Phân tích tác phẩm Văn 9 – Đột phá kỳ thi tuyển sinh 10.

tai-lieu-luyen-thi-tuyen-sinh-10-tac-pham-van-hoc-9

Tài liệu luyện thi văn bản Ngữ văn 9.

Chuyện người con gái Nam Xương (Nguyễn Dữ).

I. Mở bài:

“Truyền kỳ mạn lục” là tập truyện xuất sắc của Nguyễn Dữ và của nền văn học Việt Nam thế kỷ XIV. “Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên truyện thứ 16 trong tập truyện này. Chuyện kể về cuộc đời và số phận đáng thương của nhân vật Vũ Nương. Vũ Nương người con gái thùy mị nết na, tư dung tốt đẹp, người vợ hiền con thảo nhưng bị hàm oan phải tự tử để bảo vệ danh tiết.

II. Thân bài:

1. Hoàn cảnh sống của Vũ Nương:

+ Xã hội: chiến tranh phong kiến xảy ra, xã hội trọng nam khinh nữ.

+ Gia đình: Hôn nhân không có sự bình đẳng về giai cấp, vợ chồng vì chiến tranh mà phải sống xa nhau, tính cách vợ chồng trái ngược nhau.

2. Vũ Nương là người phụ nữ có nhiều phẩm chất tốt đẹp.

+ Người con gái thùy mị nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp.

+ Người vợ một mực thủy chung với chồng, thấu hiểu nỗi khổ và nguy hiểm mà chồng phải đối mặt nơi chiến tuyến, chờ đợi chồng.

+ Người con dâu hiếu thảo: chăm sóc mẹ chồng như cha mẹ ruột, lo ma chay chu đáo khi mẹ chồng mất.

+ Người mẹ thương con hết mực:bù đắp thiếu thốn tinh thần của con bằng cách chỉ vào bóng mình trên tường giả làm cha đứa bé.

+ Người phụ nữ trọng nhân phẩm tình nghĩa.

3. Số phận của Vũ Nương bất hạnh, hẩm hiu.

+ Chồng đi lính, một mình phải gánh vác công việc gia đình, chăm sóc con nhỏ, phụng dưỡng mẹ già.

+ Bị chồng nghi oan tấm lòng chung thủy, mắng nhiếc, đánh đuổi một cách phũ phàng.

+ Dù ở thủy cung luôn nhớ về nhân gian nhưng không thể trở về được.

Nghệ thuật xây dựng nhân vật: tạo dựng tình huống để thử thách nhân vật, khắc họa nhân vật qua ngoại hình, hành động, đối thoại… kết hợp với yếu tố kì ảo có thực.

4. Ý nghĩa nhân đạo của tác phẩm

– Thể hiện niềm thương cảm với số phận oan nghiệt của người phụ nữ trong xã hội phong kiến

– Khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ: hiếu thảo, son sắt, nhân hậ..

– Lên án, tố cáo chiến tranh phi nghĩa, phê phán nhiều thói xấu trong xã hội như thói gia trưởng, thô bạo, bất bình đẳng giớ.. luôn chà đạp, vùi dập người phụ nữ

III. Kết bài:

Tác giả Nguyễn Dữ với bút pháp miêu tả nhân vật sinh động, “Chuyện người con gái Nam Xương” khắc họa được nhân cách cao đẹp và số phận bi thảm của người phụ nữ tài sắc vẹn toàn.

Bài văn mẫu:

  • Mở bài:

Nguyễn Dữ là một cư sĩ nổi danh sống vào nửa đầu thế kỷ XVI, là thời kỳ Triều đình nhà Lê đã bắt đầu khủng hoảng, các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, Trịnh tranh giành quyền lực, gây ra những cuộc nội chiến kéo dài. Ông học rộng, tài cao nhưng chỉ làm quan một năm rồi cáo về, sống ẩn dật ở vùng núi Thanh Hoá. Đó là cách phản kháng của nhiều trí thức tâm huyết đương thời. “Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên truyện thứ 16 trong tổng số 20 truyện của tập “Truyền kì mạn lục”. Tác phẩm kể về cuộc đời và số phận đầy khổ đau, bất hạnh của nhân vật Vũ Nương, một người phụ nữ hiền đức nhưng có kết cục thảm thương.

  • Thân bài:

Dựa trên một câu chuyện dân gian về một nỗi oan khuất của một người thiếu phụ, Nguyễn Dữ đã viết về phẩm chất và số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, đồng thời lên án, tố cáo lễ giáo phong kiến hà khắc đã không cho người phụ nữ được bảo vệ mình. Truyện được đánh giá là một áng “thiên cổ kì bút”, phản ánh sinh động về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Truyện đã đặt Vũ Nương vào nhiều hoàn cảnh để làm bộc lộ mọi vẻ đẹp phẩm chất, đức hạnh của nhân vật: khi lấy Trương Sinh và trong mối quan hệ vợ chồng; khi tiễn chồng đi lính; trong thời gian xa cách và trong mối quan hệ với mẹ chồng và cuối cùng là khi Trương Sinh trở về. Ở hoàn cảnh nào và trong mối quan hệ nào, Vũ Nương cũng bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp cùng với niềm khao khát và sự hết lòng vun vén cho hạnh phúc gia đình.

Khi mới về làm vợ Trương Sinh, biết tính chồng hay ghen, nàng “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”. Khi tiễn chồng đi lính, lời nàng nói với chồng lúc chia tay cho thấy rõ niềm khát khao hạnh phúc và tấm lòng của nàng đối với chồng: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”.

Phẩm hạnh của Vũ Nương càng được bộc lộ trong hoàn cảnh vợ chồng xa cách, nàng phải một mình nuôi dạy con, phụng dưỡng mẹ chồng. Trong thời gian Trương Sinh đi lính, nàng luôn mong nhớ về người chồng ở nơi chiến trận với bao gian lao khổ ải “ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Mỗi tối nàng trỏ cái bóng của mình trên vách mà nói với con đó là cha đứa bé. Chi tiết ấy về sau sẽ trở thành đầu mối của tấn bi kịch, nhưng nó cũng cho thấy nỗi nhớ mong chồng và niềm khao khát hạnh phúc gia đình cùng với tấm lòng thuỷ chung của Vũ Nương.

Trong quan hệ với mẹ chồng, Vũ Nương tận tình săn sóc, lo liệu thuốc thang những lúc đau yếu, rồi khi bà qua đời, “nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”. Vũ Nương quả là một người vợ hiền, dâu thảo, một hình mẫu về phẩm hạnh của người phụ nữ truyền thống.

Khi Trương Sinh trở về, những tưởng có được hạnh phúc trong sum họp thì Vũ Nương lại bị chồng nghi oan, hạnh phúc tan vỡ, nàng phải tìm đến cái chết. Chính trong tình huống nghiệt ngã như thế, vẻ đẹp phẩm hạnh của Vũ Nương càng ngời sáng.

Nỗi oan khuất và tấn bi kịch của Vũ Nương ập đến thật bất ngờ và cũng thật cay đắng. Ấy là ngay lúc Trương Sinh vừa trở về sau chiến tranh, hạnh phúc mà bấy lâu Vũ Nương mỏi mòn trông đợi, tưởng đã nắm được trong tay, thì tai hoạ ập xuống bất ngờ. Cái nguyên nhân trực tiếp dẫn đến nỗi oan trái và tấn bi kịch của Vũ Nương là sự hiểu lầm do rất nhiều cái ngẫu nhiên đưa đến. Trong thời gian chồng đi lính, Vũ Nương vì thương con, nhớ chồng mà chỉ cái bóng của mình trên tường bảo là cha đứa bé, khiến cho nó lầm tưởng như vậy. Trương Sinh trở về khi con mới học nói cũng là một ngẫu nhiên. Trương Sinh một mình bế con đi thăm mộ mẹ cũng là một ngẫu nhiên. Đứa trẻ quấy khóc, khiến Trương Sinh phải dỗ nó và những lời ngây thơ của đứa trẻ vô tình đã gây ra sự hiểu lầm.

Nhưng mọi tình tiết ngẫu nhiên gây hiểu lầm ở đây lại rợi vào tình thế của người chồng vốn tính cả ghen, lại vừa trở về sau một thời gian xa cách. Bởi thế, Trương Sinh đã không nghe những lời phân trần và cũng không nói ra nguyên cớ của sự nghi ngờ. Như thế, tình huống hiểu lầm chỉ là nguyên nhân trực tiếp bên ngoài, nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự đổ vỡ hạnh phúc và tấn bi kịch của người phụ nữ chính là lòng ghen tuông của người chồng. Nguyên nhân ấy tiềm ẩn ngay từ những ngày đầu trong cuộc sống gia đình của họ. Ở đoạn đầu truyện, người kể đã cho biết: Trương Sinh “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Tính đa nghi, lòng ghen tuông quá mức ở Trương Sinh còn được hỗ trợ thêm từ phía xã hội phong kiến đề cao nam quyền, phụ quyền.

Hơn nữa, giữa hai người có sự chênh lệch về đẳng cấp. Trương Sinh là con nhà hào phú còn Vũ Nương là con nhà nghèo. Sự cách bức ấy đã cộng thêm một cái thế cho Trương Sinh, bên cạnh cái thế của người chồng, người đàn ông trong chế độ gia trưởng phong kiến. Nguyên nhân sâu xa ấy khi gặp những cái ngẫu nhiên gây hiểu lầm từ lời đứa trẻ đã dẫn đến sự mất lòng tin của Trương Sinh, đưa đến tan vỡ hạnh phúc. Trương Sinh trở thành một kẻ vũ phu, thô bạo “mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi đi”, dẫn đến cái chết oan nghiệt của Vũ Nương. Bi kịch của Vũ Nương cho thấy số phận thật bấp bênh của người phụ nữ, phải gánh chịu nhiều bất công, oan trái trong xã hội chỉ coi trọng nam quyền, dù người phụ nữ ấy có đầy đủ đức hạnh, phẩm giá. Truyện cũng bộc lộ khát vọng hạnh phúc bình dị, đời thường của con người, nhất là người phụ nữ. Nhưng hạnh phúc ấy cũng thật mong manh, dễ tan vỡ, nhiều khi chỉ bởi những nguyên cớ dường như nhỏ nhặt, ngẫu nhiên.

Yếu tố kì ảo là một phần không thể thiếu của loại truyện truyền kì. Đưa yếu tố ấy vào truyện này, ngoài việc tăng sức hấp dẫn bằng sự li kì và trí tưởng tượng phong phú, tác giả còn muốn thể hiện quan niệm, tư tưởng của mình đối vói nhân vật và vấn đề đặt ra trong truyện; khẳng định thêm phẩm chất đẹp đẽ của nhân vật Vũ Nương, đáp ứng ước vọng và niềm tin của mọi người về lẽ công bằng. Cuối cùng thì Vũ Nương đã được chiêu tuyết, nỗi oan của nàng được giải, nàng được sống ở cõi tiên, nơi không có những nỗi buồn khổ như ở cõi trần gian. Khi Vũ Nương tự vẫn nàng chỉ có một mình, chỉ có dòng sông Hoàng Giang chứng kiến nỗi đau của nàng. Khi nàng trở về trên dòng sông, Trương Sinh đứng đợi bên đấng giải oan, phẩm giá, danh dự của nàng được chiêu tuyết, vợ chồng nàng lại thấy mặt nhau, nhưng tất cả vẫn chỉ như ảo ảnh, Vũ Nương chỉ có thể từ giữa sông nói vọng vào với chồng và cuối cùng “bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất”.

Yếu tố kì ảo ở phần cuối truyện tuy có đem lại niềm an ủi cho nhân vật và cho người đọc nhưng không lấn át, làm mất đi chất thực và sắc thái bi kịch của truyện. Bởi vì suy cho cùng, cái kết của truyện vẫn không phải là cái kết có hậu như trong truyện cổ tích. Dù được chiêu tuyết thì bi kịch của Vũ Nương, của Trương Sinh cũng không vì thế mà được hoá giải. Vũ Nương được cứu sống bằng nghệ thuật kì ảo, nhưng hạnh phúc thì không sao lấy lại được. Cảnh trở về của Vũ Nương vẫn chỉ là một ảo ảnh, giữa nàng và Trương Sinh vẫn là một khoảng cách không thể vượt qua, “nàng vẫn ở giữa dòng mà nói vọng vào: “…Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Hình ảnh của nàng giờ đây cũng chỉ còn là cái bóng hư ảo: “Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất”. Nếu cái bóng trên tường từng là nguyên cớ dẫn đến tấn bi kịch chia lìa, tan vỡ hạnh phúc gia đình Vũ Nương, thì lúc này, dù có gặp lại Trương Sinh, Vũ Nương cũng chỉ còn là cái bóng mờ ảo, để rồi tan biến đi nhanh chóng, như là một ảo ảnh về hạnh phúc thoáng hiện ra rồi vĩnh viễn biến mất. Kết thúc của truyện để lại dư vị xót xa, ngậm ngùi, chứ không hề là một kết thúc viên mãn “ở hiền gặp lành”, theo niềm tin và mơ ước của dân gian.

  • Kết bài:

Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, tác phẩm bộc lộ tinh thần nhân đạo thể hiện ở niềm cảm thương sâu sắc với số phận oan nghiệt, ngang trái của người phụ nữ, khẳng định vẻ đẹp về phẩm chất và nhân cách của họ. “Chuyện người con gái Nam Xương” tiêu biểu cho thành công nghệ thuật của Nguyễn Dữ trong thể loại truyện truyền kì của văn học trung đại Việt Nam.

II. VĂN BẢN VĂN HỌC TRUNG ĐẠI.
– Truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” (Nguyễn Dữ).
– Chương truyện “Hồi thứ 14″ (trích “Hoàng Lê nhất thống chí” – Ngô Gia Văn Phái).
– Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” (trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du).
– Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” (trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du).
– Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” (trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du).
– Đoạn trích “Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga” (trích truyện thơ Nôm “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu).
III. VĂN BẢN VĂN HỌC HIỆN ĐẠI.
– Bài thơ “Đồng chí” (Chính Hữu).
– Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” (Phạm Tiến Duật).
– Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” (Huy Cận).
– Bài thơ “Bếp lửa” (Bằng Việt).
– Bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” (Nguyễn Khoa Điềm) – Giảm tải.
– Bài thơ “Ánh trăng” (Nguyễn Duy).
– Truyện ngắn “Làng” (Kim Lân).
– Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” (Nguyễn Thành Long).
– Truyện ngắn “Chiếc lược ngà” (Nguyễn Quang Sáng).
HỌC KỲ II.
I. VĂN BẢN NHẬT DỤNG.
– Văn bản “Bàn về đọc sách” (Chu Quang Tiềm).
– Văn bản “Tiếng nói của văn nghệ” (Nguyễn Đình Thi)
– Văn bản “Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới” (Vũ Khoan).
II. VĂN BẢN VĂN HỌC HIỆN ĐẠI.
– Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” (Thanh Hải).
– Bài thơ “Viếng lăng Bác” (Viễn Phương).
– Bài thơ “Sang thu” (Hữu Thỉnh).
– Bài thơ “Nói với con” (Y Phương).
– Truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” (Lê Minh Khuê). 


Đoàn thuyền đánh cá (Huy Cận).

I. Mở bài:

– Huy Cận là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới và của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX.

– Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” được viết năm 1958 tại Hồng Gai (Quảng Ninh). Bài thơ tái hiện cảnh sắc thiên nhiên và không khí lao động của một vùng biển giàu đẹp của miền Bắc trong những năm đầu cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, bài thơ là một tiếng hát ca ngợi lao động đánh cá trên biển, ca ngợi sự giàu đẹp của biển cả hùng vĩ, bao la.

II. Thân bài:

1. Cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi (khổ thơ 1):

– Cảnh “Mặt trời xuống biển như hòn lửa” đẹp một cách hùng vĩ : Mặt trời như hòn lửa “lặn” xuống biển mà vẫn còn rực cháy.

– Sóng biển là chiếc then cài, màn đêm là cánh cửa. Cửa đã sập, then đã cài (Sóng đã cài then, đêm sập cửa), một ngày đã chấm dứt, bắt đầu một đêm.

– Đêm bát đầu là bát đầu cảnh lao động của người ngư dân: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi”.

Tiếng hát của những người đánh cá như cũng cùng với gió khơi làm căng thêm buồm, đưa đoàn thuyền đánh cá chạy nhanh ra khơi xa. “Câu hát càng buồm cùng gió khơi”, một sự mở đầu của một đêm lao động vui, hào hứng và khẩn trương.

2. Cảnh lao dộng đánh cá trên biển cả bao la, hùng ui và giàu có (các khổ thơ 2, 3, 4, 5, 6).

– Biển giàu có: Cá thu, một loại cá quý ở biển, nhiễu như đoàn thoi (Cá thu biển Đông như đoàn thoi).

– Từ sự ví von (cá thu như đoàn thoi), tạo nên một sự liên tưởng ý vị :

+ Cá đi trên biển là cá dệt biển: “Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”.

+ Cá vào lưới là cá dệt lưới: “Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi !”.

– Biển hùng vĩ, công việc lao động đánh cá thật hùng tráng.

– Biển hùng vĩ với gió, trăng, mây, với chiều cao, chiều rộng, chiều sâu: “Thuyền ta lái gió với buồm trăng / Lướt giữa mây cao với biển bằng / Ra đậu dặm xa dò bụng biển”.

