Cảm nhận vẻ đẹp bài thơ “Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông” của Phan Bội Châu
- Mở bài:
Phan Bội Châu (1867-1940) biệt hiệu là Sào Nam, quê ở Nam Đàn, Nghệ An. Ông là chiến sĩ cách mạng vĩ đại của dân tộc ta trong hơn hai mươi năm đầu của thế kỉ XX. Ông còn là một nhà thơ, nhà văn lớn để lại nhiều kiệt tác chứa chan tinh thần yêu nước chống xâm lăng.
“Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông” là chùm thơ hai bài, đây là bài thơ thứ nhất được Phan Bội Châu viết trong ngày đầu bị bắt giam. Bài thơ thể hiện khí phách hiên ngang, bất khuất và phong thái ung dung của người chiến sĩ yêu nước cách mạng trước cảnh tù đày, nguy hiểm.
- Thân bài:
Trong lịch sử văn học Việt Nam không dễ gì có nhiều văn chương có sức lay động quần chúng đứng lên đấu tranh cách mạng lớn lao như văn chương của Phan Bội Châu. Ngày nay trong văn chương đó, về tư tưởng và quan niệm, có thể điểm này điểm khác không còn phù hợp, nhưng trái tim chan chứa nhiệt huyết của tác giả vẫn còn nguyên giá trị. Ông là một trong số những nhà văn lớn của văn học Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ.
Cũng như người xưa, Phan Bội Châu lấy thơ ca để tỏ rõ ý chí, hoài bão lớn lao của người nam nhi, thực hiện “tải đạo”, cứu người, giúp đời. Thế nên, thơ ông thường có giọng điệu hào sảng, đề cao chí khí, ít khi bi lụy hay buồn phiền. Tuy đang ở trong nghịch cảnh hết sức hiểm nguy, sinh tử cận kề, thế nhưng, tâm thế của Phan Bội Châu cũng hết sức vững vàng, xem thường gian nguy, cười cợt nghịch cảnh:
Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu,
Chạy mỏi chân thì hẵng ở tù.
Hai câu đề nói lên một tâm thế đẹp của người chiến sĩ cách mạng: “Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu – Chạy mỏi chân thì hãy à tù”. Điệp từ “vẫn” làm cho ý thơ được khẳng định, hiểu lộ lòng tự hào về nhân cách cao đẹp: hào kiệt, phong lưu. Một con ngươi có lài cao, chí lớn trong mưu đồ đại sự cứu nước, cứu dân. Một nhà nho trang nhã, ung dung đàng hoàng.
“Chạy mỏi chân” là cách nói hóm hỉnh về sự hoạt động sôi nổi của Phan Bội Châu lúc ở Nhật, lúc sang Thái Lan, lúc ở Trung Quốc. Bốn tiếng “thì hãy ở tù” vừa là chấp nhận cảnh ngộ tù đày, vừa là một sự thách thức trước hoàn cảnh, thể hiện một thái độ rất bình tĩnh, rất chủ động trước tai ương hoạn nạn.
Hai câu thực nói về cuộc đời ngươi chiến sĩ cách mạng : phải xa gia đình, quê hương đất nước, bôn ba hải ngoại, phải nếm trải mọi thử thách gian truân, chịu cảnh tù tội. “Hai mươi năm lẽ đã từng chua với xót” (Bài ca chúc tết thanh niên).
Ngôn ngữ thơ cân xứng, thể hiện một tâm hồn cao đẹp, giàu đức hi sinh, một chí lớn tung hoành mang tầm vóc lớn lao được đo bằng “năm châu” và “bốn bể”. Giọng thơ thanh thoát phơi phơi:
Đã khách không nhà trong bốn bể,
Lại người có tội giữa năm châu.
Sau này, trong bài thơ “Từ giã bạn bè lần cuối cùng” viết năm 1940 trước lúc qua đời, ý thơ trên được tác giả nhắc lại:
“Những ước anh em đầy bốn biển,
Nào ngờ trăng gió nhốt ba gian ”.
Hai câu 5, 6 đối nhau, ngôn ngữ trang trọng diễn tả một chí khí hiên ngang, một ý chí phi thường của người anh hùng muốn làm nên sự nghiệp vĩ đại. Lời thơ mang cốt cách anh hùng ngạo nghễ:
“Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù.”
“Bủa tay”, “ôm chặt” nói lên một tư thế hào hùng, một quyết tâm kiên định không gì lay chuyển nổi, một lí tưởng sáng ngời: giúp đời cứu nước “Cuộc oán thù” là cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp và bò lũ tay sai bán nước. Hai chữ “cười tan” thể hiện một ý chí, nung nấu căm thù. Giọng thơ hào sảng, tràn đầy khí thế. Thủ pháp nghệ thuật được sử dụng đặc sắc: Hình ảnh thậm xưng kì vi, các động từ gợi tả mạnh mẽ (ôm chặt, cười tan) đã dựng nên hình ảnh một đấng nam nhi, một trang anh hùng, một bậc trượng phu, hào kiệt,… trong tù đày vẫn lạc quan, bất khuất, ngạo nghễ phi thường.
Hai câu kết khẳng định một niềm tin chói sáng qua 2 vế tiểu đôi: “Thân ấy hãy còn //còn sự nghiệp”. Chữ “còn” được điệp lại 2 lần làm cho ý thơ được nhấn mạnh: Con đường cách mạng cứu nước, cứu dân là con đường vinh quang sáng ngời chính nghĩa, Con đường chiến đấu vì chính nghĩa đang mở rộng ở phía trước. Câu thơ thứ 8 nói lên một chấp nhận, một thách thức, một linh thần coi thường những nguy hiểm, gian truân:
“Thân ấy vãn còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sự gì đâu. ”
Vần thơ mang tính hướng nội vang lên như một lời động viên khích lệ mình. Nó biểu hiện một dũng khí hiên ngang của người chiến sĩ cách mạng vĩ đại: “Uy vũ bất năng khuất”. Đó là niềm tự tin, lạc quan, bất khuất, tự làm chủ hoàn cảnh, mang cốt cách của bậc hào kiệt, phong lưu, đầu đội trời, chân đạp đất.
- Kết bài:
Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông viết theo thể thơ Đường luật, thất ngôn bát cú. Giọng điệu hào hùng mạnh mẽ. Cảm hứng anh hùng dào dạt trong khắp câu chữ. Bút pháp phóng khoáng, phép đối lập và sử dụng điệp ngữ rất đặc sắc đã làm hiện lên cốt cách của “bậc anh hùng, vị thiên sứ, đấng xả thân vì độc lập, được hai mươi triệu con người trong vòng nô lệ tôn sùng” (Nguyễn Ái Quốc). Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông của Phan Bội Châu là bài ca yêu nước, bài ca của khát vọng tự do.l của một dân tộc yêu chuộng hoà bình, kiên cường, bất khuất.
- Cảm nhận bài thơ “Ông đồ” của Vũ Đình Liên
- Cảm nhận ý nghĩa bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” của Phan Chu Trinh