nào trong lao động, nụ cười trong sáng của thầy có sức sưởi ấm lòng người đến nhường nào. Và trong lòng tôi, như một đợt sóng nồng nàn, bỗng cuộn lên một tình cảm mới mẻ mà tôi chưa hề biết, từ một thế giới xa lạ nào lan tới. [….]
Lúc ấy, chúng tôi chỉ đứng yên dưới vòm trời trong sáng giữa vùng đồi xuân xanh mơn mởn, mỗi người theo đuổi một ước mơ riêng. Và giờ phút ấy, tôi quên bẵng mối nguy cơ đang lơ lửng trên đời tôi. Thậm chí tôi cũng không hề nghĩ xem ngày mai đây cái gì đang chờ đợi tôi và cũng không nghĩ xem tại sao đã hai ngày nay thím tôi không đi tìm tôi. Có lẽ họ đã quên tôi chăng, hay họ đã đành chịu để mặc tôi? Nhưng thật ra thầy Đuy-sen lại đang nghĩ đến điều đó.
– Em đừng buồn, An-tư-nai a, ta sẽ tìm ra lối thoát. — Thầy Đuy-sen nói khi chúng tôi trở về thôn – Ngày kia, thầy sẽ lên huyện. Thầy sẽ bàn việc của em với các đồng chí trên ấy. Có lẽ họ sẽ nghe thầy mà cho em lên tỉnh học. Em có muốn không?
– Thầy đã nói sao, em cũng xin vâng lời. – Tôi đáp.
[…] Và hôm sau, trong khi ngồi học, tôi cũng chỉ nghĩ đến việc ấy: Tôi sẽ sống ở tỉnh ra sao và biết ở nhà ai? Nếu có ai cho tôi ở nhờ, tôi sẽ bổ củi, xách nước, giặt giũ, họ sai gì tôi cũng làm. Tôi đang suy nghĩ liên miên như thế trong lúc ngồi học thì bỗng giật mình thảng thốt khi chợt nghe tiếng vó ngựa dồn dập sau mấy bức vách ọp ẹp của ngôi trường chúng tôi. Những tiếng động ấy đột ngột quá và mấy con ngựa phi nhanh quá, đến nỗi tưởng như chúng sắp xéo bừa lên ngôi trường. Chúng tôi ai nấy đều nín thở, chờ đợi.
– Các em đừng để ý, cứ lo việc của các em đi. – Thầy Đuy-sen nói nhanh.
Nhưng lúc ấy cánh cửa bỗng mở toang nghe đánh sầm một tiếng và trên ngưỡng cửa, thím tôi hiện ra, trên môi nụ cười hả hê nanh ác, đầy vẻ thách thức. Thầy Đuy-sen bước ra cửa.
– Bà đến có việc gì?
– Đến có việc chẳng dính dáng gì đến mày. Tao đem con tao đi gả chồng. Ê! Cái con cầu bơ cầu bất kia! – Thím chồm về phía tôi, nhưng thầy Đuy-sen đã chặn lối.
– Ở đây toàn là nữ sinh cả, chưa có em nào gả chồng được! – Thầy nói, giọng rắn rỏi và điềm tĩnh.
– Để rồi xem. Ê! Bọn đàn ông! Bắt lấy con chó chết ấy, lôi nó ra!
Thím tôi giơ tay vẫy một tên trong bọn cưỡi ngựa. Đó chính là cái lão mặt đỏ đội mũ da cáo. Thêm hai tên nữa cầm những chiếc gậy nặng vót nhọn xuống ngựa theo sau lão ta. Tên mặt đỏ xông vào thầy Đuy-sen như một con gấu.
[…] Nhưng thầy Đuy-sen đã nhanh tay hơn hẳn. Thầy giơ chân đạp mạnh vào bụng hắn. Hắn kêu lên một tiếng và ngã xuống. Ngay lúc ấy, hai tên cầm gậy nhọn xông vào. Lũ trẻ con kêu rú lên và chạy bổ về phía tôi. Cánh cửa bị xô mạnh vỡ ra từng mảnh. Tôi lao vào đám đánh nhau, lôi theo cả lũ trẻ đang bíu vào người tôi.
– Buông thầy giáo ra! Không được đánh! Tôi đây, bắt tôi đi chứ không được đánh thầy giáo!
Thầy Đuy-sen quay lại nhìn. Mình mẩy thầy máu me bê bết, vẻ căm giận trông rất khủng khiếp. Thầy cúi xuống đất lấy một tấm ván khoa lên, quát:
– Chạy đi các em, chạy về làng! An-tư-nai, chạy đi! — Tiếng kêu của thầy nghẹn ngào thành tiếng nấc.
Chúng nó đã đánh gãy tay thầy Đuy-sen; thầy ép cánh tay vào ngực, bước lùi lại, còn bọn kia thấy thầy không còn sức chống cự, liền xông vào đánh thầy, rống lên như một đàn bò dại. […]
Bọn chúng vật tôi xuống và trói tay tôi lại. Trong lúc đó, thầy Đuy-sen lăn lộn trên mặt đất.
− Thầy ơi!
Nhưng bọn chúng đã bịt mồm tôi lại và xốc tôi nằm vắt ngang trên yên ngựa.
[…] Tôi không nhớ chúng đem tôi đến đâu và như thế nào. Tôi tỉnh dậy trong một căn lều vải. Những ngôi sao đầu hôm, trầm tĩnh, không chút ưu tư, dòm qua chóp lều để hở. Gần đâu đây một con sông chảy róc rách và nghe văng vắng có tiếng nói chuyện của những người chăn cửu đêm. Bên bếp lửa đã tàn lại có một bà già lầm lì, người khô đét như que củi đang ngồi yên.
[…] Đến đêm thứ ba, tôi nhất quyết trốn đi, dù có sao cũng mặc. Dù có lạc đường hay bị bọn hung đồ đuổi kịp, tôi cũng sẽ chống cự cho đến hơi thở cuối cùng như thấy Đuy-sen. Trong đêm tối, tôi lặng lẽ lần ra phía cửa lều. Tôi sở lên cửa thì thấy nó đã bị buộc chặt bằng một sợi dây thừng tết bằng lông đuôi ngựa. Nút dây xiết cứng rắc rối, tối mịt thế này không thể mở ra được. Tôi bèn cố vén thành lều lên để tìm cách bỏ ra ngoài. Nhưng dù tôi cố sức bao nhiêu cũng không sao vén được: ở phía ngoài cũng có những sợi chào căng sát vách lều xuống đất.
[…] Tôi hăm hở, mê mai đào đất dưới vách lều. Mặt đất ở chỗ ấy lởm chởm những đá không sao đào được. Tôi cáo bằng móng tay, mấy ngón tay tôi toạc rách rớm máu. Và đến khi lỗ đảo đã vừa rộng để thò tay ra ngoài lều thì trời đã hứng sáng. Chó sủa ran, người ở các lều bên đã bắt đầu thức dậy. Có tiếng vỏ rầm rập của một đàn ngựa phi qua lều xuống sông uống nước. Những đàn cừu ngái ngủ kéo qua, thờ phì phò. Rồi có ai đến cạnh lều, thảo cởi những sợi chão căng ở ngoài và bắt đầu đỡ các tấm ni lợp lều. Đó là người đàn bà mặt đen trầm lặng.
[….] Những tấm dạ đều đã cuộn lại, lều chỉ còn lại một cái sườn và tôi như ngồi trong một cái lồng nhìn ra ngoài: cách đẩy không xa, bên kia sông có mấy người đang thắng yên ngựa và xếp đồ đạc lên lưng bỏ. Rồi tôi thấy ba người cưỡi ngựa từ đâu bỗng phi về phía lều tôi đang ngồi. Thoạt tiên, tôi tưởng họ đi tập hợp mọi người lên đường, nhưng khi nhìn kĩ lại, tôi choáng người đi. Đó là thầy Đuy-sen, còn hai người kia thì đội mũ lưỡi trai công an, mặc áo khoác đỉnh dài khuy đỏ.
Tôi ngồi thử ra như người chết rồi, thậm chí cũng không kêu lên được nữa. Tôi mừng quýnh lên: Thầy tôi vẫn sống!
Đầu thầy Đuy-sen quấn băng, tay cũng đeo băng. Thầy nhảy xuống ngựa, giơ chân đập sập cửa, chạy vào lều và kéo phắt tấm chăn đắp trên người lão mặt đỏ.
– Dây! — Thầy Đuy-sen giận dữ quát.
Lão kia nhắc đầu lên, dụi mắt rồi toan chổm lên người thầy, nhưng lập tức phải chịu im khi thấy hai khẩu súng lục của hai người công an chĩa vào mặt. Thầy Đuy-sen túm lấy cổ áo hắn lay mạnh rồi kéo đầu hắn vào sát mặt mình.
