Đọc hiểu bài thơ “Bài ca ngắn đi trên cát” (Cao Bá Quát).
I. Tìm hiểu chung
1 . Tác giả:
– Cao Bá Quát là người có tài cao, nổi tiếng văn hay chữ tốt và có uy tín lớn trong giới trí thưc đương thời (thần Siêu thánh Quát ).
– Tác giả là người có khí phách hiên ngang, có tư tưởng tự do, ôm ấp hoài bão lớn, mong muốn sống có ích cho đời.
2. Tác phẩm:
– Hoàn cảnh ra đời: viết trong khi đi thi Hội. Trên đường vào kinh đô Huế, qua các tỉnh miềnTrung đầy cát trắng (Quảng Bình, Quảng Trị ).
– Thể loại: thơ cổ thể, không bò bó về luật, không hạn chế về số câu, gieo vần linh hoạt.
– Thể thơ: cổ thể hành ca → Một thể loại thơ cổ Trung Quốc có phần tự do về số tiếng, số câu, vần, nhịp điệu.
– Bố cục: 3 phần
+ Bốn câu đầu: tiếng khóc cho cuộc đời bể dâu.
+ Tám câu tiếp: tiếng thở dài, oán trách bởi ý thức sâu sắc về mâu thuẫn giữa khát vọng, hoài bão của mình và thực tế cuộc đời trớ trêu, ngang trái.
+ Ba câu cuối: tiếng kêu bi phẫn, tuyệt vọng.
II. Đọc hiểu văn bản.
a. Bốn câu đầu: Tiếng khóc cho cuộc đời dâu bể:
– Hình ảnh bãi cát dài mênh mông, nối tiếp nhau, hình ảnh con đường như bất tận, mờ mịt, tình cảnh của người đi đường.
– Mang ý nghĩa tả thực:
+ “Bãi cát dài lại bãi cát dài”: Điệp từ gợi lên hình ảnh những bãi cát nối tiếp nhau đến vô tận.
+ “Đi một bước lùi một bước”: Đi trên cát nhọc nhằn, khó khăn, vất vả hơn con đường bình thường. Điều mà Cao Bá Quát đã trải nghiệm nhiều lần trên con đường đi tìm công danh.
– Nghĩa ẩn dụ, tượng trưng: con đường đời đầy chông gai mà kẻ sĩ như Cao Bá Quát phải dấn thân để mưu cầu công danh.
b. Hình tượng lữ khách:
– “Đi một bước như lùi một bước
Lữ khách trên đường nước mắt rơi”
→ Cảnh tượng một người đi trong không gian mù mịt, mênh mông, khó xác định được phương hướng.
– “Lữ khách trên đường nước mắt rơi”: Lúc mặt trời đã lặn, con người đều tìm chốn nghỉ ngơi, người lữ khách vẫn mải miết trên con đường vất vả đến nỗi phải tuôn rơi nuớc mắt.
– Hình ảnh người đi trên cát: Tượng trưng cho con người buộc phải dấn thân trong cuộc đời để mưu cầu sự nghiệp, công danh cho bản thân, cho gia đình, dòng họ
+ Mặt trời lặn mà vẫn còn đi, nước mắt rơi lã chã, tâm trạng đau khổ. Nhà thơ nhìn thấy con đường danh lợi đáng chán đáng buồn, đầy chông gai.
2. Tám câu tiếp: tiếng thở dài, oán trách bởi ý thức sâu sắc về mâu thuẫn giữa khát vọng, hoài bão của mình và thực tế cuộc đời trớ trêu, ngang trái.
– Hai câu: Không học …lội suối, giận khôn vơi dẫn từ tích cổ. Ở đây, tác giả tự cảm thấy giận mình vì không có khả năng như người xưa, mà phải tự mình hành hạ thân xác mình, chán nản, mệt mỏi vì công danh – danh lợi.
– Hai câu tiếp: Xưa nay… đường đời nói về sự cám dỗ của cái bả công danh đối với người đời. Vì công danh – danh lợi ( danh vọng đi với quyền lợi) mà con người phải bôn tẩu – tất tả xuôi ngược, khó nhọc mà vẫn đổ xô vào. Hai câu thơ đã thể hiên sự chán ghét, khinh bỉ của Cao Bá Quát đối với phường danh lợi. Ông muốn đứng cao hơn bọn ấy, không muốn đi theo con đường đau khổ ấy, nhưng chưa biết tìm lối rẽ nào và đi về đâu, theo hướng nào.
– Hai câu tiếp: Đầu gió … tỉnh bao người tiếp tục thể hiện tâm trạng chán ghét danh lợi và phường danh lợi như kẻ say sưa trong quán rượu, thấy quán rượu ngon, rượu thơm thì đua tìm đến và say sưa thưởng thức một cách tầm thường. Danh lợi cũng là một thứ rượu ngon dễ cám dỗ, làm say người. Câu hỏi của nhà thơ như trách móc, như giận dữ, như lay tình người khác nhưng cũng chính là tự hỏi bản thân. Ông đã nhận ra tính chất vô nghĩa của lối học khoa cử, con đường công danh đương thời là vô nghĩa, tầm thường.
– Câu cảm và những câu hỏi tu từ tiếp theo chứng tỏ tâm trạng băn khoăn, day dứt và có phần bế tắc.
3. Ba câu cuối: tiếng kêu bi phẫn, tuyệt vọng.
– Khúc đường cùng (cùng đồ): ở đây hoàn toàn chỉ có nghĩa biểu tượng. Nỗi tuyệt vọng trùm lên cả bãi cát dài, cả người đi. Ông chỉ còn có thể hát lên bài ca về con đường cùng của mình, về sự bế tắc, tuyệt vọng của mình trước cuộc đời.
– Tư thế dừng lại nhìn bốn phía mà hỏi vọng lên trời cao, lại hỏi chính lòng mình thể hiện khối mâu thuẫn lớn đang đè nặng trong tâm trí nhà thơ.
– Ba đại từ nhân xưng khác nhau: khách – lữ khách, anh ấy: đại từ nhân xưng ngôi thứ 3 số ít; quân: anh, ông: đại từ nhân xưng ngôi thứ 2, số ít; ngã – tôi, ta: đại từ nhân xưng ngôi thứ 1, số ít. Tác giả muốn đặt mình vào các vị trí khác nhau, các điểm nhìn khác nhau để có những cách nói khác nhau bộc lộ tâm trạng của chính mình, đối thoại với chính mình, thể hiện mâu thuẫn hiện tồn trong tâm trí mình.
– Đó là mâu thuẫn giữa khát vọng sống cao đẹp với hiện thực đen tối, mù mịt, giữa tinh thần xông pha vì lí tưởng của kẻ sĩ với thói cầu danh lợi của người đời và những khó khăn gian khổ trên con đường đi tìm chân lí.
III. Tổng kết
1. Nội dung:
Khúc bi ca mang đậm tính nhân văn của một con người cô đơn, tuyệt vọng trên đường đời thể hiện qua hình ảnh bãi cát dài, con đường cùng và hình ảnh người đi cùng.
2. Nghệ thuật:
– Sử dụng thơ cổ thể, hình ảnh có tính biểu tượng.
– Thủ pháp đối lập, sáng tạo trong dùng điển tích.