– Công việc lao động đánh cá trên biển thật hùng tráng:

+ Thuyền đánh cá có gió làm lái, trăng làm buồm và lướt giữa cái mênh mông bao la của trời, biển, giữa mây cao và biển bằng.

+ Công việc đánh cá là thăm dò tài nguyên của biển (dò bụng biển), là : “Dàn đan thế trận lưới vây giăng”.

– Biển dẹp và ân tình; công việc lao dộng đánh cá đầy thi vị lãng mạn và hết sức hào hùng.

+ Biển đẹp. Đó là cái đẹp “lấp lánh” của những con cá biển: “Cá song lấp lánh đuốc đen hồng”.

+ Con cá song đã đẹp, lại càng đẹp trong một cảnh biển đẹp: “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe / Đêm thở : sao lùa, nước Hạ Long”.

+ Biển ân tình như lòng mẹ: “Biển cho ta cá như lòng mẹ / Nuôi lớn đời ta tự buổi nào”.

– Công việc lao động đánh cá trên biển đầy thi vị lãng mạn và hết sức hào hùng :

+ Cảnh lao động đánh cá đấy thi vị lãng mạn: “Ta hát bài ca gọi cá vào / Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao”.

– Cảnh lao động đánh cá hết sức hào hùng: “Ra đậu dậm xa dò bụng biển / Dàn đan thế trận lưới vây giăng”;  “Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng / Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”.

3. Cảnh đoàn thuyền đánh cá từ khơi xa trở về (khổ thơ cuối):

a) Đoàn thuyền đánh cá trở về:

– Tác giả lặp lại câu thơ ở khổ thơ đầu “Câu hát căng buồm cùng gió khơi” làm cho khổ thơ cuối giống như một điệp khúc trong một bài hát. Đoàn thuyền ra đi hào hứng, khẩn trương. Đoàn thuyền trở vế cũng vẫn tinh thần ấy: khẩn trương, hào hứng.

– Một hình ảnh được xây dựng theo lối khoa trương (Đoàn thuyền chạy đua cùng mật trời), nói lên vẻ đẹp hùng tráng và nhịp điệu lao động khẩn trương của đoàn thuyền đánh cá trên đường về.

b) Bình minh trên biển cả:

– Mở đầu bài thơ là cảnh hoàng hôn trên biển và kết thúc bài thơ là cảnh bình minh trên biển:
“Mặt trời đội biển nhô màu mới”.

– Một sự so sánh ngầm (ẩn dụ) táo bạo, bất ngờ và thú vị. Nó gắn bó công việc lao động đánh cá với thiên nhiên đất trời: “Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi”.

III. Kết bài:

“Đoàn thuyên đánh cá” là một khúc hát ngợi ca lao động đánh cá trên biển của người ngư dân làm chủ cuộc đời và biển cả, ngợi ca biển cả bao la, hùng vĩ, giàu và đẹp.

– Bài thơ có nhiều hình ảnh thơ đẹp biểu hiện cái đẹp, cái bao la, hùng vĩ của thiên nhiên và tư thế của người lao động mới, làm chủ tập thể, làm chủ thiên nhiên, làm chủ công việc của mình.

Bài văn mẫu:

  • Mở bài:

Huy Cận là một trong những tên tuổi tiêu biểu của phong trào Thơ mới trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, với những tác phẩm nổi tiếng như Lửa thiêng, Vũ trụ ca… Sau Cách mạng, ông nhanh chóng hòa nhập vào công cuộc kháng chiến vĩ dại của dân tộc chống thực dân Pháp. Hòa bình lập lại, từng trang thơ Huy Cận ấm áp hơi thở của cuộc sống mới đang lên. Đoàn thuyền đánh cá được sáng tác ở Hòn Gai, năm 1958. Sau một chuyến tác giả đi thực tế dài ngày, được đánh giá là một trong những bài hay của thơ ca Việt Nam hiện đại.

  • Thân bài:

Với đôi mắt quan sát sắc sảo, trí tưởng tượng phong phú, trái tim nhạy cảm và tài năng nghệ thuật điêu luyện, nhà thơ đã vẽ nên trước mắt chúng ta một khung cảnh lao động tuyệt vời trên biển. Cả bài thơ như một bức tranh sơn mài lộng lẫy với những màu sắc huyền ảo, cuốn hút vô cùng:

Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Đoàn thuyền đánh cá rời bến vào lúc hoàng hôn. Phía ấy mặt trời như một hòn lửa đỏ rực đang lặn dần vào lòng đại dương mênh mông. Màn đêm buông xuống, kết thúc một ngày. Chính vào thời điểm ấy ngư dân bắt tay vào công việc quen thuộc của mình: ra khơi đánh cá. Mặt biển đêm không lạnh lẽo mà ấm áp hẳn lên bởi tiếng hát âm vang náo nức, thể hiện niềm vui to lớn của con người lao động được giải phóng: Cậu hát căng buồm cùng gió khơi. Đây là cách nói độc đáo, sáng tạo của Huy Cận, khiến chúng ta tưởng như tiếng hát hòa cùng gió mạnh, thổi căng cánh buồm, đẩy thuyền phăng phăng rẽ sóng. Cánh buồm no gió tượng trưng cho khí thế phơi phới đi lên của công cuộc dựng xây đất nước.

Lời hát ngợi ca sự giàu có và hào phóng của biển cả cùng vẻ đẹp lung linh, diệu kì của nó trong đêm. Bút pháp lãng mạn của nhà thơ vẽ nên khung cảnh vừa thực vừa ảo:

Hát rằng: Cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đàn cá ơi!

Vẻ đẹp của biển đã làm giảm bớt nỗi nhọc nhằn vất vả, đem lại niềm vui và sức mạnh cho con người đang chinh phục thiên nhiên, làm chủ cuộc đời.

Cảnh đánh cá trong đêm dược nhà thơ quan sát và miêu tả với một cảm hứng trữ tình mãnh liệt. Tác giả như nhập thân vào thiên nhiên, vào công việc, vào con người:

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Những hình ảnh lái gió, buồm trăng, mây cao, biển bằng phảng phất phong vị thơ cổ điển nhưng vẫn tươi mới chất hiện thực. Một chuyến ra khơi đánh cá cũng giống như một trận đánh. Cũng thăm dò tìm cho ra bãi cá; cũng dàn đan thế trận để giăng lưới, bủa lưới sao cho trúng luồng cá bạc, để sáng mai lúc trở về, thuyền nào thuyền nấy đầy ắp cá.

Đã bao đời, người ngư dân có mối quan hệ chặt chẽ với biển cả. Họ thuộc biển như thuộc lòng bàn tay. Bao loài cá họ thuộc tên, thuộc dáng, thuộc cả thói quen của chúng:

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cái đuôi em quẫy trăng vầng chóe.
Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long.

Trên mặt biển đêm, ánh trăng long lanh dát bạc, cá quẫy đuôi, sóng sánh trăng vàng. Bài ca gọi cá vẫn tiếp tục ngân vang, lúc náo nức, lúc thiết tha. Trăng thức cùng ngư dân, trăng cùng sóng dập dờn bên mạn thuyền, như gõ nhịp phụ họa cho tiếng hát. Trăng chiếu sáng cho ngư dân kéo được những mẻ cá đầy. Thiên nhiên, con người thật là hoà hợp.

Bóng đêm đang tan, ngày đang đến, nhịp độ công việc càng sôi nổi, khẩn trương:

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vảy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Bao công lao vất vả đã được đền bù. Dáng người ngư dân đang choãi chân, nghiêng người, dồn tất cả sức mạnh vào đôi cánh tay cuồn cuộn để kéo lên những mẻ lưới nặng trĩu mới đẹp làm sao! Bóng dáng họ in trên nền trời hồng rực của buổi bình minh. Những tia nắng sớm chiếu trên khoang cá đầy làm lấp lánh thêm vảy bạc, đuôi vàng và màu sắc phong phú của bao loài cá cũng khiến cho cảnh rạng đông thêm rực rỡ. Nhịp điệu câu thơ cuối chậm rãi, gợi cảm giác thanh thản, vui tươi, phản ánh tâm trạng thoải mái của ngư dân trước kết quả tốt đẹp của chuyến ra khơi.

Khố thơ cuối cùng miêu tả cảnh trở về của đoàn thuyền đánh cá:

Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

Vẫn là tiếng hát khoẻ khoắn của người ngư dân dạn dày sóng nước đang vươn lên làm chủ cuộc đời. Tiếng hát hoà trong gió, thổi căng cánh buồm đưa đoàn thuyền ra khơi đêm trước, nay lại cùng đoàn thuyền đầy ắp cá hân hoan về bến. Hình ảnh Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời rất hiện thực mà cũng rất hào hùng. Nó phản ánh một thói quen lâu đời của ngư dân là đưa cá về bến trước khi trời sáng, đồng thời cũng thế hiện khí thế đi Lên mạnh mẽ của họ trong công cuộc xây dựng đất nước sau giải phóng.