– Đồ hèn mạt! – Thầy nói thì thảo qua đôi môi trắng bệch – Bây giờ phải đi theo
Lão kia ngoan ngoãn cất bước. Họ để cho tên mặt đò đi ủng, trói tay hắn lại và xốc lên ngựa. Một trong hai người công an cầm cương dắt đi, còn người kia cưỡi ngựa theo sau.
Tôi ngồi lên yên ngựa của thầy Đuy-sen, còn thầy đi bộ bên cạnh.
[…] Như một cơn ác mộng, đầu tôi cử váng lên. Minh mẩy ê ẩm, tôi đò dẫn ngồi trên lưng ngựa. Thấy Đuy-sen cầm cương đi trước một quãng. Thầy lặng thỉnh, mái đầu quấn băng cái gầm. Đi mãi hồi lâu chúng tôi mới ra khỏi cái thung lũng ghê rợn kia. Hai anh công an vượt lên trước, cách chúng tôi khá xa. Thầy Đuy-san cho ngựa dừng lại và lần đầu tiên nhìn tôi, đôi mắt buồn rười rượi.
– An-tư-nai ơi, thầy không bảo vệ được em, em tha thứ cho thấy nhé. – Thầy Đuy-sen nói, đoạn cầm lấy tay tôi áp lên má. Nhưng dù em có tha thủ đi nữa thì thấy cũng không đời nào có thể tự tha thứ cho minh việc này được.
Tôi khóc nắc lên và gục xuống bờm ngựa, thầy Đuy-sen đứng cạnh, lặng lẽ vuốt tóc tối và đợi tôi nín khóc. Cuối cùng, thấy nói:
– Em binh tâm lại, An-tự-nai a, ta đi đi. Em nghe thấy nhé. Hôm kia, thầy vừa lên huyện. Em sẽ lên tinh học. Em nghe thấy không?
Khi chúng tôi dừng lại bên một ngọn suối trong veo tuôn chảy róc rách, thầy nói:
– An-tư-nai, em xuống ngựa mà tắm một chút. – Thầy rút trong túi ra một miếng xà phòng nhỏ – Cẩm lấy, An-tư-nai, cứ tha hồ dùng cho hết. Thầy sẽ ra kia cho ngựa ăn có một lát, em xuống tắm đi. Và em hãy quên những chuyện đã xảy ra, đừng bao giờ nhớ đến nữa. Tắm đi, An-tư-nai, em sẽ thấy dễ chịu hơn. Được chứ?
Tôi gật đầu. Và khi thầy Đuy-sen đã dắt ngựa đi khuất, tôi thận trọng bước xuống suối. Những viên sỏi trắng, tím, xanh, đỏ từ dưới lòng suối nhìn tôi. Lẫn nước xanh lơ chảy xiết réo lên quanh mắt cá tôi. Tôi lấy tay vốc nước vỗ lên ngực. Những dòng nước mát rượi chảy trên thân thể tôi. Và tôi bắt giác cắt tiếng cười, lần đầu tiên trong suốt mấy ngày hôm ấy. Được cười, thích biết bao nhiêu! Tôi luôn tay vốc nước phả lên người rồi gieo mình xuống làn nước sâu. Dòng suối băng băng cuốn tôi đến một cồn cát. Tôi đứng lên rồi ngụp xuống dòng nước chảy cuồn cuộn, tung bọt trắng xoá.
– Nước ơi, hãy cuốn đi tất cả những bản nhơ, những nỗi ô nhục của mấy ngày hôm nay! Hãy làm cho tôi trong sạch như nước suối này! — Tôi thì thầm rồi cắt tiếng cười vô cớ.
Tại sao vết chân con người không còn lại mãi mãi ở những nơi thân thiết, đáng ghi nhớ đối với lòng họ? Giá giờ đây tôi có thể tìm lại con đường mòn mà thầy Đuy-sen đã đưa tôi xuống núi, tôi sẽ phục xuống đất và hôn lên những vết chân của thầy tôi. Đối với tôi, con đường mòn ấy là con đường dẫn tới mọi con đường. Thiêng liêng và diễm phúc thay ngày hôm ấy, con đường mòn ấy, con đường đã dẫn tôi trở về với cuộc sống, với niềm tin mới vào bản thân mình, với những niềm hi vọng mới, với ánh sáng,… Cảm ơn ánh sáng Mặt Trời, cảm ơn mảnh đất ngày hôm ấy…