doc-hieu-van-ban-thuy-kieu-bao-an-bao-oan-trich-truyen-kieu-cua-nguyen-du

Đọc hiểu văn bản Thúy Kiều báo ân báo oán (trích “Truyện Kiều” của Nguyễn Du)

Đọc hiểu văn bản:

Thúy Kiều báo ân báo oán
(trích Truyện Kiều của Nguyễn Du)

I. Đọc – hiểu chú thích.

1. Tác giả: Nguyễn Du.

2. Tác phẩm:

– Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở cuối phần thứ hai (Gia biến và lưu lạc).

– Bố cục gồm 2 phần:

+ Phần 1. Từ “Cho gươm mời đến Thúc Lang” đến “Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”: Thúy Kiều báo ân Thúc Sinh.

+ Phần 2. Còn lại. Thúy Kiều báo oán Hoạn Thư.

– Nội dung: Sau khi chịu nhiều đau khổ, Thúy Kiều được Từ Hải cứu thoát khỏi lầu xanh và giúp nàng đền ơn, trả oán. Đoạn trích trên tả cảnh Thúy Kiều báo ân báo oán.

II. Đọc – hiểu văn bản

1. Thúy Kiều báo ân cho Thúc Sinh:

– Hoàn cảnh: Sau khi cứu Kiều thoát khỏi lầu xanh, Từ Hải không chỉ cho nàng một danh phận mà còn giúp Kiều báo ân, báo oán.

– Người được mời đến đầu tiên là Thúc Sinh: ‘Cho gươm mời đến Thúc lang – Kiều nghĩ đến chuyện báo ân trước, cho thấy nàng là người có tấm lòng nhân hậu.

– Hình ảnh Thúc Sinh: “Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run” – hoảng sợ, bước đi không vững. Hình ảnh phù hợp với tính cách của Thúc Sinh: tốt bụng nhưng quá nhu nhược, không dám bảo vệ người mình yêu.

– Lời nói của Thúy Kiều thể hiện sự trân trọng hành động cứu giúp trước đây của Thúc Sinh:

Nàng rằng: “Nghĩa nặng nghìn non,
Lâm Tri người cũ chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
Tại ai há dám phụ lòng cố nhân?…

– Ân tình của Thúc Sinh đối với Kiều: cứu nàng ra khỏi lầu xanh, tức là giúp nàng thoát khỏi cuộc đời ô nhục. Thời gian sống cùng Thúc Sinh tuy ngắn ngủi nhưng yên ổn, hạnh phúc.

– Hai chữ “người cũ” biểu hiện tấm lòng biết ơn của nàng, tuy không thể tiếp tục chung sống nhưng vẫn trân trọng tình nghĩa của Thúc Sinh.

– Thúy Kiều hiểu được hoàn cảnh éo le của Thúc Sinh, nên không oán trách mà còn “Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân” để đền đáp ơn nghĩa của chàng “Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là”.

– Sau đó, nàng nhắc đến Hoán Thư với những vết thương còn rỉ máu:

Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau.
Kiến bò miệng chén chưa lâu,
Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.

→ Việc sử dụng những thành ngữ “kẻ cắp gặp bà già”, “kiến bò miệng chén” kết hợp với lời khẳng định “Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa” hứa hẹn một cuộc báo oán dành cho Hoạn Thư.

2. Thúy Kiều báo oán Hoạn Thư.

* Thái độ, lời lẽ của Kiều:

– Thúy Kiều gặp lại Hoạn Thư trong hoàn cảnh vị thế đã thay đổi: Kiều ở vị thế của người xét xử, Hoạn Thư là người mang tội.

– Nhưng Kiều vẫn xưng hô như trước: “Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây”

– Thái độ mỉa mai, đay nghiến Hoạn Thư: “Dễ dàng là thói hồng nhan/Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều”

Lời lẽ, thái độ của Kiều cho thấy nàng quyết tâm trừng trị Hoạn Thư.

* Thái độ, lời lẽ của Hoạn Thư:

– Trước lời lẽ của Kiều, Hoạn Thư cũng “hồn lạc phách xiêu” và “khấn đầu dưới trướng liệu điều kêu ca”: đầy sự sợ hãi.

– Nhưng với bản chất khôn ngoan của mình, Hoạn Thư đã nhanh chóng lấy lại tinh thần để biện minh cho mình:

Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình.

Lí lẽ tưởng chừng như vô cùng hợp lý khi đưa bản thân về phía Kiều – cùng chung hoàn cảnh là “phận đàn bà”, việc “ghen tuông” cũng là thường tình. Hoạn Thư đưa ra lập luận để Kiều thấy mình chỉ là nạn nhân của chế độ đa thê.

– Hoạn Thư còn kể lại công lao của mình:

Nghĩ cho khi gác viết kinh,
Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.

Hai câu thơ nhắc lại việc Hoạn Thư cho Thúy Kiều ra gác ở Kinh Quan Âm, cũng như không bắt nàng khi bỏ trốn. Dường như Hoạn Thư từ tội nhân đã trở thành ân nhân của Kiều – sự khôn ngoan.

– Cuối cùng, Hoạn nhận hết tội lỗi về mình:

Trót lòng gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng.

– Hoạn Thư đã biết đánh vào tấm lòng nhân hậu, thương người của Kiều. ĐIều đó cho thấy sự “sâu sắc từng trải” cũng như “khôn ngoan đến mức tinh quái”.

– Lời lẽ ấy khiến Kiều buộc phải khen:

Khen cho: Thật đã nên rằng,
Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời.

→ Sự khó xử của Kiều, không biết nên tha thứ hay xử tội.

– Cuối cùng nàng quyết định:

Đã lòng tri quá thì nên,
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền tha ngay.

Quyết định đó không chỉ xuất phát từ lời lẽ thuyết phục của Hoạn Thư mà quan trọng là đến từ tấm lòng nhân hậu của Kiều.

III. Tổng kết.

1. Nội dung:

– Đoạn trích “Thúy Kiều báo ân, báo oán” đã thể hiện được ước mơ công lí, chính nghĩa của nhân dân “ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác”.

2. Nghệ thuật:

ngôn ngữ đối thoại độc đáo, sử dụng nhiều thành ngữ…


* Trả lời câu hỏi SGK:

Trả lời câu 1 (trang 108 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

a. Qua lời Kiều nói với Thúc Sinh, em thấy Kiều là người thế nào?

b. Tại sao khi trả ơn Thúc Sinh, Kiều lại nói với Thúc Sinh về Hoạn Thư? Có sự khác nhau như thế nào trong ngôn ngữ của Kiều nói với Thúc Sinh và khi nói về Hoạn Thư.

Trả lời:

a.

– Chàng Thúc Sinh khi được “gươm mời đến” thì “Mặt như chàm đổ, mình dường dẽ run”. Thúc Sinh run vì nhiều lẽ: trước cảnh ba quân gươm giáo sáng loà, run ; được chứng kiến Thuý Kiều đã trừng trị những kẻ đã gây bao đau khổ cho đời nàng như thế nào lại càng dễ run hơn nữa. Thúc Sinh không thể nghĩ rằng mình lại được trả ân bằng “gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân” bởi trong thực tế, chàng ta chẳng có công lao gì nhiều với Thuý Kiều. Ngay cả khi chứng kiến vợ mình hành hạ Thuý Kiều, Thúc Sinh cũng chỉ biết ngậm đắng nuốt cay, không biết bênh vực thế nào.

Vậy tại sao Thúc Sinh lại được Thuý Kiều “báo ân” hậu hĩnh như thế? Lí giải được điều này, chúng ta sẽ hiểu thêm về Thuý Kiều, từ đó càng hiểu thêm nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Du. Nhân vật Thuý Kiều đã được xây dựng rất nhất quán từ đầu đến cuối tác phẩm. Dù khi phải dằn lòng trao duyên cho Thuý Vân, khi một mình đối cảnh ở lầu Ngưng Bích hay khi có đủ vị thế để báo ân báo oán sòng phẳng thì Thuý Kiều vẫn luôn là người nặng tình nặng nghĩa:

Nàng rằng: “Nghĩa nặng tình non
Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?
Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng
Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?
Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân.
Tạ lòng, dễ xứng báo ân gọi là…”.

Lí lẽ của Thuý Kiều rất rõ ràng: đây không phải là sự báo ân mà là sự trả nghĩa, đúng hơn là trả cái tình mà Thúc Sinh đã dành cho nàng trước đây. Như vậy, đối với Thúc Sinh, Thuý Kiều đã không xử bằng lí mà bằng cái tình của nàng. Điều này có vẻ như không hợp với cách nghĩ thông thường, không thoả mãn được một số bạn đọc khó tính nhưng chính ở đây lại làm bật lên giá trị nghệ thuật của tác phẩm: Nguyễn Du đã không xây dựng nhân vật Thuý Kiều theo một công thức định sẵn. Ngược lại, ông đã tạo nên một nhân vật rất sinh động, rất đời thường. Kiều đã suy nghĩ, nói năng và hành động hoàn toàn hợp với phẩm chất và tính cách của nàng. Điều này càng được chứng minh rõ ràng hơn qua cảnh tiếp theo.

b.

– Khi nói với Thúc Sinh nàng sử dụng nhiều từ Hán Việt: nghĩa, tòng, phụ, cố nhân,… kết hợp với điển cố Sâm Thương. Cách nói trang trọng phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc, đồng thời thể hiện được tấm lòng biết ơn trân trọng của Thúy Kiều.

– Khi nói về Hoạn Thư ngôn ngữ Kiều xuất hiện nhiều từ Thuần Việt: quỷ quái tinh ma, kẻ cắp bà già,… cách nói nôm na, binh dị phù hợp với đối tượng và mục đích giao tiếp.

Trả lời câu 2 (trang 108 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

– Những lời đầu tiên Kiều nói với Hoạn Thư có giọng điệu thế nào?

– Thái độ của Kiều qua giọng điệu ấy?

Trả lời:

– Vị thế giữa hai người phụ nữ đã hoàn toàn đảo ngược. Trước đây, khi Hoạn Thư làm chủ tình thế, Thuý Kiều không những bị đánh đập mà còn bị làm nhục theo một cách thức rất riêng của Hoạn Thư. Nỗi đau tinh thần của Kiều lúc ấy còn lớn gấp hàng chục lần nỗi đau thể xác. Thế nhưng giờ đây, người làm chủ tình thế lại là Thuý Kiều. Chỉ cần nàng phẩy tay một cái, hẳn Hoạn Thư sẽ “thịt nát xương tan”.

Thuý Kiều đã khởi sự “báo oán” như thế nào?

Thoắt trông nàng đã chào thưa:
“Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây!
Đàn bà dễ có mấy tay
Đời xưa mấy mặt, đời này mấy gan!
Dễ dàng là thói hồng nhan,
Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”.

– Ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du thật đáng nể phục. Nàng Kiều duyên dáng, thuỳ mị, “e lệ nép vào dưới hoa” ngày nào, giờ đối diện với kẻ thù, dường như đã hoá ra một con người khác. Nếu như Kiều ra lệnh trừng phạt Hoạn Thư ngay thì không có gì nhiều để bàn luận. Nhưng Kiều đang sung sướng hưởng thụ cảm giác của kẻ bề trên, đang tìm cách dùng lời nói để “rứt da rứt thịt” Hoạn Thư theo đúng cách mà trước đây mụ ta đã đối xử với nàng. Bằng giọng điệu đầy vẻ châm biếm, Kiều gọi Hoạn Thư là “tiểu thư”, cẩn thận báo cho mụ ta biết về “luật nhân quả” ở đời (“Càng cay nghiệt lắm, càng oan trái nhiều”). Kiều tin chắc vào chiến thắng đến mức sẵn sàng chấp nhận đấu khẩu!

– Khi nghe xong những lời “bào chữa” của Hoạn Thư, Thuý Kiều đã xuôi lòng mà tha bổng cho mụ, không những thế lại còn khen: “Khôn ngoan đến mực, nói năng phải lời” và tự nói với mình rằng: “Làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen”.

Kết cục đó có thể bất ngờ với người đọc nhưng lại rất hợp lí với lô gích của tác phẩm. Đoạn “báo ân” với Thúc Sinh đã cho thấy: dù thế nào đi nữa, nàng vẫn là người phụ nữ đa sầu đa cảm, nặng tình nặng nghĩa. Một người phụ nữ như thế, thật khó có thể đối đầu được với một kẻ gian ngoan, quỷ quyệt như Hoạn Thư.

Trả lời câu 3 (trang 108 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Trước thái độ của Kiều, Hoạn Thư đã xử trí ra sao?

Trả lời:

– Thế nhưng Hoạn Thư thật xứng với danh tiếng “Bề ngoài thơn thớt nói cười – Mà trong nham hiểm giết người không dao”:

Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu
Khấu đầu dưới chiếu, liệu điều kêu ca.
Rằng: “Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông thì cũng người ta thường tình…”.

– Giữa dáng điệu bề ngoài với lời nói bên trong của Hoạn Thư có cái gì đó rất mâu thuẫn. Nếu quả thật đã “hồn lạc phách xiêu”, Hoạn Thư khó có thể biện hộ cho mình một cách khéo léo như vậy. Không những khẳng định “ghen tuông chỉ là thói thường của đàn bà”, Hoạn Thư còn kể đến những việc mà tưởng như mụ đã “làm ơn” cho Thuý Kiều: cho ra nhà gác để viết kinh, khi Thuý Kiều trốn đã không đuổi bắt. Đó là những lí lẽ rất khôn ngoan mà Kiều khó lòng bác bỏ được. Thì ra, vẻ “hồn lạc phách xiêu” chỉ là bộ điệu mà mụ ta tạo ra để đánh vào chỗ yếu của Thuý Kiều. Đứng trước cơ hội duy nhất để có thể thoát tội, mụ đã vận dụng tất cả sự khôn ngoan, lọc lõi của mình.

– Qua đó thấy được Hoạn Thư là người “sâu sắc nước đời”, không những làm “chàng Thúc phải ra người bó tay” mà chính Kiều cũng ở vào hoàn cảnh khó xử: “Tha ra thì cùng may đời- Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen”. Tuy nhiên, Kiều đã vượt qua hoàn cảnh khó xử bằng tấm lòng nhân hậu, tha cho Hoạn Thư.

Trả lời câu 4 (trang 108 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Vì sao Thúy Kiều tha bổng cho Hoạn Thư? Những lời cuối cùng Kiều nói cho thấy nàng là người thế nào?

Trả lời:

– Bị những lời bào chữa của Hoạn Thư làm cho thuyết phục.

– Nhưng quan trọng hơn cả là nàng có tấm lòng vị tha bao dung nên đã tha cho Hoạn Thư.

Trả lời câu 5 (trang 108 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1): Phân tích tính cách Kiều và Hoạn Thư.

Trả lời:

Qua đoạn trích có thể thấy:

– Thúy Kiều là người trọng ân nghĩa. Những ai đã giúp đỡ nàng đều được nhớ tới và đến ơn xứng đáng. Còn với Hoạn Thư, nàng kiên quyết trừng phạt. Nhưng trước thái độ khôn ngoan kêu ca “đến mực, phải lời”, Kiều đã tha bổng. Nàng tha Hoạn Thư cho thấy Kiều là người không hẹp hòi, không nhỏ nhen, không cố chấp. Sự rộng lượng của nàng càng làm cho người ta, kể cả Hoạn Thư – kẻ thù, phải tâm phục, khẩu phục.

– Hoạn Thư là một người phụ nữ nham hiểm và hết mực khôn ngoan.


Luyện tập

Phân tích những biểu hiện đa dạng nhưng hợp lí, nhất quán trong tính cách của Thúy Kiều và Hoạn Thư.

Trả lời:

1. Thúy Kiều:

Mọi biểu hiện đa dạng phức tạp trong tính cách Thúy Kiều đều làm nổi bật vẻ đẹp từ tấm lòng vị tha, nhân hậu của nàng.

– Với tấm lòng nhân hậu nàng đã thả Thúc Sinh, ban thưởng hậu hĩnh.

– Không những vậy nàng còn tha bổng cho Hoạn Thư, kẻ đã gây cho Kiều biết bao khổ đau.

2. Hoạn Thư:

Mọi biểu hiện đa dạng phức tạp trong tính cách cho thấy nàng ta là người khôn ngoan, giảo hoạt. Điều này được thể hiện rõ qua lời lẽ tự bào chữa cho mình.


* Tài liệu đọc thêm:

Cảm nhận 8 câu thơ cuối trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang