gioi-thieu-mot-tac-pham-tho-bai-6-ngu-van-11-tap-2-canh-dieu

Giới thiệu một tác phẩm thơ (Bài 6, Ngữ văn 11, tập 2, Cánh Diều)

Giới thiệu một tác phẩm thơ
(Ngữ văn 11, tập 2, Cánh Diều)

1. Định hướng.

a) Giới thiệu một tác phẩm thơ là thuyết trình trước người nghe sự độc đáo về nội dung (để tài, chủ đề, cảm xúc, tư tưởng…) và nghệ thuật (cấu tứ, cách xây dựng hình anh thơ, cách sử dụng ngôn từ….) của bài thơ, đồng thời, cho thấy phong cách độc đáo của tác của thể hiện qua bài thơ đó.

b) Để giới thiệu một tác phẩm thơ, các em cần lưu ý.

– Lựa chọn được bài thơ có giá trị độc đáo về nội dung và nghệ thuật, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của tác giả.

– Chuẩn bị các phương tiện như tranh. anh, video và máy chiếu, màn hình (nếu có).

– Xác định thời lượng và người nghe bài giới thiệu để có cách thuyết trình phù hợp.

2. Thực hành.

Bài tập (trang 50 sgk Ngữ văn 11 Tập 2) Hãy giới thiệu một bài thơ có yếu tố tượng trưng mà em tâm đắc.

a) Chuẩn bị.

– Đọc kĩ để bài và xác định yêu cầu của đề.

– Lựa chọn bài thơ có yếu tố tương trưng mà em tâm đắc để giới thiệu với mọi người. Ví dụ bài Đây mùa thu tới (Xuân Diệu), Đây thôn Vĩ Dạ (Hàn Mặc Tử), hoặc một bài thơ tự chọn.

– Văn bản bài thơ được trình bày trên giấy hoặc trên trang trình chiếu của máy tính (slide) có hình ảnh, sơ đồ (nếu cần thiết) và các phương tiện hỗ trợ (bức tranh, bài hát,..) phù hợp với bài thơ.

– Tìm hiểu những bài thơ có cùng chủ để, so sánh để nhận ra nét độc đáo của bài thơ cần giới thiệu.

– Tập đọc diễn cảm bài thơ,

b) Tìm ý và lập dàn ý.

– Tìm ý cho bài giới thiệu bằng cách đặt và trả lời các câu hỏi sau:

+ Hoàn cảnh ra đời của bài thơ có gì đặc biệt?

+ Những đặc sắc về nội dung của bài thơ là gì? Bài thơ thể hiện tâm trạng, cảm xúc gì của tác giả

+ Hình thức của bài thơ có gì độc đảo? Tác dụng của các yếu tố hình thức này”.

– Yếu tố (nội dung hay hình thức) nào để lại trong em ấn tượng sâu đậm nhất? Vì sao?

+ Những chi tiết nào có thể liên tưởng, so sánh với các bài thơ khác để làm nổi bật sự độc đáo của bài thơ?

– Lập dàn ý cho bài giới thiệu bằng cách lựa chọn, sắp xếp các ý theo bố cục ba phần:

Mở đầu:Giới thiệu nhan để bài thơ, tên tác giả, đề tài của bài thơ, lí do mà em lựa chọn để giới thiệu bài thơ.
Nội dung chính:Lần lượt giới thiệu bài thơ theo tinh tự phù hợp, ví dụ: giới thiệu hoàn cảnh ra đời, nêu những đặc sắc về nhung và hình thức của bài thơ…..
Kết thúc:Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

* Dàn ý tham khảo:

  • Mở đầu:

Giới thiệu về tác giả và tác phẩm:

Nhà thơ Thanh Thảo một nhà thơ luôn có những nỗ lực cách tân cho nền thơ ca hiện đại. Thơ ông là tiếng nói của những người tri thức nhiêu suy tư, trăn trở về cuộc sống, đặc biệt là cách cảm nhận cuộc sống theo chiều sâu. Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca là một trong những sáng tác tiêu biểu cho kiểu tư duy thơ của Thanh Thảo: giàu suy tư, mãnh liệt, phóng túng trong xúc cảm và ít nhiều mang màu sắc tượng trưng siêu thực Lor-ca là một nhà cách tân nghệ thuật hiện đại. Tạo dựng hình ảnh Lor-ca,chuyển tải thông điệp tư tưởng – nghệ thuật của ông. Thanh Thảo đã sử dụng hệ thống ngôn từ nghệ thuật mới mẻ và hiện đại

Nội dung:

– Nghệ thuật ngôn từ thể hiện trong bài thơ Bài thơ như giai điệu của một bản nhạc, có phần nhạc đệm của đàn ghi ta: chuỗi luyến láy trong bài thơ làm nên những tiếng ngân vang, những chùm hợp âm vĩ thanh.

– Ngôn ngữ sử dụng là ngôn ngữ tượng trưng: Ngôn ngữ diễn là âm thanh theo lối tượng trưng, làm cho người đọc liên tục chuyển đổi cảm giác: âm thanh vỡ thành màu sắc (tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta nâu; tiếng ghi ta lá xanh), thành hình khối (tiếng đàn bọt nước; tiếng ghi ta bọt nước vỡ tan), thành những ảnh động (tiếng ghi la ròng ròng máu chảy….)

– Những hình ảnh thơ mang màu sắc tượng trưng: giọt nước mất vầng trăng, ném lá bùa vào xoáy nước; ném trái tim mình vào lặng yên…

Những màu sắc gắn với cảm xúc vào suy tưởng: áo choàng đỏ gắt, áo choàng bê bết đỏ, chiếc ghi ta màu bạc…

– Xây dựng ngôn ngữ giàu sắc thái tư từ:

+ Các hình ảnh so sánh: Chàng đi như người mộng du: tiếng đàn như cỏ mọc hoang

+ Các hình ảnh nhân hoá: vầng trăng chếch choáng; giọt nước mắt vầng trăng.

+ Các hình ảnh ẩn dụ: Đường chỉ tay đã đứt; Dòng sông rộng vô cùng

III. Kết thúc:

– Đánh giá được ảnh hưởng của Lor-ca đối với Thanh Thảo trong phong cách sáng tác, thấy được sự tiếp thu sáng tạo, mới mẻ và những đóng góp của nhà thơ Thanh Thảo đối với thơ hiện đại Việt Nam qua tiếng đàn ghi-ta của Lor-ca.

3. Nói và nghe.

* Bài nói mẫu tham khảo.

Thanh Thảo là nhà thơ xuất sắc với nhiều biện pháp nghệ thuật đặc sắc được thể hiện trong tác phẩm, một trong những tác phẩm để lại cho ông nhiều tên tuổi nhất đó là tác phẩm Đàn ghi ta của Lorca.

Hình ảnh thơ được thể hiện trong tác phẩm với những nét nghệ thuật độc đáo, như hình ảnh tiếng đàn bọt nước, những vầng trăng chếch choáng, hình ảnh của tiếng yên ngựa mỏi mòn, đến cả hình ảnh chiếc áo choàng đỏ gắt. Tất cả những hình ảnh thơ đều được thể hiện một cách sinh động nhất, hình ảnh sự vật đó là vầng trăng, hình ảnh về màu sắc, màu đỏ của chiếc áo choàng, đến những trạng thái choáng váng của tâm hồn, hình ảnh chếch choáng của vầng trăng, tâm trạng bâng qua.

Hình ảnh thơ trong bài thơ mang tính siêu thực, tượng trưng, những hình ảnh thơ thể hiện sự choáng váng, những hình ảnh nhẹ nhàng, nhưng lại mang ý nghĩa to lớn thể hiện nỗi cô đơn, buồn thảm của người nghệ sĩ, hình ảnh hoán dụ thể hiện một nỗi cô đơn, không ai thương tiếc khi ” không ai chôn cất tiếng đàn”. ở đây nó cũng ở trong tình trạng choáng váng, cô đơn, lãng long, hình ảnh nghệ thuật thơ, nghệ thuật được sử dụng trong tác phẩm mang tính biểu tượng và siêu thực.

Hình ảnh biểu tượng nói về số phận bất hạnh của nhân vật , hình ảnh tiếng đàn đó là nói về số phận của người nghệ sĩ, những hình ảnh của ánh trăng đó lại là hình ảnh của sự hòa bình, sự tự do, tất cả đang hòa trộn để nói về hai cung bậc riêng, độc lập của hai số phận, số phận lẻ loi. Tiếng đàn không chỉ là một công cụ của người phụ nữ mà nó còn là hình ảnh để nói về những cảm xúc trong tâm hồn của tác giả, lúc vui mừng, khi tròn bọt nước, khi lại vỡ tan… Sự vỡ tan đó đang thể hiện sự vỡ trong niềm tuyệt vọng, những đau thương, chóng váng trong tâm hồn.

Hình ảnh biểu tượng đó như đang nói về những cảm xúc trong tâm hồn, nghệ thuật ngôn từ giản dị, nhưng lại mang ý nghĩa biểu trưng to lớn, nó vỡ tan trong tiếng đàn của người nghệ sĩ, choáng váng trong tâm hồn, mơ mộng, làm sáo rỗng tâm hồn của người thi sĩ. Hàng loạt các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong tác phẩm, đó là những hình ảnh tượng trưng, mang lại một cung bậc riêng, so sánh, nhân hóa, hay cả phép tượng trưng cũng được thể hiện sâu sắc trong tác phẩm, hình ảnh so sánh” chàng đi như người mộng du”, hay nhân hóa hình ảnh vầng trăng biết chếch choáng, mang tâm trạng của con người.

Hàng ngàn những phép tượng trưng được thể hiện trong tác phẩm, phép biểu trưng để nói về vầng trăng choáng váng, vầng trăng của những nỗi cô đơn đang vây kín lấy tâm hồn của những người nghệ sĩ, đó là vầng trăng của tình người, vầng trăng của những nỗi cô đơn, vầng trăng thể hiện một cái nhìn tự do, niềm khao khát hạnh phúc. Với sự cách tân sâu sắc về nghệ thuật Thanh Thảo đã đóng góp cho nền văn học những tác phẩm có giá trị to lớn, nó mang nhiều ý nghĩa biểu trưng sâu sắc, hình ảnh của những nỗi cô đơn, sự choáng váng trong tâm hồn, và cả những nỗi khao khát có được một số phận.

Hình ảnh đường chỉ tay đã đứt cũng là một biện pháp ẩn dụ để nói về sự bất hạnh của người nghệ sĩ, hẩm hiu trong cuộc đời, mang trong mình những nỗi khổ đau, riêng biệt và xót xa đến tận cùng, nỗi cô đơn đó đang bủa vây chìm đắm và in sâu vào số phận của nhân vật.

Tất cả những hình ảnh biểu tượng, những đặc sắc nghệ thuật trong tác phẩm đều mang ý nghĩa biểu tượng để nói về số phận, đó là số phận hẩm hiu, số phận bất hạnh của cuộc sống, của thân phận những người nghệ sĩ, đó là nỗi đau, sự cô đơn, những nỗi bất hạnh trong cuộc sống. Với sự cách tân mới mẻ, tác phẩm đã để lại những day dứt về số phận của những người nghệ sĩ, khi cuộc đời chỉ ngắn ngủi biết bao. Những biểu trưng đó đều khắc họa để nói về cuộc đời, số phận của con người. Những con người có số phận hẩm hiu, những người nghệ sĩ phải chịu cuộc đời cay đắng, số phận ngắn ngủi, bất hạnh.

Ở tác phẩm, tác giả thật xuất sắc khi sử dụng những hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng ẩn dụ để nói về cuộc đời của những người bạc mệnh, những tài năng, những nghệ thuật đang dần bị chôn vùi. Nó tạo nên một khối vuông rô bích cho tác phẩm, gợi ra rất nhiều suy tư cho người đọc, nó không chỉ là nghệ thuật tiêu biểu của thể thơ Thanh Thảo, mà nó còn để lại cho nền văn học một trong những tác phẩm có giá trị, đó là những tác phẩm lớn, để lại cho người đọc nhiều suy tư, trải nghiệm, cũng như những giá trị lớn của tác phẩm.

Hình ảnh của cả bài thơ đã để lại cho người đọc nhiều cảm xúc, đó là những hình ảnh tượng trưng, ẩn dụ cho nội dung mà tác giả muốn thể hiện trong tác phẩm.

4. Kiểm tra và chỉnh sửa.

Tham khảo các yêu cầu đã nêu ở bài 5, phần Nói và nghe, mục d (Trang 29) đối chiếu với dàn ý đề văn đã làm ở bài này.

Bài văn tham khảo:

Giới thiệu bài thơ “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu

Xin chào thầy cô và các bạn, sau đây em sẽ giới thiệu về bài thơ “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu.

