cam-nhan-tam-long-cua-nguoi-cha-danh-cho-con-qua-bai-tho-noi-voi-con-cua-y-phuong

Cảm nhận tấm lòng yêu thương của người cha dành cho con qua bài thơ Nói với con của Y Phương

Cảm nhận tấm lòng yêu thương của người cha dành cho con qua bài thơ “Nói với con” của Y Phương

  • Mở bài:

Y Phương là một trong những nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông đã để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng. Bài thơ “Nói vói con” viết năm 1980 là một trong những tác phẩm thành công nhất của ông. Bài thơ là lời nhắc nhở, dặn dò của người cha với con về tình cảm gia đình, về truyền thống quê hương và vẻ đẹp của người đồng mình, là tấm lòng yêu thương của người cha dành cho con.

  • Thân bài:

Mở đầu bài thơ, tác giả đã tái hiện và gợi tả khung cảnh một gia đình đầm ấm:

“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai tiếng tới tiếng cười”.

Đây là một hình ảnh cụ thể về một mái ấm gia đình quen thuộc tràn đầy yêu thương hạnh phúc trong sự chăm chút cho con. Phép liệt kê “chân phải”, “chân trái, “một bước”, “hai bước”, “tiếng nói, tiếng cười” đã giúp ta hình dung một không khí gia đình ấm áp, ngọt ngào, ríu rít, quấn quýt trong từng bước đi, tiếng nói bi bô của con trẻ. Dường như đàng sau những lời thơ giản dị ấy là niềm hạnh phúc vô bờ bến của bố mẹ. Tuy tấm lòng cha mẹ có bao dung, yêu thương rộng lớn đến đâu thì với con cũng là chưa đủ.

Con không chỉ lớn lên bằng tình yêu thương của bố mẹ mà còn bằng cả sự che chở của quê hương.

“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát”.

Quê hương trong thơ của Y Phương là “người đồng mình” là người miền mình, người vùng mình, là những người cùng sống trên một miền đất, cùng quê hương, cùng một dân tộc. Đó là cách nói mộc mạc, mang tính địa phương của dân tộc Tày nhưng giàu sức biểu cảm. Đó là cũng cách gọi độc đáo, gần gũi, thân thương về những con người sống trên cùng miền đất, quê hương. Người cha đã lí giải với con về những phẩm chất cao quý của người dân quê hương và dạy con yên lấy những gì thân thuộc nhất của người đồng mình. Đó là cốt cách tài hoa và tâm hồn trong sáng. Dưới bàn tay khéo léo của người đồng mình – những nan nứa, nan tre trở thành những dụng cụ hữu ích.

Các động từ “đan”, “cài, “ken” được sử dụng rất uyển chuyển, khéo léo tạo cảm giác quấn quýt, thân thương, nó còn thể hiện sự đoàn kết, gắn bó của quê hương. Vách nhà không chỉ ken bằng gỗ mà còn được ken, cài bằng những câu hát trao duyên tìm bạn của những chàng trai chân chất, mộc mạc. Thì ra dưới dáng vẻ thô sơ, mộc mạc ấy là một tâm hồn lãng mạn, lạc quan, yêu đời. Có thể nói Y Phương phải là một người yêu quê hương, gắn bó, tự hào về quê hương, dân tộc mình thì mới có được những cảm xúc và diễn tả hay đến vậy.

Quê hương trong lòng nhà thơ là hình ảnh những con đường nghĩa tình và cảnh thiên nhiên đẹp thơ mộng: “ Rừng cho hoa – Con đường cho những tấm lòng”. Bằng cách nói nhân hoá tác giả đã làm thiên nhiên thật đẹp lãng mạn và giàu nghĩa tình. Qua lời thơ giản dị người cha muốn nói với con về gia đình, quê hương và khẳng định đó cũng là cái nôi nuôi con khôn lớn và nhắc nhở con về ý thức cội nguồn sinh dưỡng:

“Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”.