Hoà cùng niềm vui to lớn của mọi người, nhà thơ chắp cánh cho trí tưởng tượng của mình bay bổng. Đoàn thuyền lao vun vút trên mặt biển. Mặt trời đội biển nhô màu mới một màu hồng rạng rỡ, tinh khôi và ánh mặt trời phản chiếu trong muôn ngàn mắt cá trên thuyền khiến nhà thơ liên tưởng tới hàng ngàn mặt trời nhỏ xíu đang tỏa sáng niềm vui. Đến đây, bức tranh biển cả ngập tràn sắc màu tươi sáng và ăm ắp chất sống trong từng dáng hình, đường nét của cảnh vật, của con người.

Bài thơ là sự sáng tạo hình ảnh bằng bút pháp lãng mạn, khoa trương nhưng xuất phát từ hiện thực, với những liên tưởng độc đáo, mới lạ, kì thú. Ngoại hình ảnh đẹp, tráng lệ, bài thơ còn tạo được âm hưởng vừa khoẻ khoắn, sôi nổi vừa phơi phới, bay bổng. Góp phần tạo nên âm hưởng ấy là các yếu tố lời thơ, nhịp điệu, vần. Lời thơ dõng dạc, điệu thơ như khúc hát say mê, hào hứng, phấn khởi. Đặc biệt, cách gieo vần có nhiều biến hoá linh hoạt, các vần trắc xen lẫn vần bằng, vần liền xen với vần cách. Các vần trắc tạo sức dội, sức mạnh, các vần bằng tạo sự vang xa, bay bổng.

  • Kết bài:

“Đoàn thuyền đánh cá” là một bài ca lao động hứng khởi, hào hùng. Nhà thơ ca ngợi biển cả mênh mông – nguồn tài nguyên bất tận của Tổ quốc, ca ngợi những con người lao động cần cù, gan góc, ngày đêm làm giàu cho đất nước. Cảm hứng trữ tình của Huy Cận và nghệ thuật điêu luyện của ông đã cuốn hút người đọc thực sự.


Làng (Kim Lân).

I. Mở bài:

Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn, thành danh từ trước cách mạng tháng Ông để lại số lượng tác phẩm không nhiều nhưng vẫn được xếp vào hàng những cây bút xuất sắc nhất của nền văn xuôi Việt Nam hiện đại.  Ông có lối viết tự nhiên, giản dị, cách miêu tả chân thực. Đặc biệt ông có biệt tài phân tích tâm lí nhân vật.

– Truyện ngắn “Làng” được viết thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, đăng lần đầu trên tạp chí Văn nghệ 1948, là một trong những truyện ngắn thành công nhất của Kim Lân.

II. Thân bài:

“Làng” của Kim Lân viết về đề tài vô cùng quen thuộc đó là tình cảm yêu làng, yêu nước của những con người trong thời kì cách mạn Nhưng điều gì đã làm nên một ông Hai đặc biệt đến vậy, khiến người ta không thể nào quên. Để lại ấn tượng sâu đậm đó phải nói đến sự sáng tạo, công nghiên cứu tìm tòi của nhân văn Kim Lân.

– Ông Hai là người yêu làng tha thiết, ở nơi tản cư ông luôn khoe về cái làng giàu tinh thần chiến đấu, với niềm tự hào sâu sắc.

– Nghe tin làng theo giặc, lòng ông đau đớn đến tột cùng: “Cổ nghẹn đắng”; “Da mặt tê rần rần”;… Ông đau đớn đến mức như không điều khiển được thân thể của chính mình.

– Ông lo lắng, xót xa, trằn trọc cả đêm: ông lo cho số phận của những đứa con sẽ bị khinh bỉ, hắt hủi vì là trẻ con làng Việt gian; Cho bao nhiêu người làng ở nơi tản cư; Cho tương lai cả gia đìn
Ông sợ hãi khi phải đối diện với cuộc sống xung quanh, lòng ông lúc nào cũng nơm nớp lo sợ.

– Cái tin ấy còn khiến ông day dứt, giằng xé dữ dội vì ông vừa yêu làng, vừa yêu nước, ông buộc phải lựa chọn giữa hai tình cảm ấy.

– Cuộc đấu tranh trong tâm hồn ông được biểu hiện qua cuộc nói chuyện của ông với đứa con nhỏ. Ông khẳng định: “nhà ta ở làng Chợ Dầu”. Ông muốn con ghi nhớ Chợ Dầu là quê hương, là gốc gác, không được phép quên. Đó là tình cảm gắn bó máu thịt của ông Hai và của hàng triệu người Việt Nam.

– Ông lựa chọn “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Tình yêu nước và nhiệt tình ủng hộ kháng chiến của ông Hai, Lựa chọn ấy khiến ông vững vàng hơn và tin rằng đồng bào, đồng chí sẽ hiểu cho ông, cụ Hồ sẽ soi xét cho ông.

– Miêu tả diễn biến tâm trạng ông Hai khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, Kim Lân đã phản ánh những nét đẹp mới trong tâm hồn người nông dân sau cách mạng. Cùng với tình yêu làng tha thiết họ còn tràn đầy tình yêu đất nước và nhiệt tình cách mạng.

– Kim Lân đã miêu tả chân thực, sắc sảo diễn biến tâm trạng ông Hai. Qua đó, nhà văn đã khám phá những nét đẹp nổi bật trong tâm hồn người nông dân Việt Nam:

+ Chất phác, nồng hậu, yêu thiết tha quê hương, đất nước.

+ Lòng nhiệt tình ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến.

– Ngoài ra những nét đặc sắc về nghệ thuật kể chuyện, cũng làm nên thành công cho tác phẩm.

+ Lối kể chuyện giản dị, tự nhiên, ngôn ngữ mang tính khẩu ngữ.

+ Ngòi bút phân tích tâm lí sắc sảo.

+ Kết hợp hài hòa ngôn ngữ độc thoại, đối thoại.

+ Hình ảnh, chi tiết giàu sức gợi.

III. Kết bài:

– Sáng tạo nghệ thuật là vấn đề muôn thuở của các nhà thơ, nhà vă Chỉ có sáng tạo mới làm nên một tác phẩm văn học đích thực.

– Điều đó đã đặt ra yêu cầu nơi người sáng tác đó là cần lao động nghiêm túc, không ngừng tìm tòi, đổi mới để không lặp lại chính mình và lặp lại người khác.

Bài văn mẫu:

  • Mở bài:

Kim Lân là nhà văn rất am hiểu đời sống nông thôn và người nông dân vùng đồng bằng Bắc Bộ, từ trước năm 1945 ông đã có một số truyện ngắn về đề tài này. Truyện ngắn “Làng” được Kim Lân viết năm 1948 trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Tình yêu làng quê trong truyện Làng vừa mang nét chung của tâm lí người nông dân, lại mang nét riêng của thời đại cách mạng và kháng chiến, khi tình cảm làng quê được mở rộng và chịu sự chi phối của lòng yêu nước, của ý thức công dân.

  • Thân bài:

Truyện ngắn “Làng” có cốt truyện đơn giản, ít sự việc, không hướng vào tái hiện những sự kiện bên ngoài hay xung đột xã hội mà hướng vào thế giới nội tâm nhân vật, miêu tả trạng thái và diễn biến tâm lí của ông Hai. Đó là loại cốt truyện tâm lí, không phải cốt truyện sự kiện, hành động. Phần chính của truyện (được trích trong SGK) là diễn biến tình cảm và thái độ của ông Hai đối với làng quê khi ở nơi tản cư ông nghe tin làng mình lập tề theo giặc đến khi cái tin ấy được cải chính.

Tình yêu làng, một bản chất có tính truyền thông trong ông Hai. Ông hay khoe làng, đó là niềm tự hào sâu sắc về làng quê. Cái làng đó với người nông dân có một ý nghĩa cực kì quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần. Sau cách mạng, đi theo kháng chiến, ông đã có những chuyển biến mới trong tình cảm. Được cách mạng giải phóng, ông tự hào về phong trào cách mạng của quê hương, về việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông. Phải xa làng, ông nhớ quá cái không khí “đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…”; rồi ông lo “cái chòi gác,… những đường hầm bí mật,…” đã xong chưa? Tâm lí ham thích theo dõi tin tức kháng chiến, thích bình luận, náo nức trước tin thắng lợi ở mọi nơi “Cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, cả súng cũng vậy, hôm nay dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích tiểu thành đại, làm gì mà thằng Tây không bước sớm”.

