Đọc mở rộng theo thể loại:
Kiến và người (Trần Duy Phiên)
(Bài 6, Ngữ văn 11, tập 2, Chân trời sáng tạo)
Nội dung chính: Tác phẩm Kiến và người kể về là câu chuyện của sự đấu tranh môi trường sống giữa một gia đình và loài kiến, và con người sẽ không thể chiến thắng nếu như xâm chiếm môi trường sống của các loài trong tự nhiên.
Câu 1 (trang 27, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Liệt kê những sự kiện chính trong văn bản và cho biết những dấu hiệu nào giúp bạn nhận biết Kiến và người là một truyện ngắn.
Trả lời:
Những sự kiện chính trong văn bản:
– Người bố và cả gia đình tìm đủ mọi vật dụng để ngăn cản loài kiến.
– Loài kiến đang xâm chiếm căn nhà và gây ảnh hưởng đến vật nuôi.
– Cuộc trốn chạy gian nan của gia đình trước sự xâm chiến của loài kiến.
– Những mất mát to lớn khi con người tác động vào môi trường sinh thái.
Dấu hiệu nhận biết Kiến và người là một truyện ngắn:
– Truyện có yếu tố hư cấu: Loài kiến nổi dậy, trả thù con người, xâm chiếm căn nhà và gây ảnh hưởng đến vật nuôi.
– Dung lượng truyện ngắn, số lượng nhân vật ít gồm: gia đình con người gồm 4 người và loài kiến.
– Truyện tập trung miêu tả một khía cạnh của đời sống xã hội: con người phá hủy môi trường sinh thái nên đã nhận hậu quả.
Câu 2 (trang 27, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Câu chuyện được kể từ ngôi kể nào, qua điểm nhìn của ai? Theo bạn, việc sử dụng ngôi kể, điểm nhìn như vậy có tác dụng gì trong việc thể hiện chủ đề, thông điệp của tác phẩm?
Trả lời:
– Câu chuyện được kể từ ngôi kể thứ nhất, qua điểm nhìn của người con cả trong gia đình, từ đó thấy cách ứng xử khác nhau của “bố cháu”,”mẹ cháu” và “cháu” khi đàn kiến tấn công.
→ Tác dụng của việc sử dụng ngôi kể, điểm nhìn: dẫn dắt, kể lại toàn bộ câu chuyện một cách chân thực, chủ quan nhất. Bằng ngôi kể này, người kể không phải chỉ kể chuyện mà còn kể tâm trạng. Do đó, nội dung truyện ngắn luôn luôn sống động và hết sức phức tạp. Kể và suy ngẫm, kể và tự ý thức, kể và độc thoại là những biểu hiện đặc biệt của cách kể chuyện.
Câu 3 (trang 27, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt trong cách ứng xử của “bố cháu” so với “mẹ cháu”, “cháu”, “em cháu”,…trước cuộc tấn công của bầy kiến.
Trả lời:
Bố cháu | Mẹ cháu | Cháu | Em cháu | |
Điểm tương đồng: | – Lo lắng, khổ sở, trốn chạy vì sự tấn công của bầy kiến | |||
Điểm khác biệt: | – Lo lắng tới mức tái mét mặt, buồn bực tới mức “nuốt không hết chén cơm”, lúc nào cũng phải đảo quanh nhà tìm đường ra, lúc thì thở dài tìm mọi cách, đến mức phải thốt ra “Bọn chúng buộc cả nhà ta phải chết”. – Sửng sốt đứng nhìn bầy kiến gây ảnh hưởng tới các con vật nuôi. | – Lo lắng, sợ hãi tới tái mét mặt, hốt hoảng, “co rúm người rồi ngã sấp lên nền nhà”,bất lực, chán nản. – Khẩn trương tìm ra những thứ có thể chống lại bầy kiến. – Dù vậy vẫn cố tỉnh táo để nấu cơm tối cho gia đình.
| – “Ngồi bó gối nghĩ đến loài chim” – Theo sát bên bố – Ra sức bịt kín ngõ ngách kiến có thể chui vào. – Run lên, sợ hãi khi chứng kiến sự xâm chiếm ngôi nhà của bầy kiến.
| – “ra giếng, chưa tắm, vội trở lại, báo tin bọn kiến đã vào tới giếng”. – Cùng anh trai khẩn trương làm mọi cách chống lại lũ kiến xâm nhập.
|
→ Khi phá rừng và có căn nhà để ở, cả gia đình bị đàn kiến tấn công. Lúc nào cả gia đình cũng trong trạng thái lo lắng vì sự tấn công của đàn kiến. Chỉ vì muốn chiếm đất để ở mà cả gia đình lúc nào cũng phải khổ sở, trốn chạy đàn kiến. Cả gia đình chạy trốn, nhà cũng bị cháy, người mẹ thì mất. Người bố đã quá tham lam và sai lầm, đi hết từ cái sai này đến cái sai khác.
Câu 4 (trang 27, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Phân tích ý nghĩa của hình tượng bầy kiến và nhận xét về cách đặt nhan đề của tác giả.
Trả lời:
– Hình tượng bầy kiến mang ý nghĩa biểu tượng cho hệ sinh thái môi trường đang bị con người hủy diệt. Bầy kiến là những con vật nhỏ bé nhưng lại có thể đấu tranh, chống trả với con người to lớn. Thông qua đó, tác giả muốn ngầm thể hiện sự tức giận đến tột cùng của thiên nhiên, của cả một hệ sinh thái đang bị con người phá hủy thậm tệ. Qua ngòi bút của Trần Duy Phiên thì những cái xấu đều bị đánh bại nếu như xâm lấn môi trường sinh thái.
– Cách đặt nhan đề của tác giả ngắn gọn, súc tích. Hai hình ảnh kiến và người tưởng chừng không liên quan nhau, một bên là con vật một bên là con người, một bên nhỏ bé bên kia thì to lớn. Chính cách đặt nhan đề này đã làm nên sự thành công của tác phẩm, việc đặt nhan đề như vậy phần nào phản ánh nội dung truyện, phần cũng để cho người đọc tò mò, đọc nhan đề mà muốn khám phá nội dung truyện.
Câu 5 (trang 27, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Nhận xét vai trò của tưởng tượng, hư cấu trong truyện ngắn Kiến và người.
Trả lời:
Vai trò của tưởng tượng, hư cấu trong truyện ngắn Kiến và người:
– Đóng vai trò phát triển tình huống, nội dung của truyện. Nếu không có chi tiết tưởng tượng, hư cấu bầy kiến nổi dậy, trả thù con người thì tác giả không thể phát triển nội dung truyện, đồng thời thiếu đi sự thú vị, sinh động, kích thích người đọc.
– Thông qua tưởng tượng, hư cấu, tác giả ngầm gửi gắm tới người đọc những thông điệp, bài học ý nghĩa mà không hề khô khan, nhàm chán.
– Thể hiện tài năng của tác giả trong việc xây dựng nội dung câu chuyện đặc sắc.
Câu 6 (trang 27, SGK Ngữ Văn 11, tập hai): Truyện đã mang lại thay đổi gì trong nhận thức của bạn về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên?
Trả lời:
– Truyện đã mang lại nhiều thay đổi trong nhận thức của em về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên: Con người và tự nhiên vốn là hai thứ luôn tồn tại song hành, bổ sung và tương trợ lẫn nhau. Nhưng nếu con người cố chấp xâm chiếm, phá hủy môi trường sinh thái tự nhiên thì ắt sẽ phải trả giá cho hành động, việc làm của mình.