ĐẬP ĐÁ Ở CÔN LÔN
I. Tác giả, tác phẩm:
1. Tác giả: Phan Châu Trinh
Phan Châu Trinh (1872 – 1926), hiệu là Tây Hồ, còn có biệt danh là Hi Mã, quê ở làng Tây Lộc, huyện Hà Đông (nay là huyện Tam Kỳ) tỉnh Quảng Nam. Cụ đỗ Phó bảng, làm quan một thời gian ngắn rồi xin từ quan về nhà đọc “tân thư”, liên kết với những nhà nho yêu nước, chống Pháp.
Những năm hoạt động sôi nổi, phong phú của Cụ ở trong nước và ngoài nước (ở Nhật, ở Pháp) cùng những sáng tác thơ văn tràn đầy tinh thần dân chủ và sôi sục lòng yêu nước của nhà chiến sĩ đã góp phần làm dấy lên những phong trào cách mạng ở Việt Nam trong mấy chục năm đầu của thế kỉ 20.
Năm 1907 – 1908, nhân phong trào chống sưu thuế của nhân dân các tỉnh Trung kì nổ ra dữ dội, thực dân Pháp đã tử hình và bắt giam, đày Côn Lôn nhiều chiến sĩ cách mạng, trong dó có Phan Châu Trinh. Năm 1911, nhờ sự can thiệp của Hội Nhân quyền ở Pháp, Phan Châu Trinh đã được trả tự do trước thời hạn. Cụ đã đi Pháp tiếp tục hoạt động cách mạng. Tháng 6/1925, Cụ về nước, sau 15 năm lưu vong. Cụ tổ chức diễn thuyết ở Sài Gòn, cổ vũ tinh thần yêu nước và dân chủ trong quốc dân đồng bào. Ngày 24/3/1926 Cụ lâm bệnh và tạ thế. Đám tang Phan Châu Trinh là qụốc tang; được hàng vạn người khắp cả nước tổ chức lễ vọng điếu, biểu dương tinh thần ái quốc vô cùng sôi sục và mãnh liệt.
Trong bài “Văn tế Phan Châu Trinh”, cụ Phan Bội Châu có viết:
“Ba tấc lưỡi mà gươm mà súng, nhà cường quyền tráng gió cũng oai ghê;
Một ngòi lông vừa trống vừa chiêng, cửa dân chủ khều đèn thêm sáng chói”…
Cùng với Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng,… hình ảnh Phan Châu Trinh sống mãi trong niềm tự hào và ngưỡng mộ của dân tộc.
Phan Châu Trinh để lại nhiều thơ văn; đó là những tác phẩm chứa chan tinh thần yêu nước như “Tính quốc hồn ca”. “Giai nhân kì ngộ”, “Xăng tê thi tập”, “Tây Hồ thi tập ”.
2. Tác phẩm:
Xuất xứ
Năm 1908 phong trào chống sưu thuế của nhân dân ta ở Trung kì nổ ra dữ dội, bị thực dân Pháp đàn áp dã man, nhiều sĩ phu yêu nước bị giặc Pháp bắn giết, tù đày, Phan Châu Trinh đã bị cầm tù, bị đày ra Côn Lôn. Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” được cụ viết khi làm lao động khổ sai trên Côn Đảo.
Chủ đề
Mượn chuyện đập đá của tù khổ sai trên đảo Côn Lôn, tác giả bày tỏ khí phách ngang tàn, coi thường mọi gian nan thử thách, luôn giữ vững niềm tin và ý chí chiến đấu kiên cường bất khuất của người chiến sĩ yêu nước.
II. Phân tích bài thơ
Là chíên sĩ yêu nước, nên thơ văn của Phan Châu Trinh thắm đượm tinh thần dân chủ và chứa chan tình yêu nước. Bài thơ “Đập đá ở Côn Lôn” đã thể hiện khí phách hiên ngang bất khuất của người chiến sĩ cách mạng trong cảnh tù đày.
Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, mang tính hàm nghĩa sâu sắc:
“Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho là núi non.
Xách búa đập tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.
Tháng này bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng chỉ sờn dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lờ bước,
Gian nan chi kể việc con con. ”
Nhan đề bài thơ là “Đập đá ở Côn Lôn” nói về cảnh lao động khổ sai của nhà thơ và các chiến sĩ yêu nước bị thực dân Pháp đày đọa tại nhà tù Côn Đảo. Năm 1908, sau vụ chống sưu thuế ở Trung kì, Phan Châu Trinh bị chính quyền thực dân bắt giam và đày ra Côn Đảo và cái án khổ sai chung thân.
Bốn câu đầu vừa tả thực cảnh đập đá, vừa biểu lộ một tâm thể, một ý chí:
“Làm trai đứng giữa đất Côn Lôn,
Lừng lẫy làm cho là núi non.
Xách búa đập tan năm bảy đống,
Ra tay đập bể mấy trăm hòn.”
Chí nam nhi, chí làm trai coi việc “đứng giữa đất Côn Lôn”, bị tù đày khổ sai là một thách thức nặng nề nhưng chẳng hề nao núng, vẫn “lẫy làm cho lở núi non”, Hai từ “đứng giữa” biểu thị một tư thế hiên ngang, một tâm thế bất khuất trước uy vũ quân thù. Câu thơ thứ hai, nhất là cụm từ “làm cho lở núi non” thể hiện chí khí kiên cường trước cảnh ngộ bị quân thù đày đọa.
Các vị ngữ “đánh tan” và “đập bể” vừa tả thực sức mạnh đập đá “ năm bảy đông” và “mấy trăm hòn”, đồng thời ngụ ý một quyết tâm, một ý chí căm thù phá tan chốn ngục tù, lật đổ ách thống trị thực dân tàn bạo. Phép đối, cách dùng số từ, hàm súc, đa nghĩa làm nên giá trị nghệ thuật ở phần thực bài thơ:
“Xách búa đập tan năm bảy đống,
Ra tay đập bế mấy trăm hòn”.
Người anh hùng khi lỡ vận, gặp buổi gian nan vẫn không hề nao núng. Lời thơ cảm khái, ngang tàng, xem nhẹ nghihcj cảnh để tiếp tục tiến về phía trước thật tràn đày khí phách:
Tháng này bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng chỉ sờn dạ sắt son.
Những kẻ vá trời khi lờ bước,
Gian nan chi kể việc con con. ”
Hai câu 5,6 đôi nhau rất chỉnh. Lấy thời gian bị cầm tù (tháng ngày) đối với gian nan thử thách (mưa nắng) lấy thân dày dạn phong trần (thân sành sỏi) đối với tinh thần cứng cỏi trung kiên (dạ sắt son). Tất cả đã làm hiện lên hình ảnh một chiến sĩ cách mạng có tâm hồn và khí phách cao đẹp. “Thân sành sỏi” và “dạ sắt son” là hai hình ảnh ẩn dụ nổi lên một cách hàm súc và hình tượng phẩm chất cách mạng của nhà thơ.
“Tháng ngày bao quản thân sành sỏi,
Mưa nắng chi sờn dạ sắt son”
Các từ ngữ “bao quản” và “chi sờn” biểu thị một thái độ sẵn sàng chấp nhận, một quyết tâm dám thách thức và bạo lực quân thù.
Hai câu kết thể hiện bản lĩnh phi thường của những người có chí lớn, mưu đồ đại sự (vái trời) mà không thành (lỡ bước). Đó là anh hùng thất thế mà vẫn hiên ngang, coi chuyện tù đày, gian nan chỉ là “việc con con” không đáng kể, không đáng nói. Câu kết toát lên một phong thái ung dung tự tại,’ rât ngạo nghễ của nhà chiến sĩ:
“Những kẻ vá trời khi lỡ bước,
Gian nan chi kể việc con con”
Tổng kết:
“Đập đá ở Côn Lôn” tiêu biểu cho thơ ca viết trong nhà tù thực dân của các chiến sĩ yêu nước và cách mạng đầu thế kỉ 20. Bài thơ có giọng điệu đĩnh đạc, hào hùng. Ngôn ngữ hàm súc, vừa bình dị vừa cổ kính trang trọng. Người xưa thường lấy thơ để dãi bày cái tâm, để nói lên cái chí sẵn sàng xả thân để cứu nước, sắt son thủy chung với dân tộc, bất khuất hiên ngang trước cảnh tù đày, đó là cái tâm, cái chí của Phan Châu Trinh thể hiện trong bài thơ “Đập đá ờ Côn Lôn” này. Cái tâm, cái chí của nhà cách mạng tiền bối Phan Châu Trinh là bài học lớn cho chúng ta ngưỡng mộ và noi theo.
Bài tham khảo:
Đề bài: Cảm nhận ý nghĩa bài thơ Đảo Côn Lôn của Phan Châu Trinh
- Mở bài:
Bài thơ “Đảo Côn Lôn” được Phan Châu Trinh viết trong những ngày đầu khi cụ và nhiều chiến sĩ yêu nước khác bị thực dân Pháp bắt bỏ giam cầm tại nhà ngục Côn Lôn, đó là vào năm 1908. Bài thơ viết theo the thất ngồn bát cú Đường luật. Bài thơ tỏ rõ chí khí kiên cường, xem thường hiểm nguy của nhà nho yêu nước, nhà chí sĩ cách mạng vĩ đại của dân tộc trong cảnh tù đày.
- Thân bài:
Là một tù nhân khổ sai, nhưng nhà thơ vẫn có một cái nhìn rất đẹp rất đáng yêu về đảo Côn Lôn. Bài thơ tả cảnh ngụ tình: cảnh đảo Côn Lôn hùng vĩ xinh đẹp; nó là mảnh hình hài của giang sơn gấm vóc, tình yêu thiên nhiên chan hòa với tình yêu Côn Lôn, tình yêu Tổ quốc.
Hai câu đề gợi tả hình thế đảo Côn Lôn:
“Tang thương dờì đổi mấy thu đông
Cụm núi Côn Lôn đứng vững trồng”
“Tang thương” lấy từ cụm từ “Tang điền thương hai” rút gọn lại, nghĩa đen là bể dâu, chỉ sự biến thiên biến đổi. Câu thứ nhất có dị bản ghi: “Bể dâu dời đổi mấy thu đông”. Mấy thu đông là mấy năm dài. Côn Lôn không phải là một đảo mà là một “cụm núi”, một quần dảo ở cực nam (đông nam) của Tổ quốc. “Vững trồng” do thành ngữ “vững như trời trồng ” chỉ sự hùng vĩ, bền vững. Hai câu thơ gợi tả quần đảo Côn Lôn hùng vĩ, vững bền, bất di bất dịch trước bể dâu đổi năm tháng. Đó là sự khẳng dịnh sự trường tồn của Côn Lôn.
Hai câu thực (3, 4) tiếp theo miêu tả đảo Côn Lôn nằm giữa biển khơi, cả bôn phía bốn mặt đều bị sóng gió bao vây “giày vò”. Mặc dù thực dân Pháp đã biến Côn Lôn thành một nhà tù dể giam hàm, đày đọa, âm mưu tiêu diệt những nhà nho yêu nước, nhừng chíến sĩ cách mạng của dân tộc ta, nhưng Phan Châu Trinh vẫn nhìn quần đảo – một mảnh hồn Mẹ Tổ quốc yêu thương, đang bảo vệ, đang “che chở” những đứa con thân yêu vì mưu đồ sự nghiệp cứu nước mà bị cầm tù:
“Bốn mặt giầy vò oai sóng gió,
Một mình che chở tội non sông.”
Hai chữ “che chở” đã nhân hóa đảo Côn Lôn, khẳng định Côn Lôn mang nặng tình thương đối với nhà chiến sĩ. Đó là một cách nhìn nồng hậu, ấm áp, biểu lộ một tình cảm cao đẹp vơi Côn Lôn, một tình yêu sâu nặng đối vơi đất nước.
Hai câu 5, 6 trong phần luận là bức tranh sơn thủy tứ bình tuyệt đẹp, đăng đôi hài hòa. Có cỏ hoa. Cỏ cây trăm thức. Có rồng cá. Có biển một vùng. Một không gian mênh mông bao la có đất, trời, biển. Một cách viết tài hoa:
“Cỏ hoa đất này cây trăm thức,
Rồng cá trời riêng biển một vùng”
Phải giàu tình yêu thiên nhiên, phải có bản lĩnh phi thương và rất lạc quan yêu đời mới có cái nhìn ấy, mới có thể viết được những câu thơ đẹp như thế. Sâu xa hơn, phần luận bài “Đảo Côn Lôn” hé lộ cho ta thấy tâm hồn thanh cao, phong thái ung dung tự tại của một nhà nho chân chính, một kẻ sĩ mang cốt cách “lão thực ”.
Hai câu kết vừa là lời cầu mong đối với đảo “thiêng” nơi có “nước thẳm non xanh” vừa là niềm tin của khách anh hùng “Những kẻ vá trời khi lỡ bước”:
“Nước thẳm non xanh thiên chẳng nhẽ,
Gian nan xin hộ bước anh hùng. ”
Niềm tin sẽ vượt qua mọi hiểm nguy thử thách. Niềm tin vào một ngày mai sẽ thoát khỏi cảnh tù đầy. Niềm tin vào sự nghiệp cách mạng. Câu thơ “Gian nan xin hộ bước anh hùng” nói lên niềm tin mãnh liệt.
- Kết bài:
Phan Châu Trinh là nhà chí sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc ta. Cùng với Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, cụ là một trong những biểu tượng sáng ngời về tinh thần yêu nước được quốc dân đồng bào kính trọng và ngưỡng mộ. Thơ văn chỉ là một phần nhỏ bé trong cuộc đời hoạt dộng vô cùng sôi nổi và phong phú của nhà chí sĩ. Bài thơ “Đảo Côn Lôn“ là một bài thơ độc đáo, khẳng định mạnh mẽ chí khí của người anh hùng dọc ngang trời đất. Cách nhìn, cách tả, cách nghĩ của lác giả thể hiện chất nghệ sĩ lồng trong cốt cách anh hùng. Yêu cảnh sắc thiên nhiên Côn Lôn, lạc quan yêu đời và tin tương ngày mai là vẻ đẹp tâm hồn nhà thơ, nhà chí sĩ cách mạng của dân tộc.