Phân tích sự thất bại thảm hại của quân Thanh và bè lũ vua quan bán nước.
- Mở bài:
Hoàng Lê nhất thống chí là bộ tiểu thuyết chương hồi xuất sắc của Ngô Gia Văn Phái. Đoạn trích là Hồi thứ 14 của tác phẩm. Văn bản khắc họa đậm nét hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công đại phá thần tốc quân Thanh, sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận vua tôi Lê Chiêu Thống. Trong đó, sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống phản nước, hại dân đã được miêu tả hết sức kĩ lưỡng. Các tác giả Ngô Gia Văn Phái có lẽ đã viết lên những lời cay đắng mà bản thân cũng thấy nhục nhã muôn phần về vị vua đớn hèn và bè lũ quan lại bán nước cầu vinh.
- Thân bài:
Thất bại thảm hại của quân Thanh và bè lũ vua quan bán nước được khắc họa chân thực, sinh động, chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Đối lập với hình ảnh nghĩa quân Tây Sơn là chân dung của kẻ thù xâm lược. Tôn Sĩ Nghi kiêu căng, tư mãn, chủ quan. Kéo quân vào Thăng Long dễ dàng ngày đi đêm nghỉ như “đi trên đất ”, cho là vô sự, không đề phòng gì, chỉ lảng vảng ở bên bờ sông, lấy thanh thế suông để doa dẫm.
Hơn nữa y còn là một tên tướng bất tài, cầm quân mà không biết tình hình thực hư ra sao. Dù được vua tôi Lê Chiêu Thống báo trước, y vẫn không chút đề phòng suốt mấy ngày Tết “chỉ chăm chú vào việc yến vui mừng, không hề lo chi đến bất trắc”, cho quân lính mặc sắc vui chơi. Khi quân Tây Sơn đánh đến nơi, tướng thì sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp… chuồn trước qua cầu phao. Quân thì lúc lâm trận “ai đều rụng rời, sợ hãi, xin ra hàng hoặc bỏ chạy toán loạn, gịàỵ xéo lên nhau mà chết”. Quân sĩ các doanh nghe thấy đều hoảng hốt, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa. Cả đội binh hùng, tướng mạnh, chỉ quen diễu võ dương oai bây giờ chỉ còn biết tháo chạy, mạnh ai nấy chạy, “đêm ngày đi gấp, không dám nghỉ ngơi”. *
Cách kể chuyện xen kẽ với những chi tiết tả thực thật cụ thể, chi tiết, sống động cùng với nhịp điệu nhanh, dồn dập, gấp gáp gợi lên sự hoảng hốt của kẻ thù. Ngòi bút miêu tả khách quan nhưng vẫn hàm chứa tâm trạng hả hê, sung sướng của người viết cũng như của dân tộc trước thắng lợi của Sơn Tây.
Số phận thảm hại của bọn vua tôi Lê Chiêu Thống phản nước hại dân cũng được miêu tả hết sức cụ thể, rõ ràng. Lê Chiêu Thống và những bề tôi trung thành của ông ta đã vì lợi ích riêng của dòng họ mà đem vận mệnh của cả dân tộc đặt vào tay kẻ thù xâm lược. Lẽ tất nhiên, họ phải chịu đựng nỗi sỉ nhục của kẻ đi cầu cạnh, van xin, không còn đâu tư cách bậc quân vương, và kết cục cũng phải chiu chung số phận bi thảm của kẻ vong quốc.