Người cha đã nhắc đến kỷ niệm khởi đầu cho hạnh phúc để giúp con vững bước trên con đường tương lai dài rộng. Khổ thơ đã thể hiện cội nguồn của hạnh phúc con người chính là gia đình và quê hương.

Những câu thơ tiếp theo là những vẻ đẹp của người đồng mình và mong ước của người cha:

“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn”

Y Phương đã vận dụng lối diễn đạt của người dân miền núi với cách nói dân dã, mộc mạc về những phẩm chất cao quý của người dân quê hương. Nếu như ở khổ thơ thứ nhất người cha mở ra cho con những ký ức đẹp đẽ về gia đình, quê hương thì ở khổ thơ thứ hai, người cha đã nhấn mạnh sự gắn bó của con với những con người quê hương.

Cụm từ “Người đồng mình” được điệp đi, điệp lại: “Người đồng mình thương lắm con ơi”. Cách gọi ấy gợi cảm giác thân quen gây một ấn tượng sâu sắc về con người quê hương, lời gọi “con ơi” cất lên thật tha thiết, chân thành. Người cha lần lượt ca ngợi những phẩm chất của người đồng mình với cách nói cụ thể:

“Cao đo nỗi buồn – Xa nuôi chí lớn”.

Đó là những con người giàu ý chí, nghị lực, luôn luôn vượt lên mọi khó khăn thử thách với bao nỗi buồn, niềm vui của cuộc đời. Hai câu thơ 4 chữ đăng đối như một câu tục ngữ đúc kết một thái độ, một phương châm ứng xử cao quý, thể hiện một bản lĩnh sống đẹp của người dân tộc Tày.

Phẩm chất cao đẹp của người đồng mình cứ lần lượt hiện dần lên qua lời tâm tình với con, nhẹ nhàng gieo vào lòng con những cảm xúc chân thành tha thiết. Đó là lối sống thuỷ chung tràn đầy niềm tin của người đồng mình:

“Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông, như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc”.

Sống trên đã và sống trong thung là nơi có cuộc sống nhọc nhằn, vất vã, khó làm ăn sinh sống nhưng “không chê đã gập ghềnh, không chê thung nghèo khó” Lời tâm tình của người cha nói với con cũng là lời khuyên răn con phải biết trân trọng mảnh đất quê hương, nơi mình sinh ra và lớn lên, phải biết sống hồn nhiên cần cù, lạc quan để vượt qua gian khó.

Giọng điệu tâm tình của đoạn thơ đã gieo vào lòng người đọc những cảm xúc trước những lời căn dặn thân thương, tha thiết. Con hãy sống xứng đáng với người đồng mình bởi người đồng mình không bao giờ sợ gian khổ, sợ nghèo đói. Sự chấp nhận và đương đầu với gian khổ được thể hiện trong các điệp ngữ “ không chê, không lo” và cũng là lời nhắc nhở chân tình mà cha muốn truyền dạy cho con bài học đạo lý làm người: Con phải biết gắn bó với quê hương xứ sở.

Ba từ “sống” được đặt ở đầu câu cùng với phép so sánh đã trở thành lời nhắc nhở con về lẽ sống ở đời. Bằng các hình ảnh ẩn dụ, so sánh, thành ngữ dân gian “Lên thác xuống ghềnh” kết hợp các điệp từ “sống” đoạn thơ đã khảng định một tâm thế, một bản lĩnh sống, một dáng đứng của người đồng mình và đó cũng là điều mà người cha hy vọng con hãy sống sao cho xứng đáng với quê hương.

Phẩm chất cao đẹp của người đồng mình còn được nhà thơ thể hiện bằng cách nói rất cụ thể của bà con dân tộc Tày, không hề biết nói hay, nói khéo:

“Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con”.

Đó là vẻ đẹp của tâm hồn cao thượng, của nhân cách làm người được diễn tả qua cách nói tương phản đối lập giữa hình thức và phẩm chất bên trong. Dù mộc mạc, giản dị như cây cỏ thì cũng không được sống tầm thương mà phải ngẩng cao đầu. Bộc lộ những suy nghĩ về người dân quê hương, người cha như nhắn nhủ con phải biết gắn bó, qúy trọng nơi sinh thành; trân trọng yêu mến con người quê hương.

Đã có lần Y Phương tâm sự rằng câu thơ “chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con” là cách nói hết sức bình thường, giản dị đó là dù cuộc sống có thế nào đi nữa thì “người đồng mình” vẫn cao thượng chứ không ích kỉ, hẹp hòi. Chính vẻ đẹp ấy mà người đồng mình sống rất thuỷ chung, nhân hậu:

“Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”.

Người đồng mình kiên trì, bền bỉ trong công cuộc lao động để vun đắp, xây dựng xóm làng, biết dệt lên những phong tục để tôn vinh quê hương. Với cách nói cụ thể “đục đá kê cao quê hương”. Nhà thơ đã sử dụng h/a ẩn dụ thật độc đáo để ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của họ như cần cù, chăm chỉ, chịu khó và ý thức tự tôn dân tộc, ý thức bảo vệ cội nguồn, ý thức xây dựng phong tục tập quán.

Có thể nói người cha đã nói với con tất cả những gì tốt đẹp nhất của con người quê hương – Cái nôi đã sinh ra con, nuôi con lớn khôn và trưởng thành. Một lần nữa quê hương hiện lên như nguồn tiếp sức nhưng không phải là vỗ về, âu yếm giống như thời thơ bé mà giờ đây là lời nhắc nhở con ngẩng cao đầu mà đi.

Kết thúc bài thơ là lời khuyên con của người cha thật tha thiết, chân thành với tiếng gọi âu yếm:

“Con ơi!
Tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con”.

Đó cũng là lời căn dặn con không bao giờ được nhỏ bé, tầm thường mà phải biết giữ lấy cái cốt cách giản dị, mộc mạc của người đồng mình. Hai tiếng “nghe con” là cả một tấm lòng mênh mông của người cha. Cái điều cha nhắn nhủ thật là ngắn gọn, hàm súc mà sâu sắc biết nhường nào. Ta nghe âm vang của nó như có cả mệnh lệnh của trái tim. Câu thơ ngắn lại, có câu chỉ có hai tiếng nhưng lại là sức mạnh của người cha đang tiếp sức, nhắc nhở con phải khắc cốt ghi tâm để khi con bước trên con đường đời phải biết sống cao thượng, tự trọng, xứng đáng với những phẩm chất cao quý của người đồng mình.

Câu thơ đã giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp của tình phụ tử cao quý và sự xúc động trước lời căn dặn yêu thương mà người cha muốn con thấu hiểu. Hai tiếng “nghe con” kết thúc bài thơ với tấm lòng thương yêu, kỳ vọng, vừa là lời dặn dò nhắc nhở chí tình của người cha đối với đứa con thân yêu. Hai tiếng ấy nghe sao mà thân thương trìu mến quá. Dù quê hương mỗi người chẳng giống nhau nhưng trong sâu thẳm trái tim, quê hương vẫn mãi mãi là thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý, là nơi chôn rau cắt rốn của mỗi chúng ta. Thế nhưng thực tế vẫn còn đó những con người vẫn tự ruồng bỏ quê hương, là nhiều điều trái với đạo lí làm người. Trong tâm thức của họ, quê hương trở nên xa xôi, mờ nhạt. Đó cũng là điều mà Y Phương không hề mong muốn.

  • Kết bài:

Với thể thơ tự do, cách nói mộc mạc, giàu hình ảnh phóng khoáng vừa cụ thể vừa giàu sức khái quát, các biện pháp điệp ngữ được vận dụng linh hoạt. Bài thơ Nói với con là một điệp khúc về tình yêu con, là tấm lòng yêu thương của người cha dành cho con, là tình yêu quê hương đất nước, đồng thời cũng là điệp khúc về lòng tự hào về những truyền thống cao đẹp của dân tộc. Qua bài thơ, ta hiểu thêm về vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của người dân miền núi và ta cũng như đang bắt gặp lại chính làng quê mình, tâm hồn mình.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang