CHIẾU DỜI ĐÔ
(Thiên đô chiếu, Lý Công Uẩn)
(Ngữ văn 8, tập 1, Kết nối tri thức)
Xưa nhà Thương đến vua Bàn Canh[1] năm lần dời đô[2]; nhà Chu đến vua Thành Vương[3] cũng ba lần dời đô[4]. Phải đâu các vua thời Tam đại[5] theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh[6]. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở nơi đây[7], khiến cho triều đại không được lâu bền, số vận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi[8].
Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương[9]: Ở vào nơi trung tâm trời đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi[10]. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa[11]. Thật là chốn tụ hội trọng yếu[12] của bốn phương đất nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời.
Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế nào?
[1] Bàn Canh: vua thứ mười bảy của nhà Thương, một triều đại rất xưa trong lịch sử Trung Quốc.
[2] Năm lần dời đô: nhà Thương từ vua đầu tiên là Thành Thang đến Bàn Canh đã năm lần dời đô.
[3] Thành Vương: vua thứ ba nhà Chu, triều đại tiếp nối nhà Thương.
[4] Ba lần dời đô: nhà Chu từ Chu Văn Vương qua Chu Vũ Vương đến Chu Thành Vương đã ba lần dời đô.
[5] Tam đại: tên chung chỉ ba triều đại Hạ, Thương, Chu nối tiếp nhau trong lịch sử cổ đại Trung Quốc.
[6] Phồn thịnh: ở trạng thái phát triển tốt đẹp, dồi dào, sung túc.
[7] Nơi đây: chỉ Hoa Lư, nơi triều đình nhà Lí còn đóng đô khi ấy.
[8] Thực ra việc hai triều Đinh, Lê vẫn cứ đóng đô ở Hoa Lư chứng tỏ thế và lực chưa đủ mạnh, vẫn còn phải dựa vào địa thế núi rừng hiểm trở. Đến thời Lí, với sự phát triển lớn mạnh của đất nước thì việc đóng đô ở Hoa Lư là không còn phù hợp nữa.
[9] Cao Vương: tức Cao Biền, viên quan nhà Đường, từng làm Đô hộ sứ Giao Châu (tức nước ta ngày xưa) từ năm 864 đến năm 875.
[10] Thế rồng cuộn hổ ngồi: thế đất giống hình rồng cuộn, hổ ngồi, được coi là thế đất đẹp, sẽ phát triển thịnh vượng.
[11] Thắng địa: chỗ đất có phong cảnh và địa thế đẹp.
[12] Trọng yếu: hết sức quan trọng, có tính chất cơ bản, mấu chốt.
Chiếu là thể văn do vua dùng để ban bố mệnh lệnh. Chiếu có thể viết bằng văn vần, văn biền ngẫu hoặc văn xuôi; được công bố và đón nhận một cách trang trọng. Một số bài chiếu thể hiện tư tưởng chính trị lớn lao, có ảnh hưởng đến vận mệnh của cả triều đại, đất nước.
Năm Canh Tuất niên hiệu Thuận Thiên thứ nhất (1010), Lí Công Uẩn viết bài chiếu bày tỏ ý định dời đô từ Hoa Lư (nay thuộc tỉnh Ninh Bình) ra thành Đại La (tức Hà Nội ngày nay). Văn bản bài Chiếu dời đô ở đây là do Nguyễn Đức Vân dịch.
Nguồn: Thơ văn Lí – Trần, tập I, Nguyễn Đức Vân dịch, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1977