Khi có biến, quân Thanh tan rã, Lê Chiêu Thống vội vã cùng mấy bề tôi thân tín “đưa thái hậu ra ngoài”, ngày đêm chạy bán sống bán chết, cướp cả thuyền dân để qua sống. “Luôn mấy ngày không ăn. May gặp người thổ hào thương tình đón về cho ăn và chỉ đường cho chạy trốn. Đến khi đuổi kịp Tôn Sĩ Nghị, vua tôi chỉ còn biết nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt. Sau khi sang đến Trung Quốc phải cạo đầu, tết tóc, ăn mặc giống người Mãn Thanh và cuối cùng gửi nắm xương tàn nơi đất khách quê người”. Nghệ thuật xen kẽ kể với tả sinh động, cụ thể gây ấn tượng mạnh. Ngòi bút đâm chất xót thương của tác giả bề tôi trung thành của nhà Lê. –
Khi miêu tả hai cuộc tháo chạy (một của quân tướng nhà Thanh và một của vua tôi Lê Chiêu Thông), tất cả đều là tả thực, với những chi tiết cụ thể, nhưng âm hưởng lai rất khác nhau. Đoạn miêu tả cảnh Ton Sĩ Nghị cùng quân Thanh tháo chạy có nhịp điệu nhanh, mạnh, hối hả đầy khẩn trương như hồi trống giục quân: “không kịp đóng yên không kịp mặc áo giáp”, “tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông…”. Ngòi bút miêu tả khách quan nhưng vẫn hàm chứa tâm trạng hả hê, sưng sướng, khoái chí của người thắng trận trước sự thảm bại của lũ cướp nước.
Ở đoạn miêu tả bè lũ vua quan Lê Chiêu Trống trốn khỏi thành có nhịp điệu châm hơn, tác giả dừng lại miêu tả tỉ mỉ những giọt nước mắt thương cảm của người thổ hào, nước mắt tủi hổ của vua tôi Lê Chiêu Thống, cuộc thết đãi thịnh tình “ giết gà, làm cơm của kẻ bề tôi… âm hưởng có phẩn ngâm ngùi, chua xót, tủi hổ muôn phần. Là những cựu thần của nhà Lê, các tác giả không thể không mủi lòng trước sự sụp đổ của một vương triều mà mình từng phụng thờ, tuy vẫn hiểu đó là kết cục không thể tránh khỏi.
Bút pháp tả thực vừa hả hê, hoan hỉ, vừa có phần chua chát của tác giả khi miêu tả hai cuộc tháo chạy của quân tướng nhà Thanh và của vua tôi Lê Chiêu Thống. Cảnh tháo chạy của quân tướng nhà Thanh: thảm hại, hèn hạ trước sự miêu tả dưới cái nhìn hả hê, mãn nguyện của người thắng trận. Âm hưởng nhanh, dồn dập gợi tả chiến thắng vang dội trước quân giặc khiến chúng tan tác, thảm hại… Cảnh bỏ chạy của vua tôi Lê Chiêu Thống được miêu tả dài hơn, âm hưởng chậm hơn, toát lên vẻ chua xót, ngậm ngùi
Có sự khác biệt là do: sự tôn trọng tính khách quan khi viết sử, nhưng cũng không thể phủ nhận thái độ chủ quan khi quan sát, nhìn nhận với quân tướng nhà Thanh. Tác giả miêu tả với tâm thế khác với khi miêu tả cuộc tháo chạy của vua tôi Lê Chiêu Thống – đó là vương triều mình phụng thờ.
- Kết bài:
Với quan điểm lịch sử đúng đắn, tác giả đã miêu tả chân thực sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống. Có thể thấy rõ chất hiện thực trong bức tranh miêu tả của các tác giả. Dù là những kẻ tôi trung với nhà Lê, và trong cách miêu tả cảnh khốn quẫn của vua Lê Chiêu Thống, các tác giả vẫn thể hiện sự ngậm ngùi,thương cảm, nhưng quan điểm tôn trọng lịch sử và ý thức dân tộc của những trí thức đã giúp họ phản ánh đúng diễn biến lịch sử, làm nổi bật hành động “cõng rắn cắn gà nhà” của ông vua phản nước Lê Chiêu Thống cũng như tô đậm chiến công lẫy lừng của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ và nghĩa quân Tây Sơn. Đó chính là một trong những yếu tố tạo nên giá trị tác phẩm.
Xem thêm: