»» Nội dung bài viết:
Chất sử thi trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành
- Mở bài:
Nguyễn Trung Thành là nhà văn tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Một điều đặc biệt là hầu hết các sáng tác nổi tiếng của ông đều gắn với mảnh đất Tây Nguyên. “Rừng xà nu” là truyện ngắn tiêu biểu được viết trong những năm chống Mỹ ác liệt. Tác phẩm là một bản anh hùng ca mang đậm chất sử thi. Chất sử thi thể hiện ở nhiều phương diện của tác phẩm nhưng đậm nét nhất là ở đề tài, hình thức kể chuyện và hình tượng nhân vật Tnú.
- Thân bài:
Tác phẩm văn học mang tính sử thi là tác phẩm đề cập đến những vấn đề trọng đại có ý nghĩa sống còn của đất nước, của dân tộc. Nhân vật trung tâm là người có số phận gắn bó với cộng đồng, kết tinh những phẩm chất cao quí của cộng đồng, nhân danh cộng đồng mà chiến đấu, hy sinh. Cái riêng tư, đời thường nếu được nói đến thì chủ yếu cũng là để nhấn mạnh những trách nhiệm và tình cảm của cá nhân với cộng đồng.
Tác phẩm có tính sử thi thường có một giọng điệu say mê, trang trọng, có ngôn ngữ đẹp một cách tráng lệ, hào hùng.
Chất sử thi được thể hiện qua bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ vừa đậm chất thơ của núi rừng Tây Nguyên:
Thiên nhiên trong Rừng xà nu thấm đẫm một cảm hứng sử thi và chất thơ hào hùng thể hiện qua từng trang sách miêu tả về rừng xà nu. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh “cả rừng xà nu hàng vạn cây”, thì kết túc tác phẩm vẫn là rừng xà nu “nối tiếp nhau chạy đến chân trời”. Đó chính là bức tranh thiên nhiên toàn cảnh về cuộc chiến tranh nhân dân rộng lớn và hào hùng của dân tộc ta.
Bằng nhiều thủ pháp nghệ thuật như: nhân cách hóa, ẩn dụ, tượng trương, so sánh, bi tráng hóa… nhà văn đã dựng nên bức tranh rừng xà nu ở nhiều góc độ. Rừng xà nu chịu nhiều đau thương mất mát do bom đạn của kẻ thù gây ra. Sức sống mãnh liệt của cây xà nu không bom đạn nào có thể khuất phục được (So sánh với sức sống của con người Xô Man). Cây xà nu ham ánh sáng, yêu tự do, luôn vươn lên đón ánh nắng và khí trời. Cây xà nu vững chãi với thế đứng “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho cả dân làng”.“Một cây ngã cả rừng cây lại mọc. Người tiếp người đã mấy vạn mùa xuân”
“Người hi sinh đất hồi sinh
Máu người hóa ngọc lung linh giữa đời”
(Phan Thị Bích Hằng)
Nhân vật Tnú – hình ảnh người anh hùng bất tử của dân làng Xô-man mang đậm tính sử thi.
Đến với truyện ngắn “Rừng xà nu”, chúng ta được thả hồn theo những cánh rừng xà nu bát ngát, xanh rờn đến tận chân trời, được chứng kiến sức sống mãnh liệt không gì hủy diệt được của những cây xà nu. Mặt khác chúng ta lại khâm phục biết bao người anh hùng Tnú với những phẩm chất tốt đẹp. Xây dựng hình tượng người anh hùng này cũng là biểu hiện chất “Sử thi”.
Tnú được xây dựng như một đại biểu ưu tú của người dân Xô-Man. Tnú luôn được đặt trong quan hệ với cộng đồng, với cách mạng nhiều hơn là quan hệ đời tư. Cộng đồng Xô-Man luôn dõi theo buớc đi của Tnú, hành động anh dũng của Tnú khiến cho cả làng đều cảm động, nguỡng mộ, tự hào.
Nhân vật Tnú hiện lên qua hành động nhiều hơn là qua đời sống nội tâm và hầu như không có những băn khoăn, trăn trở về số phận, về cái tôi của mình. Cuộc đời Tnú đầy đau khổ, cay đắng, bị kẻ thù giết hại cả gia đình, anh đã biến đau thương thành hành động trở thành anh lực lượng đi đánh giặc trả thù nhà nợ nước. Tnú trong chặng đường đầu của cách mạng đã nuôi giấu cán bộ, làm liên lạc, bị giặc bắt. Rồi anh vượt ngục trở về trực tiếp lãnh đạo dân làng Xô Man đánh giặc. Cùng một lúc, Tnú phải hứng chịu hai tấn bi kịch do tội ác của giặc gây ra (vợ con bị giặc giết, bản thân anh bị giặc đốt cụt mười đầu ngón tay)
Hình tượng đôi bàn tay Tnú là một chi tiết nghệ thuật đậm chất sử thi. Đôi tay là đôi tay cần cù lao động, là đôi tay chứng nhân tội ác kẻ thù. Đôi tay chưa bao giờ biết phản bội… “Gấp trang sách lại, hình ảnh Tnú với bao phẩm chất tốt đẹp vẫn sống mãi trong lòng bạn đọc nhiều thế hệ. Tnú tiêu biểu cho hình mẫu người anh hùng dân tộc Tây Nguyên và cũng mang những nét chung của hinh mẫu anh hùng dân tộc thấm đượm chất “Sử thi”. Cùng với Trần Quốc Toản, La Văn Cầu, Bế Văn Đàn, Nguyễn Văn Trỗi và biết bao anh hùng, liệt sĩ khác các anh ca lên bài ca khải hoàn chiến thắng cho dân tộc Việt Nam yêu dấu” (Phan Huy Dũng)
Con đường trưởng thành của Tnú rất tiêu biểu cho con đường đi của các dân tộc Tây Nguyên trong thời đại đấu tranh giải phóng. Từ nhỏ anh đã tham gia công tác cách mạng. Anh đã từng bị bắt, bị tra tấn và bị tù đày. Vợ con anh bị giặc sát hại, hai bàn tay anh bị giặc đốt cháy bằng nhựa xà nu. Nhưng sự tàn bạo của kẻ thù không khuất phục ý chí chiến đấu của Tnú. Vượt ngục trở về, Tnú làm theo lời dặn của anh Quyết, tổ chức trai tráng trong làng chuẩn bị giáo mác để khởi nghĩa; làng Xô-Man được giải phóng, Tnú vẫn tiếp tục tham gia lực lượng quân giải phóng để tiêu diệt hết những thằng Dục khác mà đem lại cuộc sống tự do cho núi rừng. Có thể nói Tnú là một bước tiến mới trong nhận thức và biểu hiện những phẩm chất của một người anh hùng lí tưởng.
Truyện ngắn Rừng xà nu có tính cộng đồng sâu sắc trong tác phẩm.
Bên cạnh việc miêu tả,làm nổi bật lên hình ảnh của người anh hùng Tnú, người ta còn thấy được hình ảnh của những con người khác xung quanh nhân vật này, những người gan dạ dũng cảm trong cộng đồng làng Xô man.
Rừng xà nu đã tái hiện không khí của một thời cách mạng miền Nam, qua câu chuyện về cuộc nổi dậy của làng Xô Man. Xung đột chính của câu chuyện là xung đột giữa dân làng và bọn Mỹ – Diệm. Xung đột ấy được tích tụ, dồn nén và cuối cùng bùng nổ bằng cuộc nổi dậy cùng giáo mác tiêu diệt một tiểu đội lính giặc, giải phóng buôn làng. Mỗi con người là một sức mạnh, mỗi ngọn giáo đứng lên là thể hiện một lòng căm thù. Sức sống mãnh liệt đó được truyền từ đời này qua đời khác, từ thế hệ các cụ già đến những em bé còn ngây thơ nhưng đã có ý thức về nỗi đau mất nước, mất người thân, mất chủ quyền dân tộc.
Hình ảnh làng Xô-Man, con đường đi của người dân Xô-Man có tính chất tiêu biểu cho phong trào cách mạng miền Nam vào những năm cuối thập niên 50 và cả khi Mỹ đổ bộ vào miền Nam mở rộng chiến tranh vào đầu những năm 60 của thế kỉ XX.
Tính chất cộng đồng được thể hiện trong tác phẩm rất rõ. Đó là hình ảnh sum vầy, quây quần bên nhau, nương tựa vào nhau “cơm nước xong từ phía nhà ưng có ai đấy đánh lên một hồi mõ dài ba tiếng , dân làng lũ lượt kéo tới nhà cụ Mết”. Tất cả mọi người từ các cụ già các cô gái, những đứa trẻ sum tụ bên nhau để nghe câu chuyện cuộc đời Tnú.
Cụ Mết, thế hệ đi trước, một con người từng xông pha trong kháng chiến chống Pháp, nay lại tiếp tục sứ mệnh tiếp thêm sức mạnh cho con cháu, là người chỉ đường dẫn lối, là người truyền lại kinh nghiệm cho thế hệ mai sau “chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
Dít, một cô gái với lòng dũng cảm, sự thông minh, ấn tượng bởi “đôi mắt mở to và bình thản”. Bình thản trước súng gươm của kẻ thù. Phẩm chất kìm nén đau thương để biến thành hành động, nhanh chóng trở thành cô bí thư chi bộ, cấp chỉ huy cao nhất của làng Xô
Rồi đến Heng “đội cái mũ sụp xin được của một anh giải phóng, mặc chiếc áo bà ba dài phết đít, vẫn đóng khố, súng đeo chéo ngang lưng ra vẻ một người lính thực sự.”, cũng dũng cảm, cũng nhanh nhẹn như Tnú. Cũng là một cây xà nu con mọc lên, tiếp bước với cây lớn làm nên rừng xà nu, làm nên bản làng Xô man mạnh mẽ.
Có thể nói chất anh hùng tự ngàn đời đã chảy vào huyết quản của già làng Mết, từ già làng chảy qua Tnú, Tnú chảy qua Mai, Mai chảy qua Dít, Dít chảy qua Heng, Heng chảy vào những cây xà nu con mới mọc đã nhọn hoắt như những mũi lê chóc thẳng lên bầu trời. Dân tộc Việt Nam dù có hy sinh, dù có mất mát nhưng vẫn không bao giờ lùi bước trước quân thù:
“Nước Việt Nam từ trong biển máu
Người vươn lên như những thiên thần”
(Tố Hữu)
“Nước Việt Nam từ trong máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”
(Nguyễn Đình Thi)
Hình thức kể chuyện với cách tạo không khí truyện rất Tây Nguyên đậm đà màu sắc sử thi truyền thống.
Rừng xà nu có lối kể độc đáo. Câu chuyện về cuộc đời của Tnú và cuộc nổi dậy của làng Xô Man được vị già làng là cụ Mết kể cho dân làng nghe trong một đêm Tnú về thăm làng. Sau bữa cơm tối, dân làng tập trung lại nhà cụ Mết bên bếp lửa xà nu bập bùng, bên ngoài “lấm tấm một trận mưa đêm, rì rào như gió nhẹ”. Trong cái không khí thật trang nghiêm, cụ Mết kể bằng cái giọng trầm trầm. Người kể như muốn truyền lại cho con cháu những trang lịch sử hào hùng cuả cộng đồng. Cách kể này gần với cách kể khan – sử thi anh hùng ca – của các bộ tộc ở Tây Nguyên.
Bao trùm lên toàn bộ thiên truyện là một khung cảnh nghiêm trang, hào khí lại vừa mang đậm chất lãng mạn cuốn hút về làng Xô man bất khuất kiên cường. Giọng văn trong Rừng Xà Nu là giọng văn mang âm hưởng vang dội như tiếng cồng tiếng chiêng của đất rừng Tây Nguyên đại ngàn hùng vĩ. Giọng văn đó ẩn chứa chất liệu làm nên tính sử thi hoàng tráng của tác phẩm.
Kết cấu truyện theo lối vòng tròn hay còn gọi là đầu cuối tương ứng.
Chính kết cấu đó tạo nên dư âm hùng tráng. Lối kết cấu này như cái khung bền vững để nhà văn khai triển câu truyện. Đây là lối kết cấu vừa đóng vừa mở. Câu chuyện đóng lại để mở một câu truyện khác. Điều này làm chúng ta tưởng tượng đây chỉ là một chương trong lịch sử ngàn đời của người Xô man, chỉ là một chương trong bản anh hùng ca vô tận của Tây Nguyên.
Biện pháp nhân cách hóa, miêu tả cây xà nu như con người Xô Man. Vì vậy cây xà nu hiện ra như một nhân vật của câu truyện. Nguyễn Trung Thành đã biến rừng xà nu thành cả một hệ thống hình ảnh được miêu tả song song với hệ thống hình tượng nhân vật. Nhà văn sử dụng kiểu thời gian gấp khúc “đau thương nuôi con người vụt lớn lên” (Tnú ngày bị bắt mới chỉ đứng ngang bụng cụ Mết, 3 năm sau trở về đã là chàng thanh niên lực lưỡng; Dít ngày Tnú đi còn bé, 3 năm sau anh trở về Dít đã là bí thư chi bộ).
Cùng với chất sử thi là cảm hứng lãng mạn hòa quyện với nhau trong tác phẩm. Đó là sản phẩm tất yếu của một nền văn học gắn bó số phận cuả nó với vận mệnh của dân tộc trong cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước. Nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975 là nền văn học như thế. Và tác phẩm “Rừng xà nu” là kết tinh xuất sắc của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
- Kết bài:
Có thể nói, Rừng xà nu là một thành tựu xuất sắc của văn xuôi Việt Nam hiện đại. Cùng với tiểu thuyết Đất nước đứng lên, nó đã khái quát được hiện thực đau khổ nhưng vĩ đại của dân tộc. Nguyên Ngọc đã thành công trong việc chạm khắc tượng đài kì vĩ, chói lọi của các anh hùng cách mạng: Núp (chông thực dân Pháp), Tnú (chống đế quốc Mĩ)… Tác dụng to lớn của hai sáng tác này là cổ vũ chiến đấu, lưu giữ lại âm hưởng hùng tráng một thời của dân tộc và góp phần giáo dục tình cảm yêu nước cho các thế hộ sau. Bởi vậy, có thể coi đây là những bản hùng ca mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn vẻ cuộc chiến đấu của đồng bào Tây Nguyên, nói rộng ra là về hai cuộc chiến tranh nhân dân kì diệu của dân tộc ta.
- Phân tích truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
- Cảm nhận ý nghĩa chi tiết đôi bàn tay Tnú trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành
- Vẻ đẹp của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước qua “Rừng xà nu” và “Những đứa con trong gia đình”
Bài tham khảo:
Tính sử thi trong “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành
- Mở bài:
“Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành là một truyện ngắn mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn (thực ra, với các tác phẩm thuộc loại này, chỉ nói đến tính sử thi là đủ, bởi cảm hứng lãng mạn đã trở thành một phần tất yếu của nó).
- Thân bài:
Rừng xà nu không chỉ mang đặc điểm của sử thi hiện đại mà còn có dáng dấp của “thể loại” sử thi cổ điển. Câu chuyên đã gợi cho người đọc nghĩ về một thế giới xa xưa với phương thức sản xuất cổ truyền, với một bộ lạc (dân tộc) sống trong núi rừng và đứng đầu là một vị thủ lĩnh đạo cao đức trọng. Vẫn là những hoạt động thu hút được sự tham gia của toàn thể cộng đồng mà ta vẫn thường thấy trong các sử thi Tây Nguyên như lao động và sinh hoạt văn hoá… Nhưng đề tài nổi bật nhất của các sử thi hiện đại vẫn là chiến tranh.
Tính sử thi của Rừng xà nu được biểu lộ trước hết ở những sự kiện có tính chất toàn dân được nhắc tới. Những chuyện xảy ra với làng Xô man hoàn toàn không có ý nghĩa cá biệt. Chúng là chuyện chung của cả Tây Nguyên, cả miền Nam, cả nước trong những ngày chiến đấu chống đế quốc Mĩ. Thông qua nỗi đau ghê gớm của Tnú và dán làng xỏ Man, tác giả muốn khảng định con đường tất yếu của họ là đến với cách mạng. Ngoài ra, cũng giống như chủ đề của nhiều sử thi khác, tác phẩm này có mục đích ổn lại truyền thống hào hùng, khẳng định, ngợi ca vẻ đẹp và lòng dũng cảm của những anh hùng đại diện cho lợi ích dân tộc và kêu gọi nhân dân sẵn sàng vùng lên đánh đuổi giặc thù (cụ Mết kể lại cho mọi người, nhất là lũ trẻ nghe “kì tích” về anh hùng Tnú cũng là nhằm mục đích đó).
Tình thế bị o ép của làng Xô Man trước ngày đồng khởi là bức tranh sinh động về cuộc sống đau thương của đồng bào miền Nam trong những ngày Mĩ – Diệm thi hành luật 10-59, khủng bố dữ dội những người yêu nước, những người kháng chiến cũ. Khi làng Xô Man đứng dậy thì gương mặt của làng lúc này lại chính là gương mặt của cả nước trong những ngày quyết tâm đánh Mĩ và thắng Mĩ – một gương mặt rạng rỡ, tự tin, điềm tĩnh đón nhận những thử thách mới.
Rừng xà nu là truyện ngắn đã xây dựng thành công hình tượng một tập thể anh hùng Tnú. Những anh hùng được kể tới trong đó đều có tính đại diện cao, mang trong mình hình ảnh của cả một dân tộc. Tập thể anh hùng trong Rừng xà nu là tập thể đa dạng về lứa tuổi và giới tính. Mỗi gương mặt anh hùng đều có những nét riêng, thể hiện một số phận riêng trong cuộc đời chung. Tất cả họ đều giống nhau ở những phẩm chất cơ bản: gan dạ, trung thực, một lòng một dạ đi theo cách mạng. Có thể nói, Tnú là người anh hùng thuộc về quần chúng. Nói như Biêlin xki: “nhân vật của anh hùng ca phải là người đại diện xứng đáng của tinh thần dân tộc”.
Không chỉ Tnú, mỗi người dân làng Xô-man là một anh hùng đích thực. Chiến công của mỗi người tuy đa dạng mà thống nhất. Cuốn sử vẻ vang của làng Xô Man, của Tây Nguyên không phải do riêng một người mà do tất cả mọi người viết ra. Bản trường ca của núi rừng không chỉ trỗi lên một giọng mà là sự tổng hoà của nhiều giọng. Tất cả họ đều “muôn người như một” chung một lí tưởng, cùng tự hào về truyền thống vẻ vang của buôn làng Cụ Mết là hiện thân cho truyền thống bất khuất đó. Anh Quyết, cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cô Dít, bé Heng là những nhân vật tiêu biểu, nhưng bên cạnh họ, đằng sau họ còn có bao người khác nữa cũng không chịu sống mờ nhạt, vô danh. Tất cả họ đều thi đua lập công, đều muốn góp phần mình vào sự nghiệp vĩ đại của dân tộc. Dĩ nhiên, hình tượng văn học nào cũng là sự thống nhất giữa cái cá biệt và cái phổ quát, nhưng ở Rừng xà nu, cảm hứng hướng về cái chung đã mang tính chất chi phối.
Rừng xà nu là nó đã miêu tả các sự kiện, các nhân vật anh hùng từ một cái nhìn chiêm ngưỡng, khâm phục. Các chi tiết đời thường ít được nhắc tới. Nhà văn chỉ tâm đắc với những chi tiết nào có khả năng làm phát lộ được phẩm chất anh hùng của nhân vật. Tả cụ Mết, nhà văn chú ý tới giọng nói “ồ ồ dội vang trong lồng ngực” của cụ. Tưởng như trong tiếng cụ nói có âm vang của tiếng cồng, tiếng chiêng, tiếng của núi rừng, của lịch sử. Và quả thật, cụ là hình ảnh tượng trưng của truyền thống vững bền. Mỗi lời cụ thốt ra kết tinh trải nghiệm của cả một dân tộc. Nó cô đúc, sâu sắc, vang vọng như những chân lí. Chả thế mà cả làng Xô Man nghe như uống từng lời cụ nói và cả rừng xà nu cũng “ào ào rung động” như một sự hoà điệu, một sự tạo nền. Ngay cuộc đời của Tnú, một cuộc đời trải ra trong chính thời hiện tại cũng đã được lịch sử hoá và nhuốm màu huyền thoại. Đêm đêm bên bếp lửa nhà ưng, cụ Mết đã kể chuyện anh cho lũ làng, cho thế hệ con cháu nghe. Anh đã trở thành niềm tự hào của làng, là một biểu tượng sống động của người anh hùng được tất cả ngưỡng vọng, học tập.
Giọng văn tha thiết, trang trọng, hào hùng, gợi được không khí của núi rừng và không gian văn hóa đồng bào Tây Nguyên hùng vĩ. Giọng văn ấy cũng thấm đượm trong việc miêu tả thiên nhiên, khiến cho hình ảnh rừng xà nu bỗng thổi tới trong lòng người đọc một cảm giác say sưa. Ta bị cuốn theo câu chuyện không gì cưỡng nổi, tưởng mình đang được tắm trên một dòng sông mênh mang, tràn trề sinh lực, hoặc tưởng mình đang bị thôi miên bởi một bản nhạc giao hưởng hùng tráng.
Ngôn ngữ của Rừng xà nu cũng mang đậm tính sử thi. Đó là giọng điệu ngợi ca, thành kính trước vẻ đẹp của những anh hùng (Tnú, cụ Mết…). Rừng xà nu thể hiện rất rõ âm hưởng trùng điệp, hùng tráng của sử thi. Tác giả lặp lại ít nhất 20 lần hình tượng cây xà nu dưới nhiều góc độ khác nhau: đường nét, màu sắc, mùi vị,công dụng… Mở đầu tác phẩm là rừng xà nu bạt ngàn, kết thúc cũng là rừng xà nu chạy đên chân trời.
- Kết bài:
Khuynh hướng sử thi trong tác phẩm Rừng xà nu có sự kết hợp chặt chẽ với cảm hứng lãng mạn, tạo nên chất trữ tình cách mạng. Giọng điệu chung của tác giả là trang trọng, say mê ca ngợi hòa quyện với suy tư sâu lắng. Vùng đất và con người Tây Nguyên mà nhà văn gắn bó máu thịt đã trở thành nguồn đề tài vô tận để nhà văn viết nên những tác phẩm thể hiện rõ tài năng và phong cách nghệ thuật của mình.