Tình yêu làng gắn bó sâu sắc với tình yêu nước của ông Hai bộc lộ sâu sắc trong tâm lí ông khi nghe tin làng theo giặc. Khi ông vừa từ phòng thông tin bước ra, đang phấn chấn vì những tin tức ta đánh thắng giặc ở nhiều nơi vốn là người rất yêu và tự hào về cái làng của mình, ông Hai tình cờ nghe được cái tin làng Chợ Dầu của mình theo giặc.

Khi mới nghe tin xấu đó, ông sững sờ, chưa tin. Nhưng khi người ta kể rành rọt, không tin không được, ông xấu hổ lảng ra về. Nghe họ chì chiết ông đau đớn cúi gầm mặt xuống mà đi. Về đến nhà, nhìn thấy các con, càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó “cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi”. Ông giận những người ở lại làng, nhưng điểm mặt từng người thì lại không tin họ “đổ đốn” ra thế. Nhưng cái tâm lí “không có lửa làm sao có khói”, lại bắt ông phải tin là họ đã phản nước hại dân. Ba bốn ngày sau, ông không dám ra ngoài. Cái tin nhục nhã ấy choán hết tâm trí ông thành nỗi ám ảnh khủng khiếp. Ông luôn hoảng hốt giật mình. Không khí nặng nề bao trùm cả nhà.

Tình cảm yêu nước và yêu làng còn thể hiện sâu sắc trong cuộc xung đột nội tâm gay gắt: Đã có lúc ông muốn quay về làng vì ở đây tủi hổ quá, vì bị đẩy vào bế tắc khi có tin đồn không đâu chứa chấp người làng chợ Dầu. Nhưng tình yêu nước, lòng trung thành với kháng chiến đã mạnh hơn tình yêu làng nên ông lại dứt khoát: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Nói cứng như vậy nhưng thực lòng đau như cắt.

Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ được bộc lộ một cách cảm động nhất khi ông chút nỗi lòng vào lời tâm sự với đứa con út ngây thơ. Thực chất đó là lời thanh minh với cụ Hồ, với anh em đồng chí và tự nhủ mình trong những lúc thử thách căng thẳng này. Đứa con ông bé tí mà cũng biết giơ tay thề: “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!” nữa là ông, bố của nó. Ông mong “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”.  Qua đó, ta thấy rõ tình yêu sâu nặng đối với làng chợ Dầu truyền thống (chứ không phải cái làng đổ đốn theo giặc). Tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng với kháng chiến mà biểu tượng của kháng chiến là cụ Hồ được biểu lộ rất mộc mạc, chân thành. Tình cảm đó sâu nặng, bền vững và vô cùng thiêng liêng: có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.

Khi cái tin kia được cải chính, gánh nặng tâm lí tủi nhục được trút bỏ, ông Hai tột cùng vui sướng và càng tự hào về làng chợ Dầu. Cái cách ông đi khoe việc Tây đốt sạch nhà của ông là biểu hiện cụ thể ý chí “Thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước” của người nông dân lao động bình thường. Việc ông kể rành rọt về trận chống càn ở làng chợ Dầu thể hiện rõ tinh thần kháng chiến và niềm tự hào về làng kháng chiến của ông.

Nhân vật ông Hai để lại một dấu ấn không phai mờ là nhờ nghệ thuật miêu tả tâm lí tính cách và ngôn ngữ nhân vật của người nông dân dưới ngòi bút của Kim Lân. Tác giả đặt nhân vật vào những tình huống thử thách bên trong để nhân vật bộc lộ chiều sâu tâm trạng. Miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại. Ngôn ngữ của Ông Hai vừa có nét chung của người nông dân lại vừa mang đậm cá tính nhân vật nên rất sinh động.

Thành công nổi bật của truyện “Làng” trước hết là ở sự sáng tạo tình huống truyện bất ngờ mà tự nhiên, ở nghệ thuật xây dựng nhân vật, nhất là miêu tả tâm lí nhân vật chính – ông Hai. Ngoài ông Hai, nhân vật phụ như mụ chủ nhà cũng được miêu tả khá sinh động, từ ngôn ngữ đến tâm lí, tính cách.

Góp vào thành công của truyện còn phải kể đến nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ – ngôn ngữ nhân vật và người trần thuật. Kim Lân vốn rất am hiểu và gần gũi với những nhân vật quần chúng của mình, nhà văn để họ được nói năng, suy nghĩ, hành động một cách hết sức tự nhiên mà bộc lộ được tâm lí, tính cách. Ngôn ngữ của ông Hai – cả trong những lời đối thoại và lời độc thoại – đều rỗ là lời ăn tiếng nói, cách nghĩ của một ông lão nông dân vốn gắn bó tha thiết với làng quê và rất thành tâm với cách mạng, với kháng chiến.

Nghệ thuật trần thuật của truyện Làng cũng khá đặc sắc. Tuy lời trần thuật vẫn ở ngôi thứ ba vô hình, nhưng quan điểm và ngôn ngữ của người trần thuật thống nhất với quan điểm và ngôn ngữ của nhân vật chính, nhiều chỗ nhập vào dòng tâm tư của nhân vật ông Hai.

  • Kết bài:

Qua nhân vật ông Hai, người đọc thấm thía tình yêu làng, yêu nước rất mộc mạc, chân thành mà vô cùng sâu nặng, cao quý trong những người nông dân lao động bình thường. Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yếu đất nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kháng chiến chống Pháp đã chú trọng làm nổi bật. Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân là một trong những thành công đáng quý.


Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải).

I. Mở bài:

– Là một nhà thơ cách mạng, sự nghiệp thơ văn của ông gắn với 2 cuộc kháng chiến của dân tộc.
Thanh Hải để lại một số lượng tác phẩm không nhiều nhưng vẫn tạo được dấu ấn riêng nhờ vẻ đẹp bình dị, trong sáng, ngôn ngữ thơ giàu nhạc điệu, cảm xúc chân thành, đằm thắm.

– Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được viết vào tháng 11 năm 1980 – thời điểm Thanh Hải ốm nặng và chỉ mấy tuần lễ sau ông qua đời. Được sáng tác trong hoàn cảnh đặc biệt nhưng bao trùm bài thơ lại là tình yêu, là sự gắn bó thiết tha với quê hương, đất nước, là cả một khát vọng sống đẹp của tác giả.

II. Thân bài:      

1. Khổ thơ đầu: Mùa xuân của thiên nhiên, đất trời và lòng người.

– 6 câu thơ đầu của bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” tác giả Thanh Hải đã vẽ nên một bức tranh xuân xứ Huế tươi đẹp, tràn đầy sức sống. Màu sắc, đường nét trong tranh tươi tắn, hài hòa: “Mọc giữa dòng sông xanh / Một bông hoa tím biếc”

+ Một màu tím biếc nổi bật trên sắc xanh hiền hòa của dòng sông.

+ Động từ “mọc” đảo lên trước có tác dụng nhấn mạnh một sức sống mạnh mẽ ẩn chứa bông hoa bé nhỏ đang trỗi dậy khoe sắc tỏa hương.

+ Không gian rộng mở, phóng khoáng từ dòng sông đến bầu trời.

→ Cách tạo hình và phối màu ấn tượng khiến cảnh hiện lên trong trẻo và rất đỗi thân thương, gần gũi.

– Bức tranh xuân thêm sống động khi xuất hiện âm thanh tiếng chim chiền chiện

+ Từ cảm thán “ơi” bộc lộ nỗi xúc động, niềm vui ngây ngất của nhà thơ khi lắng nghe tiếng chim chiến chiện vang lên giữa không gian mùa xuân.

+ “Đưa tay… hứng”: một cử chỉ bình dị nhưng ẩn chứa sự trân trọng, niềm say sưa ngây ngất của nhà thơ khi muốn hứng lấy giọt long lanh tuyệt diệu của đất trời.

+ “Giọt long lanh” là sự liên tưởng đầy chất thơ thể hiện sự sáng tạo của Thanh Hải. Có thể “giọt long lanh” là giọt sương sớm mai còn đọng trên cành non cỏ biếc hay là giọt mưa xuân tiếp thêm nhựa sống cho cây cối tốt tươi. Cũng có thể đó là giọt âm thanh, là tiếng hót kì diệu của chú chim trong cảm nhận rất riêng của tác giả. Phép ẩn dụ chuyển đổi cảm giác khiến cho tiếng hót kì diệu của chú chim thành một thể lỏng, giọt âm thanh có hình khối, màu sắc long lanh, đẹp đẽ trong cảm nhận rất riêng của nhà thơ. Giọt âm thanh ấy thả mình giữa không gian mùa xuân, thổi bừng sức sống cho cảnh vật.

+ Rất độc đáo, nhà thơ đã đón nhận thanh âm ấy bằng nhiều giác quan khác nhau. Nhưng dù hiểu theo cách nào ta cũng cảm nhận được ở đó là niềm say sưa, ngây ngất của tác giả trước không gian căng tràn nhựa sống của mùa xuân. Hình ảnh thơ trong sáng, lời thơ giàu tính nhạc khiến sáu câu thơ như tiếng reo vui đón chào mùa xuân đẹp đẽ!

2. Khổ thơ 2, 3: Những cảm nhận sâu sắc về mùa xuân của đất nước, của cách mạng.

– Mùa xuân tưng bừng, phơi phới với hai nhiệm vụ chính: bảo vệ đất nước và lao động sản xuất xây dựng đất nước.

– Điệp ngữ “mùa xuân” đã góp phần nhấn mạnh không gian xuân phơi phới đang lan tỏa khắp nơi noi.

Từ “lộc” cũng được điệp lại nhiều lầ Đây là chồi non lộc biếc căng tràn sức sống của vườn ruộng, núi rừng và nó còn tượng trưng cho sự may mắn đầy hứa hẹn.

+ Mùa xuân của đất trời đã theo người cầm súng ra trận: “Lộc giắt đầy trên lưng”. Hình ảnh thơ rất đẹp về những anh lính mang trên lưng cành lá ngụy trang, mang theo cả sức sống bất diệt, tinh thần bất khuất của cả dân tộc vào chiến trường.

+ Mùa xuân của quê hương theo người sản xuất ra đồng: “Lộc trải dài nương mạ”. Bức tranh màu xanh lá mạ hứa hẹn một mùa màng bội thu. Ta cảm nhận được màu xanh của sự sống đã thực sự nảy nở, hồi sinh trên mảnh đất quê hương. Dù họ là những người lính cầm súng hay những người nông dân cầm cuốc, cầm cày thì tất cả đều đang đồng lòng mang sức sống tươi đẹp đến cho mùa xuân của đất nước.

– Điệp ngữ “tất cả” như nhấn mạnh sự đồng lòng, nhất trí của cả dân tộc. Cùng với đó, từ tượng hình, tượng thanh “hối hả”, “xôn xao” khiến cho nhạc thơ vang lên nhịp điệu sôi động, khẩn trường trong một không khí phơi phới lạc quan, tin tưởng.

– Nhà thơ tin tưởng và tự hào vào tương lai tươi sáng của đất nước cho dù trước mắt trải qua nhiều khó khăn, gian khổ

+ Đất nước được so sánh “như vì sao” đẹp đẽ, kì vĩ khẳng định sự trường tồn bền vững của đất nước. Hình ảnh thơ thể hiện lòng tự hào, yêu thương của Thanh Hải với tổ quốc đất nước.

+ Tác giả không quên nhắc nhở mọi người nhớ về những tháng ngày gian khổ trong chiến đấu, cách mạng.

+ Phụ từ “cứ” kết hợp với động từ “đi lên” thể hiện quyết tâm cao độ, hiên ngang tiến lên phía trước dù khó khăn gian khổ

→ Sự lạc quan tin tưởng của nhà thơ ca ngợi sức sống, sự vươn lên mạnh mẽ của đất nước, dân tộc.

3. Khổ thơ 5,6: mùa xuân đất nước.

– Từ mùa xuân lớn của thiên nhiên, đất nước mà tác giả liên tưởng đến mùa xuân trong mỗi con người, mỗi cuộc đời. Một mùa xuân nho nhỏ góp vào mùa xuân lớn của thiên nhiên đất nước.

– Điệp ngữ “ta làm” kết hợp với cụm từ “ta nhập” và gắn với những hình ảnh rất cụ thể “con chim”, “đóa hoa”, “nốt trầm”.

– Ước nguyện cống hiến, đóng góp rất chân thành, giản dị, tự nhiên. Làm con chim góp một tiếng hót trong bản hòa ca của muôn loài, và cũng như bông hoa khoe góp sắc hương trong một vườn hoa để đất nước tươi đẹp hơn. Và đây nữa, một nốt trầm khiêm nhường trong bản hòa âm cho giai điệu cuộc đời thêm phong phú.

– Phải chăng, việc lựa chọn đại từ xưng hô “ta” đã nói thay cho nhiều cái “tôi” khác? Có lẽ, đó cũng là ước nguyện của rất nhiều người ước nguyện mong muốn được đóng góp chút công sức nhỏ bé của mình cho cuộc đời tươi đẹp này.

– Nhà thơ Thanh Hải sử dụng ẩn dụ chuyển đổi cảm giác thật khéo trong hình ảnh: “Một mùa xuân nho nhỏ/Lặng lẽ dâng cho đời” .

+ Mùa xuân là một khái niệm trừu tượng chỉ thời gian, là mùa đẹp nhất trong năm, là lúc cây cối đâm chồi nảy lộc, muộn họa khoe sắc tỏa hương, vạn vật thêm sức sống mới. Hình ảnh mùa xuân là biểu tượng cho những gì tinh túy nhất, đẹp đẽ nhất của thiên nhiên, đất trời và của con người.

+ Từ “mùa xuân” kết hợp với từ “nho nhỏ”, “lặng lẽ” thể hiện sự khiêm nhường, mong muốn đóng góp những gì tinh túy tốt đẹp nhất của cuộc đời mình cho đất nước, giống như góp một “mùa xuân nho nhỏ” vào mùa xuân lớn của đất nước. Đó là lẽ sống đẹp, cao cả, bởi lẽ “Sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình” (Tố Hữu).

+ Ta cảm nhận được trong từng lời thơ là khát vọng hòa nhập, cống hiến chân thành khiêm tốn nhưng vô cùng mãnh liệt, bất chấp thời gian, tuổi tác: “Dù là tuổi hai mươi / Dù là khi tóc bạc”. Cách nói hoán dụ “tuổi hai mươi” để chỉ tuổi trẻ mạnh mẽ, đầy sức sống, “tóc bạc” là khi tuổi đã về già. Bài thơ viết một tháng trước khi tác giả trở về cát bụi nhưng không gợn chút băn khoăn về bệnh tật, về những suy nghĩ riêng cho bản thân mà chỉ lặng lẽ một khát vọng dâng hiến.

+ Điệp ngữ “dù là” được nhắc lại hai lần nhằm khẳng định sự cống hiến chân thành, vô điều kiện. Đó là ước nguyện cống hiến thật đáng quý, đáng khâm phục!

– Ước vọng của nhà thơ Thanh Hải thật giản đơn, thật khiêm nhường, sự chân thành tuyệt đối, thể hiện lòng yêu cuộc đời tha thiết, mãnh liệt, thể hiện vẻ đẹp trong tâm hồn của một thi nhân đã ở tuổi gần đất xa trời, nhưng tâm hồn vẫn trong trẻo và xuân sắc vô cùng.

4. Ngợi ca quê hương đất nước qua điệu hát dân ca Huế.

– Cả bài thơ giống như làn điệu dân ca Huế mượt mà, trữ tình và sâu lắng. Bài thơ khép lại với điệu Nam ai, Nam bình của xứ Huế để ca ngợi vẻ đẹp và nỗi niềm của người con xứ Huế. Khúc ca còn ngân vang mãi từ tâm hồn của người lạc quan, yêu đời, khát khao sống có ích

5. Nghệ thuật biểu hiện:

– Mở đầu bài thơ Thanh Hải vẽ lên khung cảnh tươi đẹp của mùa xuân và sự hối hả, rộn rã của con người trong công cuộc dựng xây và bảo vệ tổ quố Khổ thơ cuối là nguyện ước chân thành, tha thiết của ông được cống hiến một phần nhỏ bé cho cuộc đời.

– Hai khổ thơ đầu và hai khổ thơ sau có sự chuyển biến rõ nét, được thể hiện qua sự thay đổi đại từ nhân xưng: chủ thể trữ tình từ “tôi” sang “ta”. Điều này không phải ngẫu nhiên mà đã được tác giả sử dụng như một dụng ý nghệ thuật thích hợp với sự chuyển biến của cảm xúc và tư tưởng trong bài thơ.

– Trong phần mở đầu, khi bày tỏ cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên, tác giả viết: “Tôi đưa tay tôi hứng”. Đại từ tối thể hiện cái tôi rất riêng của nhà thơ và sự nâng niu trân trọng vẻ đẹp và sự sống của mùa xuân. Nếu thay bằng chữ “ta” sẽ không thích hợp với nội dung cảm xúc ấy, thậm chí có vẻ áp đặt phố trường.

– Trong phần sau, khi bày tỏ tâm niệm tha thiết như một khát vọng được dâng hiến những giá trị tinh túy của đời mình cho cuộc đời chung thì đại từ “ta” lại tạo được sắc thái trang trọng, thiêng liêng của lời lời nguyện ước. Hơn nữa, tâm nguyện ấy không chỉ của riêng nhà thơ, cái “tôi” của tác giả đã nói thay cho nhiều cái “tôi” khác, nó nhất thiết phải hóa thành cái “ta”. Nhưng cái “ta” không hề chung chung vô hình mà vẫn nhận ra một giọng nhỏ nhẹ, khiêm nhường, đằm thắm của cái “tôi” của nhà thơ. Cả hai phần thơ đã thể hiện một Thanh Hải yêu đời, yêu cuộc sống tha thiết, sâu nặng.

III. Kết bài:

– Bài thơ thành công tái hiện vẻ đẹp của mùa xuân đất nước tươi sáng, tràn đầy sức sống. Qua đó ngợi ca sự hồi sinh của đất nước trên chặng đường mới và bày tỏ lẽ sống đẹp đẽ, cao cả, đó là sẵn sàng dâng hiến cuộc đời mình cho đất nước, quê hương.

– Thể thơ 5 chữ, cách gieo vần liền giữa các khổ thơ tạo sự liền mạch của cảm xúc. Ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, trong sáng. Cảm xúc chân thành, tha thiết.


Những ngôi sao xa xôi (Lê Minh Khuê)

  • Mở bài:

Có thể nói, viết về hình ảnh của những thanh niên xung phong trên tuyến đườngTrường Sơn trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước là đề tài trọng tâm của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX. Lê Minh Khuê đến sau trong đề tài này nhưng cũng kịp có những trang viết xuất sắc. Truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” là tác phẩm đầu tay, đánh dấu bước thành công của nhà văn. Ba nữ thanh niên xung phong trong truyện vừa mang vẻ đẹp của những cô gái tuổi mười tám, đôi mơi hồn nhiên giàu mộng mơ, lại vừa mang vẻ đẹp của người lính giữa chiến trường gan dạ, dũng cảm không sợ hi sinh. In đậm nhất trong tâm trí bạn đọc là hình ảnh nhân vật chính Phương Định, cô “hoa hậu” trên tuyến lửa ác liệt.

  • Thân bài:

– Lê Minh Khuê là nữ nhà văn đã từng có năm tháng tuổi trẻ gắn bó với những con đường Trường Sơn mưa bom, bão đạn, từng chứng kiến, trải qua và chia sẻ những gian khổ, hi sinh của người lính giữa chiến trường. Bởi vậy những trang viết của bà về con người và cuộc sống nơi đây thật chân thực và xúc động vô cùng. Ở “Những ngôi sao xa xôi” cũng vậy, hiện thực cuộc sống giữa chiến trường và hình ảnh những nữ thanh niên xung phong với cuộc sống gian khổ một thời cứ hiện lên sống động sau từng câu chữ. Ấn tượng sâu đậm nhất mà Lê Minh Khuê để lại trong lòng bạn đọc ở “Những ngôi sao xa xôi” là hình ảnh những con người dũng cảm, có tinh thần trách nhiệm cao, có tình đồng chí, đồng đội sáng ngời, có tâm hồn trong trẻo, giàu mơ mộng, và nhạy cảm. Tất cả những vẻ đẹp ấy được thể hiện tập trung nhất ở nhân vật Phương Định, và chủ yếu qua đời sống nội tâm của cô.

1. Hoàn cảnh sống và chiến đấu đầy gian khổ:

Phương Định cùng những người đồng đội của mình ở trong một cái hang dưới chân cao điểm, giữa một vùng trọng điểm trên tuyến đường Trường Sơn, nơi tập trung nhiều nhất bom đạn, sự nguy hiểm và ác liệt, từng ngày từng giờ phải đối mặt với bom rơi, đạn nổ. Có biết bao thương tích vì bom đạn giặc: “Đường bị đánh lở loét, màu đất đỏ, trắng lẫn lộn. Hai bên đường không có lá xanh. Chỉ có những thân cây bị tước khô cháy. Những cây nhiều rễ nằm lăn lóc. Những tảng đá to. Một vài cái thùng xăng hoặc thành ô tô méo mó, han gỉ nằm trong đất”.

Đó là hiện thực đầy mùi chiến tranh, không có màu xanh của sự sống, chỉ thấy thần chết luôn rình rập. Công việc của các cô đặc biệt nguy hiểm. Các cô phải chạy trên cao điểm giữa ban ngày, phơi mình ra giữa vùng trọng điểm đánh phá của máy bay địch để đo và ước tính khối lượng đất đá lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom. Nhiệm vụ của họ thật quan trọng nhưng cũng đầy gian khổ, hi sinh, phải mạo hiểm với cái chết, luôn căng thẳng thần kinh, đòi hỏi sự dũng cảm và bình tĩnh hết sức.

2. Vẻ đẹp của Phương Định:

Cuộc sống gian khổ giữa chiến trường ác liệt, công việc đầy nguy hiểm và luôn phải đối mặt với cái chết, nhưng Phương Định vẫn giữ được sự hồn nhiên, trong sáng của tuổi trẻ, luôn thể hiện tinh thần dũng cảm không sợ hi sinh, lòng lạc quan và tình đồng đội gắn bó sâu sắc. Cô ngời sáng lên vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu, vẻ đẹp của thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ.

a. Lí tưởng sống cao đẹp, tinh thần dũng cảm:

Vẻ đẹp của nhân vật Phương Định được tỏa sáng ở lí tưởng sống cao đẹp và tinh thần dũng cảm, không sợ gian khổ, hi sinh. Rời ghế nhà trường phổ thông, Phương Định xung phong ra mặt trận, cùng thể hệ của mình “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/Mà lòng phơi phới dậy tương lai” để giành độc lập, tự do của Tổ quốc. Cô ra đi mà không tiếc tuổi thanh xuân, nguyện dâng hiến hết mình cho đất nước:

“Ôi Tổ quốc! Nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông…”

Đối mặt với nguy hiểm, cô và những người đồng đội của mình thật sự là những anh hùng. Phương Định nghĩ về hoàn cảnh sống nơi đây một cách giản dị và cho là có cái thú riêng: “Có ở đâu như thế này không: đất bốc khói, không khí bàng hoàng, máy bay đang ầm ì xa dần. Thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn biết rằng khắp chung quanh có nhiều quả bom chưa nổ. Có thể nổ bây giờ, có thể chốc nữa. Nhưng nhất định sẽ nổ…”. Công việc phá bom đầy nguy hiểm và phải luôn đối mặt với thần chết được cô kể với giọng điệu bình thản, pha sự hóm hỉnh: “Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít: ba lần”. Thật là biết đùa trước gian khó.

Đặc biệt, hi sinh mất mát của bản thân cũng được Phương Định coi hết sức nhẹ nhàng: “Tôi bây giờ vẫn còn một vết thương chưa lành miệng ở đùi. Tất nhiên Tôi không vào viện quân y”. Nếu không có cái nhìn lạc quan và một tinh thần dũng cảm thì Phương Định không thể có cách nói bình thản như thế. Cuộc sống nơi chiến trường luôn đối mặt với thử thách, nguy hiểm và cái chết đã tôi luyện ở Phương Định lòng quả cảm, không sợ hi sinh.

Tâm lí Phương Định trong một lần phá bom được miêu tả rất cụ thể, tinh tế đến từng cảm giác. Khung cảnh và không khí chưa đầy sự căng thẳng nhưng Phương Định vẫn có nét tâm lí rất con gái, cảm giác: “Có ánh mắt các chiến sĩ dõi theo mình” để rồi sự dũng cảm ở cô như được kích thích bởi lòng tự trọng: “Tôi đến gần quả bom,… tôi không sợ nữa. Tôi sẽ không đi khom. Các anh ấy không thích cái kiểu đi khom khi có thể cứ đường hoàng mà bước tới”. Ở bên quả bom, cận kề với cái chết im lìm và bất ngờ, từng cảm giác của con người cũng trở nên sắc nhọn: “Thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người, cứa vào da thịt tôi. Tôi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí! Vỏ quả bom nóng. Một dấu hiệu chẳng lành”. Tiếp đó, là cái giây phút căng thẳng chờ đợi tiếng nổ của quả bom. Phương Định có nghĩ đến cái chết nhưng là “một cái chết mờ nhạt, không cụ thể”, còn cái chính vẫn là: “liệu mìn có nổ, bom có nổ không?”. Đây là một trách nhiệm rất cao trong công việc, là lòng dũng cảm vô song. Có thể khẳng định rằng: Phương Định và những đồng đội của cô thực sự là những người anh hùng, nhưng là những anh hùng mà không tự biết. Chính điều đó, khiến cho nhân vật Phương Định trở nên đáng mến.

b. Vẻ đẹp hồn nhiên, mơ mộng, và tinh nghịch của Phương Định:

Nét nổi bật và cũng là điểm hấp dẫn nhất ở Phương Định chính là vẻ đẹp của một tâm hồn trong sáng, hồn nhiên và mơ mộng: Phương Định là nữ sinh của thủ đô thanh lịch bước vào chiến trường. Cô có một thời học sinh – cái thời áo trắng ngây thơ, hồn nhiên và vô tư sống bên mẹ trong một căn buồm nhỏ ở một đường phố yên tĩnh. Những hoài niệm của cô về thời học trò thật đáng yêu, luôn sống trong cô ngay giữa chiến trường dữ dội. Nó vừa là niềm khao khát, vừa làm dịu mát tâm hồn trong hoàn cảnh căng thẳng, khốc liệt của chiến tranh.

Sau những giây phút căng thẳng ở cao điểm, xong việc là thở phào chạy vào hàng, là sà ngay vào một thế giới khác- thế giới con gái với những mơ mộng: nằm dài trên nền ẩm, lười biếng nheo mắt nghe ca nhạc từ cái đài bán dẫn nhỏ, có thể nghe, có thể nghĩ ngợi lung tung… Phương Định mê hát và thích nhiều bài hát: những bài hành khúc bộ đội hay hát trên những ngả đường mặt trận; thích dân ca quan họ mềm mại, dịu dàng; thích Ca-chiu-sa của hồng quân Liên Xô; thích ngồi bó gối mơ màng trước lời bài hát dân ca Ý trữ tình… Thích hát, Phương Định còn bịa ra lời mà hát, ngồi dựa vào thành đá và khe khẽ hát. Rõ ràng, thích hát là nét tâm lí của thời đại – cái thời tiếng hát át tiếng bom, nhưng đây cũng là nét cá tính ở Phương Định hé lộ vẻ đẹp phong phú của tâm hồn. Trong tiếng hát, có ý thức về lý tưởng, có khao khát về quê hương, tình yêu của tuổi trẻ và có cả khát vọng được trở về cuộc sống thanh bình.

Cũng như bao cô gái mới lớn, Phương Định rất nhạy cảm và quan tâm đến hình thức của mình. Phương Định đẹp với “hai bím tóc dày tương đối mềm, một cái cổ cao kiêu hãnh như đài hoa loa kèn” “đôi mắt nâu nâu dài dài hay nheo lại như chói năng, hay có cái nhìn xa xăm”. Biết mình đẹp, cô thích ngắm mình trong gương, có chút kiêu ngầm khi biết mình được các anh pháo thủ và lái xe thăm hỏi. Cô vui và tự hào về điều đó nhưng không hay biểu lộ tình cảm của mình mà thường rỏ ra kín đáo giữa đám đông. Lê Minh Khuê đã rất tinh tế khi phát hiện ra cái nét tâm lí kiêu ngầm ấy ở Phương Định. Đó là cái kiêu ngầm của một cô gái trẻ có ý thức sâu sắc về vẻ đẹp cuộc sống. Chính nét tâm lí rất đời thường, rất con gái này khiến nhân vật Phương Định càng trở nên gần gũi, chân thực và đáng yêu.

Vẻ đẹp tâm hồn Phương Định ngời sáng nhất khi cơn mưa đá bất ngờ ập đến. Chỉ một cơn mưa đá mà bao ngột ngạt, căng thẳng, hiểm nguy của chiến trường tan biến, để nhường chỗ cho niềm vui con trẻ òa nở, cuống cuồng: “Mưa đá! Cha mẹ ơi! Mưa đá!”. Chỉ một trận mưa đá vụt đi qua cũng đánh thức ở Phương Định rất nhiều kỉ niệm và nỗi nhớ về thành phố, quê hương, về gia đình, về tuổi thơ thanh bình của mình.

Sau cái say sưa của niềm vui con trẻ là nỗi nhớ da diết khôn nguôi. Nhớ rất nhiều: người mẹ, cái cửa sổ ngôi nhà, những ngôi sao to trên bầu trời thành phố, cái cây, vòm trời của nhà hát, bà bán kém và đám trẻ háo húc vây quanh; con đường nhựa sau cơn mưa, những ngọn đèn trên quảng trường lung linh như những ngôi sao trong truyện cổ tích nói về xứ sở thần tiên… Tất cả vừa rõ ràng, vừa mờ ảo; vừa đồng hiện, vừa vụt hiện trong tâm trí; vừa gần gũi, vừa xa xôi. Những hòai niệm làm dịu cơn khát, những cơn khát cháy lòng, những hi vọng xa xôi. Tất cả ào đến, xoáy mạnh cũng mãnh liệt, dữ dội như con mưa đá. Tất cả làm thành hành trang tâm hồn của cô thanh niên xung phong, tiếp cho cô sức mạnh, thắp cho cô niềm tin và tỏa sáng vẻ đẹp của người chiến sĩ Trường Sơn, của những ngôi sao xa xôi.

c. Tình đồng chí, đồng đội nồng ấm:

Ở Phương Định nét đẹp còn được ngời sáng trong tình đồng đội thắm thiết. Cô luôn yêu thương trìu mến và quan tâm đến đồng đội. Cô lo lắng cho chị Thao và Nho lên cao điểm chưa về đến nỗi “nói như gắt vào máy” khi đại đội trưởng hỏi tình hình. Cô hiểu chị Thao và Nho như biết về những chị em ruột thịt. Đó là chị Thao sợ máu và vắt nhưng khi chiến đấu lại rất dũng cảm. Trong cuộc việc, ai cũng gờm chị bởi sự bình tĩnh, cương quyết, táo bạo. Với Nho, cô em út của tổ trinh sát thì Phương Định rất muốn bế trên tay. “trông nói nhẹ mát như một que kem trắng. Biết bao trìu mến, yêu thương trong cái nhìn ấy. Khi Nho bị thương, cô vỗ về và chăm sóc như một người y tá: “moi đất, bế Nho đặt lên đùi”, “rửa cho Nho bằng nước đun sôi trên bếp than”, “tiêm cho Nho” rồi “pha sữa trong cái ca sắt…”.

Đặc biệt, cô dành tình yêu và niềm cảm phục cho tất cả những chiến sĩ mà cô gặp ngày đêm trên con đường ra mặt trận. Với cô “những người đẹp nhất, thông minh, cam đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục có ngôi sao trên mũ”. Tình đồng chí đồng đội của Phương Định thật thiêng liêng, cao cả và đáng quý! Chính điều đó đã tiếp thêm sức mạnh cho cô để cô hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.

3. Đánh giá:

Có thể nói, xây dựng nhân vật Phương Định, Lê Minh Khuê đã chọn được những phương thức trần thuật hợp lí khi nhà văn đặt điểm nhìn vào nhân vật chính của mình để nhân vật tự kể chuyện. Nhờ vậy, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật – tâm lí Phương Định đạt đến độ tinh tế nhất. Ngôn ngữ trần thuật qua nhân vật chính làm cho tác phẩm có giọng điệu, ngôn ngữ tự nhiên gần với khẩu ngữ, trẻ trung, nữ tính. Lời kể linh hoạt, cùng câu ngắn dài, nhịp nhanh tạo không khí chiến trường, nhịp kể chậm lại khi hồi tưởng như gợi nhớ kỉ niệm của tuổi thơ êm đềm… Tất cả góp phần tạo nên một nhân vật chính – một Phương Định thật như ở ngoài đời và một Phương Định rất Hà Nội.

Qua dòng suy nghĩ và tâm trạng của nhân vật Phương Định, cuộc sống chiến đấu của các cô thanh niên xung phong được tái hiện đầy đủ, chân thực và sinh động với vẻ đẹp tỏa sáng. Hình tượng về những nữ thanh niên xung phong Trường Sơn không hiếm trong văn học chống Mĩ, song với những sáng tạo riêng của mình, Lê Minh Khuê trong truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” đã làm nổi bật tâm hồn trong sáng giàu mơ mộng, cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ, sự hi sinh và rất lạc quan của họ. Đó là hình ảnh đẹp, tiêu biểu cho thể hệ trẻ Việt Nam đã sống và chiến đấu, hi sinh tuổi thanh xuân của mình cho Tổ quốc thân yêu:

“Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”.

(“Đất nước” – Nguyễn Khoa Điềm).

  • Kết bài:

Thanh niên xung phong, Phương Định, Nho,chị Thao, mười cô gái ngã ba Đồng Lộc và bao nhiêu cô gái mở đường khác trên tuyến lửa Trường Sơn đã “Xẻng tay mà viết nên trang sử hồng” (Tố Hữu). Vẻ đẹp của họ mãi mãi tỏa sáng như vì sao lấp lánh trên bầu trời, trong sự cảm phục và lòng biết ơn của cả dân tộc:

“Đêm đêm tâm hồn em tỏa sáng
Những vì sao ngời chói lung linh”

(“Khoảng trời hố bom” – Lâm Thị Mĩ Dạ)

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.