Phân tích bài thơ Chái bếp của Lý Hữu Lương

phan-tich-bai-tho-chai-bep-cua-ly-huu-luong

Phân tích bài thơ Chái bếp của Lý Hữu Lương

  • Mở bài: 

– Lý Hữu Lương là người dân tộc Dao. Ông vừa là người lính vừa viết văn. Lý Hữu Lương tỏ ra có thế mạnh trong việc sử dụng ngôn ngữ hết sức mộc mạc, nhiều phương ngữ, thổ ngữ, cho ta thấy tâm hồn anh thấm đẫm tình yêu cội nguồn. Thơ Lý Hữu Lương giàu hình tượng, truyền thuyết nhưng đi kèm đó cũng là tính thực tại đời sống của người Dao. Đọc và hiểu thơ anh không dễ, bởi phong thái rắn rỏi, giàu chất liệu vùng cao, nhất là về đời sống tộc người, thổ ngữ, phong tục, sinh hoạt văn hóa và canh tác… vậy nên đòi hỏi người đọc cần phải có sự trải nghiệm.

– Bài thơ Chái bếp in trong tập thơ Yao, xuất bản năm 2021. Mượn hình ảnh chái bếp quen thuộc, gần gũi với mỗi người việt Nam, tác giả thể hiện sự trân trọng với những giá trị văn hóa tốt đẹp, truyền thống gia đình và hơn hết là muốn lưu giữ và truyền lại cho thế hệ sau. Tình cảm gia đình, tình yêu quê hương được tác giả thể hiện qua việc nhắc nhớ lại những hình ảnh, kỉ niệm đã gắn bó suốt từ thời thơ ấu.

  • Thân bài:

– Căn chái bếp là một gian nhỏ trong một căn nhà có ba gian, là nơi đun nấu và sinh hoạt của những người dân tộc Dao. Nơi đó có lúc thì bùng lên ngọn lên qua nồi cám mẹ đang đun, lúc thì lại nằm yên trong đêm tối.

– Căn chái bếp lúc nào cũng sẽ làn khói nghi ngút tỏa ra, đêm đông thì lại sưởi ấm cho cả gia đình. Ngoài ra, căn chái bếp như là một điều kỳ diệu, là nơi chứa đựng những cánh cung, chứng kiến quá trình lớn lên của một đứa trẻ. Xung quanh chái là âm thanh những đứa trẻ đang vui đùa trên nôi, là âm thanh của những người mẹ đang ru con ngủ. Căn chái bếp lúc nào cũng sôi động như thế, không lúc nào vắng bóng âm thanh.

– Trải qua bao thời gian, con người cũng theo đó về với tổ tiên, nhưng căn chái bếp vẫn nằm đó chứng kiến sinh hoạt của con người. Căn chái bếp được gia đình tu sửa bằng những lá cọ và còn được dẫn nước về máng. Tất cả những kỷ niệm đó thôi thúc tác giả quay về nơi mà mình sinh ra, nơi có mẹ cha đang tần tảo quanh nơi chái bếp.

1. Hình ảnh “chái bếp” hiện ra trong tâm tưởng của tác giả

– Hình ảnh chái bếp hiện lên với ngọn khói lập lờ qua nồi cám của mẹ “nồi cám bao năm mẹ đun dở”.

– Chái bếp hiện lên với nhiều hình ảnh và âm thanh sống động:

+ Hình ảnh: cánh nỏ cong hình lưỡi hái, chái bếp thõng mình, …

+ Âm thanh: “cha gọi tên”, “xình xịch mưa” …

Những hình ảnh chái bếp hiện lên như luôn nằm trong tâm trí tác giả.

+ Nhân hóa: những ngọn khói “cong ngủ”, “nằm nghe”, “thõng mình” giống như một đứa trẻ đang được mẹ ru ngủ.

→ Khiến người đọc cảm nhận được cái ngộ nghĩnh, đáng yêu mà tác giả dành cho căn chái bếp thân thương này.

– Điệp ngữ “cho tôi về” được lặp lại ở khổ một, ba như là một lời tha thiết, một tình cảm đặc biệt của tác giả với khung cảnh quen thuộc về căn chái bếp.

→ Tác giả muốn được quay về để lại được thấy những hình ảnh, những âm thanh đặc biệt này.

→ Hình ảnh về ngọn khói bên nồi cám của mẹ, thần bếp trong than củi, có cả hình ảnh con người dầm nắng sương hiện lên vừa chân thật vừa sinh động. Thêm những tình cảm đó, tác giả còn cảm nhận được qua những âm thanh quen thuộc xung quanh chái bếp. Làm sao có thể vắng bóng tiếng cười khóc của những đứa trẻ, được các bà các mẹ ru trên nôi, tiếng bếp lửa tí tách, những âm thanh như hòa cùng hình ảnh như bức tranh sống động khiến tác giả nhớ mãi không quên.

– Những kỷ niệm tuổi thơ luôn là những kỷ niệm không quên, sâu sắc nhất trong lòng của tác giả. Tác giả tha thiết muốn được trở về căn chái bếp, muốn một lần nữa cùng trải qua các hoạt động gắn liền với những người dân quê bên căn chái. Đó là thứ tình cảm trân trọng, lưu luyến qua mỗi hình ảnh, ký ức về con người được thể hiện qua từng câu chữ.

2. Khao khát trở về nơi “chái bếp” những người thân yêu.

– Tác giả miêu tả cái chái bếp, từ trong ra ngoài trong không gian và thời gian, khiến cho mọi hình ảnh hiện lên rất mộc mạc và giản dị.

+ Điệp từ “cho tôi về” xuất hiện như nhấn mạnh cái hoài niệm, cái nhớ nhung da diết mà tác giả đã từng trải qua trong chái bếp thân thuộc này.

“Cho” cũng như là những kỉ niệm tuổi thơ thật đẹp mà căn chái bếp đã mang lại cho kí ức tuổi thơ của chính tác giả. Cả bài thơ là những tình cảm thắm thiết nhất mà tác giả dành cho cái chái bếp nhà mình. Tác giả yêu, nhớ từng hình ảnh về ngọn khói lập lờ, có thần bếp, có hình ảnh tiếng khóc tiếng cười và có cả bầu trời kí ức tuổi thơ của thơ tác giả.

– Tác giả sắp xếp các hình ảnh, sự vật theo bố cục mở rộng, từ những thứ gần gũi giản dị đến những hình ảnh, sự vật rộng lớn hơn. Nhiều hình ảnh nhân hóa độc đáo: ngọn khói “cong ngủ”, “nằm nghe”, “thõng mình” được sử dụng một cách đọc đáo. Phép điệp từ nhấn mạnh nỗi nhớ thương da diết của tác giả, kỉ niệm tuổi thơ.

  • Kết bài:

Đối với tác giả, căn chái bếp không chỉ là nơi nấu ăn mà còn là trái tim của gia đình, nơi ghi dấu những ký ức và tình cảm sâu sắc. Mỗi khi nhớ về căn chái bếp, tác giả lại tràn đầy ấm áp và tự hào về gia đình thân thương. Đọc bài thơ “Chái bếp” của tác giả Lý Hữu Lương càng khiến chúng ta hiểu thêm sâu sắc, cái tình cảm thắm thiết mà tác giả dành cho kí ức tuổi thơ của mình bên chái bếp thân thuộc.

Bài văn tham khảo:

Bài thơ “Chái bếp” của Lý Hữu Lương đã đưa người đọc về với thế giới tuổi thơ, với chái bếp vương khói đong đầy những kỉ niệm ấm áp. Những nhung nhớ ùa về, cùng với những kỉ niệm không quên của tác giả khiến hình ảnh chái bếp hiện lên chân thật.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh căn chái bếp hiện lên thật mộc mạc, giản dị được tác giả miêu tả với tất cả tình thương nỗi nhớ của mình. Từ hình ảnh về “chái bếp” xuất hiện ở dòng thơ đầu tiên, hồi ức của tác giả mở rộng ra những hình ảnh quen thuộc như ngọn khói, nồi cám, vườn nhà, cánh nỏ, hồn người, quê cũ, nước đầu nguồn, tiếng ngô.

Ba khổ sau chái bếp được hiện lên với thật nhiều hình ảnh và âm thanh sống động. Những hình ảnh chái bếp hiện lên như luôn nằm trong tâm trí tác giả. Những ngọn khói “cong ngủ”, “nằm nghe”, “thõng mình” giống như một đứa trẻ đang được mẹ ru ngủ. Đó vừa là những hình ảnh nhân hóa độc đáo, vừa khiến người đọc cảm nhận được cái ngộ nghĩnh, đáng yêu mà tác giả dành cho căn chài bếp thân thương này.

“Cho tôi về” được lặp lại ở khổ một, ba, năm như là một lời tha thiết, một tình cảm đặc biệt của tác giả với khung cảnh quen thuộc về căn chái bếp. Tác giả muốn được quay về để lại được thấy những hình ảnh, những âm thanh đặc biệt này. Hình ảnh về ngọn khói bên nồi cám của mẹ, thần bếp trong than củi, có cả hình ảnh con người dầm nắng sương hiện lên vừa chân thật vừa sinh động.

Những âm thanh với tiếng cười nói, tiếng khóc của những đứa trẻ trên nôi khiến cho căn bếp lúc nào cũng nhộn nhịp. Từ những lời thơ đầu tiên, hình ảnh chái bếp hiện lên với ngọn khói lập lờ qua nồi cám của mẹ, rồi lại trải dài qua nhiều hình ảnh xung quanh chái bếp như hiện lên thật sinh động. Tác giả miêu tả cái chái bếp, từ trong ra ngoài trong không gian và thời gian, khiến cho mọi hình ảnh hiện lên rất mộc mạc và giản dị.

Tác giả sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ “cho”, “có” kết hợp với liệt kê những sự vật quê hương, nhấn mạnh nỗi nhớ thương mến của tác giả, mong ước trở lại nơi thân thuộc với những ký ức tươi đẹp. Bài thơ ngắn gọn, ngôn từ giản dị nhưng chứa đựng nhiều cảm xúc sâu sắc.

Cả bài thơ là những tình cảm thắm thiết nhất mà tác giả dành cho cái chái bếp nhà mình. Tác giả yêu, nhớ từng hình ảnh về ngọn khói lập lờ, có thần bếp, có hình ảnh tiếng khóc tiếng cười và có cả bầu trời kí ức tuổi thơ của thơ tác giả.

Có thể nói, “Chái bếp” của Lý Hữu Lương là bức tranh sống động về kí ức tuổi thơ, là tình cảm chân thành của tác giả dành cho căn chái bếp thân thuộc. Nếu nói về đồng bào người Dao, hình ảnh chái bếp là điều không thể không nhắc đến. Đơn giản nhưng quen thuộc, chái bếp là nơi hồn lửa luôn rực cháy, là trung tâm của tình cảm gia đình. Bài thơ như một cuộc hành trình ngược dòng thời gian, đưa tác giả và người đọc trở lại với những khoảnh khắc ý nghĩa.

Hãy bình luận đầu tiên

Để lại một phản hồi

Thư điện tử của bạn sẽ không được hiện thị công khai.