Xuân Diệu là một trong những nhà thơ đặc biệt thành công khi viết về mùa thu. Với bài thơ “Đây mùa thu tới”, thi sĩ đã mang đến cho người đọc những cảm nhận vừa tinh tế, vừa mới mẻ về một bức tranh mùa thu đẹp, lãng mạn nhưng cũng thấm đượm nỗi buồn, sự xót xa.

Ngay từ tiêu đề “Đây mùa thu tới”, độc giả đã phần nào hiểu được nội dung chủ yếu của bài thơ là gì. Đó là nói về mùa thu nhưng không phải là giữa mùa thu hay cuối thu. Mà là đương lúc mùa thu mới tới, đất trời vừa mới tiễn biệt mùa hè để đón thu tới. Khi ngắm nhìn sự chuyển đổi của đất trời đó, nhà thơ Xuân Diệu phát hiện ra:

“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”.

Không gian hiện ra với vẻ “đìu hiu”, buồn và vắng vẻ. Rặng liễu trầm mặc như “đứng chịu tang”. Lá liễu buông dài như tóc nàng cô phụ “buồn buông xuống”. Sương thu ướt đẫm trên những nhánh liễu khiến tác giả ngâm nga một câu khiến chúng trở nên có hồn. Những cành liễu giống như những cô gái thướt tha, nhưng mắt buồn đẫm lệ. Biện pháp láy âm được Xuân Diệu vận dụng tài tình để tạo nên vần thơ giàu âm điệu, nhạc điệu: “đìu hiu – chịu”, “tang – ngàn – hàng”, “buồn – buông – xuống”. Đây tạo nên những nét thú vị của thơ Xuân Diệu những năm đầu thế kỉ 20.

Ngắm nhìn rặng liễu, đột nhiên tác giả chợt nhận ra màu thu đã tới, với cách ngắt nhịp 4/3 với điệp ngữ “mùa thu tới” đã diễn tả bước đi của mùa thu và niềm mong đợi thu về bấy lâu nay trong lòng thi sĩ.

“Đây mùa thu tới mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng”.

Cách hiệp vần lưng thần tình: “tới – với”, một chữ “dệt” tinh tế trong miêu tả và cảm nhận. Thu tới cũng chính muôn nơi được nhuộm bởi một màu vàng của cây đổi lá, nó được dệt một cách tỉ mỉ mang tới một vẻ đẹp không phải tự dưng mà có. “Với áo mơ phai dệt lá vàng” là một câu thơ thi vị biết bao, nói lên cái hồn thu với sắc lá, gợi lên cảm giác thanh nhẹ, tươi sáng về mùa thu đáng yêu vô cùng. Tuy nhiên mùa thu đó lại bắt đầu với một nỗi buồn ảm đạm hắt hiu.

Dưới con mắt nhạy cảm, tinh tế nhưng đầy u uất của nhà thơ, mùa thu tới mang theo sự chia lìa, khi các loài hoa thay nhau rụng xuống. Thay vì sắc xanh tươi trẻ của mùa hè thì giờ đây sắc đỏ đã chiếm chỗ và xua đuổi màu xanh đi để chiếm trọn không gian thu cho riêng mình. Không những thế, mùa thu tới mang theo những cơn gió heo may se se lạnh, khiến cho cành lá rung rinh một cách run rẩy chứ không phải rung rinh vui vẻ như khi mùa hè. Cùng với đó là những cành cây rụng hết là chỉ còn trơ xương gầy mỏng mảnh thiếu sức sống.

“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh.
Những luồng run rẩy, rung rinh lá,
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.

ở khổ thơ này, tác giả sử dụng những từ láy như: “run rẩy”, “rung rinh”, “mỏng manh” là những nét vẽ thần diệu gợi tả cái run rẩy, cái rùng mình của cây lá buổi chiều thu. Đặc biệt hình ảnh sắc đỏ “ rủa “ màu xanh khiến cho câu thơ mang một nét đẹp nghệ thuật độc đáo. Màu xanh đó không mướt như ngọc mà từ từ từ lan rộng ra, và mọi thứ như ngấm chất thu vào đó.

Thi liệu vừa hiện thực vừa ước lệ tượng trưng, vừa kế thừa vừa cách tân sáng tạo ở khổ thơ thứ 3 được sử dụng một cách triệt để: là “nàng trăng tự ngẩn ngơ” trên bầu trời. Một hình ảnh đẹp, thơ mộng tả vầng trăng thu. Hình ảnh núi nhấp nhô trong làn sương mờ cành làm nổi bật những hình ảnh của mùa thu. Trăng và núi trong thơ Xuân Diệu chứa đựng cái hồn thu muôn thuở của xứ sở quê hương, gần gũi và thân thuộc từ bao đời nay được vẽ lên thật đẹp:

“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ
Non xa khởi sự nhạt sương mờ… “
“Đã nghe rét mướt luồn trong gió,
Đã vắng người sang những chuyến đò”

Hai tiếng “đã nghe”, “đã vắng” gợi tả cái không gian bao la, vắng vẻ của những buổi chiều thu với không khí se se lạnh. Chúng ta thấy có chuyển đổi cảm giác giữa xúc giác và thính giác. Sự cảm nhận của thi nhân về rét, về gió, về cái xa vắng không chỉ bằng giác quan mà còn bằng cả linh hồn nữa. Như chính tác giả đang đứng giữa chiều gió thu, se se lạnh,chữ “luồn” đã cụ thể hóa cái rét, cảm nhận được nó bằng trực giác.

Đâu đẹp bằng hình ảnh thiên nhiên đẹp đẽ ở khổ thơ cuối.Có vẻ đẹp của thiên nhiên, của mây trời, cánh chim, xuất hiện vẻ đẹp thiếu nữ. Cảnh đẹp, người đẹp nhưng mà thoáng buồn mơ hồ mênh mông. Mây và cánh chim gợi lên nỗi buồn đẹp chia ly như “bèo dạt mây trôi” của tình ca!

“Mây vẩn từng không chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia ly”…
“Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,
Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”

Bao giờ trong thơ Xuân Diệu luôn xuất hiện hình bóng của giai nhân. “Đây mùa thu tới” cũng vậy, xuất hiện hình bóng một giai nhân trong tương tư, đang mộng tưởng. Đó cũng là một nét mới nói về mùa thu trong thơ Xuân Diệu. Giữa khung cảnh mùa thu tang thương ấy, hình ảnh người thiếu nữ buồn không nói càng làm cho bức tranh trở nên sầu thảm. Người thiếu nữ ấy nhìn xa xăm, vô định, nghĩ ngợi mông lung về điều gì mà không biết chính xác là điều gì. Dường như đó cũng chính là tâm tư của nhà thơ khi đang khao khát điều gì đó nhưng lại không thể biết chính xác là điều gì. Cái hình ảnh “tự cửa” nhìn xa xăm không nói sao mà buồn thảm sao mà bất an và nhiều lo lắng đến thế. Dường như con người đang không biết bấu víu vào đâu, không biết đi đâu về đâu giữa cuộc đời đầy bất an đó.

Toàn bộ bài thơ một là một bức tranh mùa thu buồn được vẽ bằng những bút pháp nghệ thuật độc đáo. Nhà thơ đã sử dụng những từ láy gợi cảm giác như “run rẩy”, “ngẩn ngơ”, “đìu hiu”, “mỏng manh”… Nhờ những từ đó là bức tranh thu trở nên sinh động hơn, có sức hút hơn với người đọc. Đặc biệt, những cách đảo ngữ thú vị càng giúp bài thơ bộc lộ rõ hơn sự biến chuyển của thời gian và tâm trạng não nề của tác giả. Với thể thơ tự do, nhà thơ cho thấy tâm hồn của mình thật phóng khoáng, không bị gò bó rào cản trong một khuôn mẫu nào cả. Nhờ thế mà bài thơ cũng dễ đi vào lòng người, dễ hiểu, dễ thuộc và dễ cảm hơn.

Đã có rất nhiều nhà thơ lấy mùa thu làm chủ đề trong tác phẩm của mình. Nếu Nguyễn Khuyến là chùm thơ thu với nỗi buồn hoang vắng hiu quạnh thì ở đây, Xuân Diệu là nỗi buồn chia ly đầy tang thương sầu muộn. Đó cũng chính là tâm trạng chung của hầu hết các thi sĩ, nhà văn của Việt Nam trước Cách mạng tháng 8.

Cảm ơn các bạn và thầy cô đã lắng nghe, rất mong nhận được góp ý của mọi người để bài nói được hoàn thiện.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang