phan-tich-bai-tho-hau-troi-cua-tan-da

Phân tích bài thơ “Hầu trời” của Tản Đà.

Phân tích bài thơ “Hầu trời” của Tản Đà.

  • Mở bài:

Tản Đà (1889 – 1939) là nhà thơ tiểu biểu của nền văn học Việt Nam thế kỷ XX. Sáng tác của Tản Đà thể hiện một cá tính nghệ sĩ tài hoa, tài tử. Tản Đà viết cả văn và làm thơ nhưng ông nổi tiếng với tư cách nhà thơ hơn. Thơ Tản Đà mang màu sắc cổ điển về hình thức và mới mẻ về nội dung, ông được gọi là cầu nối giữa hai thời đại văn học trung đại và hiện đại. “Hầu trời” được xếp trong tập “Còn chơi” (1921) là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Tản Đà. Bài thơ được viết dưới dạng tự sự, kể một tình huống tưởng tượng cảnh nhà thơ lên gặp trời để ngâm thơ cho trời nghe. Qua đó thể hiện ý thức cá nhân và thái độ của nhà thơ về nghề văn, về cuộc đời.

  • Thân bài:

Tản Đà được coi là “người nằm vắt mình qua hai thế kỉ”, là gạch nối giữa thơ mới và thơ cũ, là người đặt nền móng cho thơ mới. Những đánh giá ấy đã xác nhận vị trí quan trọng của Tản Đà đối với văn học Việt Nam giai đoạn giao thời. Ông là đại diện tiêu biểu của văn học Việt Nam giai đoạn này, giai đoạn văn học dân tộc có những bước chuyển mình, bắt đầu cho giai đoạn hiện đại hoá mau lẹ. Hầu trời là một bài thơ có rất nhiều điểm mới. Bài thơ thể hiện đậm nét cá tính sáng tác của Tản Đà. Mạch thơ được triển khai theo lôgíc một câu chuyện với các chi tiết cụ thể, rành mạch, khiến cho bài thơ hấp dẫn và có sức thuyết phục : nằm một mình, buồn nên dậy đun nước uống rồi ngâm văn, động đến trời, tiên xuống hỏi rồi đưa lên gặp trời, trời cùng chư tiên đón tiếp long trọng, mời đọc thơ, giới thiệu về mình rồi đọc thơ và giãi bày cảnh ngộ cùng Trời, Trời giải thích, khen ngợi rồi cho đưa về trần giới. Nhà thơ đã chọn một cách rất độc đáo để thể hiện tâm sự của mình.

Chuyện hầu trời bằng tưởng tượng đã giúp nhà thơ khẳng định tài năng của bản thân và bộc lộ quan niệm mới mẻ của ông về nghề văn, đồng thòi thể hiện ý thức của cái tôi cá nhân đầy cá tính của mình. Nhà thơ đã mở đầu câu chuyện của mình bằng một giọng điệu rất hấp dẫn, bịa mà rất tự nhiên, hóm hỉnh :

Đêm qua chẳng biết có hay không,
Thật được lên tiên sướng lạ lùng.

Lí do được trời mời lên hầu cũng thật đời thường và dễ tin: Nằm buồn dậy đun nước uống, rồi ngâm thơ, chơi trăng. Và “Tiếng ngâm vang cả sông Ngân Hà” đã làm trời mất ngủ. Thế là được lên trời.

Cuộc hội kiến với trời và chư tiên được kể lại chi tiết, hồn nhiên, nghe tự nhiên như thật. Tác giả đã chọn lối kể chuyện nôm na của dân gian để tái hiện câu chuyện hầu trời. Nhà thơ tưởng tượng tình huống gặp trời để giới thiệu về mình. Giới thiệu rõ, chính xác tên tuổi, quê hương, đất nước, nghề nghiệp, kể tên các tác phẩm của mình. Nhà thơ đã chọn tình huống độc đáo: gặp trời, ngâm thơ cho trời cùng chư tiên nghe, qua đó khẳng đinh tài năng của mình. Nhà thơ khẳng định một cách rất tự nhiên:

Đương cơn đắc ỷ đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.
Văn dài, hơi tốt ran cung mây !…

Tự khen tài của mình nhưng lại chọn hình thức để trời cùng chư tiên khen ngợi. Đây là một kiểu ngông đáng yêu.

Sau khi giới thiệu các tác phẩm, có phân chia rõ ràng thành từng loại theo quan điểm của bản thân (văn thuyết lí, văn chơi, văn tiểu thuyết, văn vị đời và lối văn dịch) thì đưa ra nhận xét, cùng với những nhận xét của trời “Văn đã giàu thay, lại lắm lối” (đa dạng về thể loại, giọng điệu). Nhà thơ lại còn mượn lời của trời để khẳng định tài năng của bản thân :

Trời lại phê cho: “Văn thật tuyệt
Văn trần được thế chắc có ít!…
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”

Nhà thơ đã hiên ngang khẳng định cái tôi của mình, gắn liền với tên tuổi thật của mình. Đó là thái độ ngông của người có tài và biết trân trọng, khẳng định tài năng của mình. Trọng thời đại của Tản Đà, đất nước đang mất chủ quyền, tự giới thiệu như còn là biểu hiện của sự tự hào, tự tôn dân tộc. Hóm hỉnh hơn, nhà thơ còn khẳng định cả phong cách ngông của mình:

– “Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông.”

Qua cuộc đối thoại tưởng tượng với trời, nhà thơ còn khẳng định nghĩa vụ và trách nhiệm cao cả của mình nói riêng và của người nghệ sĩ nổi chung là lo việc “thiên lương” của nhân loại:

Trời rằng ; “Không phải là Trời đày
Trời định sai con một việc này
Là việc “thiên lương” của nhân toại,
Cho con xuống thuật cùng đời hay.”

Tạo tình huống tưởng tượng này để an ủi mình, đồng thời cũng là để nói lên ý nghĩa cao quý của văn chương, của nhà văn. Cũng nhân đây, nhà thơ giãi bày tâm sự của mình về nghề Văn. Tản Đà được éoi là người đặt nền móng cho thơ mới, không chỉ bởi thơ ông mang hơi thở hiện đại eủa thời đãi với cái tôi cá nhân sừng sững giữa trang văn mà còn vì ông là nhà thơ đầu tiên “mang văn chương ra bạn phố phường”, coi nghề văn là nghề kiếm sống. Khi giãi bày cảnh ngộ với trời, nhà thơ đã kể lể rất chi tiết về nghề làm văn kiếm sống này. Tản Đà cũng đã dùng lời trời để tự an ủi mình.

Sáng tạo độc đáo về nghệ thuật của Tản Đà là đã đưa ngôn ngữ đời thường, nôm na, dễ hiểu, dung dị mà vẫn rất gợi cảm vào thơ ca. Ngôn ngữ thơ ở “Hầu trời” đã có sự xâm nhập của giọng điệu van xuôi và ngôn ngữ bình dân. Không quá câu nệ vào vần luật nên mạch cảm xúc đượò phát triển rẩt tự nhiên và cái tôi cá nhân đã thoả sức bộc lộ và thể hiện mình’.’Điểm độc đáo và thành công của bài thơ còn thể hiện ở:chỗ tạo ra cái cớ là tình huống hầu Trời để lự khẳng định tài năng và quan niệm của mình. Đó là một kiểu ngong đậm chất nghệ sĩ, vui vẻ và đáng yêu: Bài thơ cũng đã phác họa một chân dung thi sĩ Tản Đà với phong cách ngông độc đáo, đó là cái ngông của nhà nho tài tử ở thời kì mà ý thức cá nhân bắt đầu được trân trọng và khắng định.

  • Kết bài:

Với “Hầu trời”, Tản Đà đã mang đến cho văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX một không khí mới. Dưới hình thức một bài thơ – câu chuyện tưởng tượng vui và hào hứng, nhà thơ đã khẳng định cái tôi cá nhân của người nghệ sĩ. Nhà thơ vừa tự tin khẳng định tài năng của mình vừa nói lên quan điểm làm vân chương, đó là viết văn để phục vụ thiên lương. Viết văn hay làm cho đời đẹp hơn là nhiệm vụ trời đã trao cho người nghệ sĩ.


Tham khảo:

  • Mở bài:

Nói đến Tản Đà, trước hết người ta nói đến sự nghiệp thi ca của ông. Nói đến thi ca Tản Đà, người ta hay nhắc đến các bài “Thề non nước”, “Tống biệt”, “Thăm mả cũ bên đường”, “Cảm thu”, “Tiễn thu”,… Bài thơ “Hầu trời” tuy được nói đến ít hơn, và có thể chưa toàn bích, nhưng vẫn là một tác phẩm thật sự xuất sắc. Thậm chí nó có phần tiêu biểu hơn các bài thơ trên nếu xét theo tiêu chí: một tác phẩm lưu lại nhiều “chứng tích giao thời” của thơ ca Việt Nam, lại tạo được sự kích thích cho lớp nhà thơ đến sau muốn thực hiện những cách tân nghệ thuật.

  • Thân bài:

Lên thiên giới, xuống âm cung, sống với tiên, triều kiến Ngọc hoàng Thượng đế, trần tình trước Diêm Vương,… là đề tài thường thấy trong nhiều sáng tác dân gian và văn học viết thời trung đại: Cóc kiện trời, Từ Thức gặp tiên, Bắc thang lên tận công trời, Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên tào, Chuyên chức Phán sự đên Tản Viên (hai truyện sau nằm trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ),…

Có bao nhiêu chuyện li kì có thể kể về những chuyên du hành như thế, về cuộc gặp những “con người” như thế. Và hàng loạt vấn đề của tồn tại, của kiếp sống nhân gian cũng theo đó mà được người ta nhận thức một cách sâu sắc. Sang đầu thế kỉ XX, nhà nho tài tử cuối mùa là Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu như vẫn còn lưu luyến mộng xưa, từng ao ước được chị Hằng “nhắc lên chơi” nơi cung Quảng (bài Muốn làm thằng Cuội), để rồi một lần được “Trời sai gọi” thì thích thú mãi, nên hào hứng viết ra bài thơ Hầu trời để chia sẻ cùng độc giả.

Có lẽ, khi hạ bút viết hai chữ “Hầu trời” làm nhan đề, nhà thơ đang ở trong trạng thái hết sức hưng phấn. Giữa một thời mà trời, Phật, Thần tiên đã hơi bị mất thiêng do sự phát triển của khoa học và tinh thần duy lí, xem chừng sự trở lại với đề tài “hầu trời” dễ đẩy nhà thơ và bài thơ vào tình thế lạc lõng. Nhân vật trữ tình được gặp trời nhờ cơ duyên nào? Trời, theo sự miêu tả của nhà thơ, có đáp ứng được cách hình dung của tầng lớp độc giả mới ở thành thị khi đó ? Và câu hỏi hệ trọng hơn : Với bài thơ này, Tản Đà đã làm được điều gì khác lạ cho thơ? Mạch thơ cũng chính là mạch thuật kể một câu chuyện theo trình tự thời gian trước sau, rất dễ theo dõi. Đây là một đường nhiều nẻo lối mà Tản Đà mở sẵn để chất văn xuôi “xâm lăng” vào địa hạt thơ. Sự phong phú của các chi tiết trong bài xem ra không thua gì một tác phẩm tự sự bằng văn xuôi cùng đề tài (như Phạm Tử Hư lên chơi Thiên tào chẳng hạn). Theo mạch chuyện, âm điệu bài thơ cũng có sự chuyển biến linh hoạt: ở hai đoạn đầu, âm điệu chính là vui, hào hứng, phấn chấn; ở đoạn ba, âm điệu dằn dổi, kêu ca nổi lên (có xen chút an ủi, vỗ về khi thuật lại lời của Trời); cuối cùng, âm điệu chuyển sang ngậm ngùi, xao xác.

Tình huống truyện bắt đầu từ tiếng ngâm thơ “vang cả sông Ngân Hà” khiến trời “mất ngủ”. Rõ ràng, cái duyên được lên hầu trời gắn liền với câu chuyện văn thơ, gắn liền với những phút cao hứng của nhà thơ. Chuyện bịa mười mươi mà xem chừng rất “thật”, rất tự nhiên ! Xét theo một góc nhìn nào đó, chuyến “hầu trời” của Tản Đà được xuất phát từ những lí do khá là “vớ vẩn”. Xưa, người ta đã lên trời hoặc được trời triệu lên vì những điều có vẻ nghiêm trang, nghiêm trọng hơn nhiều : nào khiếu kiện, nào thỉnh cầu, nào để tiếp nhận bài học về cách khu xử thuận với “thiên lí”,… Nhưng biết làm sao, đối với Tản Đà, còn có chuyện gì quan trọng hơn là chuyện thơ văn. Bởi thế, trong tâm thức của ông, lí do được lên hầu tTrời như thế chẳng hề kém phần nghiêm túc. Đúng là mới đọc đến phần đầu của bài thơ, chúng ta đã thấy tác phẩm chứa đựng một nội dung cảm hứng khác với thơ văn truyền thống.

Bài thơ có rất nhiều chi tiết cụ thể được xếp đặt lô gích, thể hiện rõ tài hư cấu, sức tưởng tượng dồi dào của tác giả : nằm một mình → buồn → đun nước uống → ngâm văn ; tiên xuống → nêu lí do → đưa lên trời ; được đón tiếp trọng vọng, được mời đọc thơ → chư tiên xúm vào khen ngợi, tán thưởng → trời truyền hỏi danh tính → kể lể tình cảnh, bày giãi nỗi lòng → trời “đả thông” tư tưởng → lạy tạ ra về,… Dường như tác giả muốn người đọc xác nhận đây là một câu chuyện thật (một thoả thuận cần thiết để tiếp tục “trò chơi” mà cả hai bên cùng tham gia). Có lẽ, phải đến thời của Tản Đà, các thi sĩ mới có được sự cẩn thận, chu tất như thế với độc giả – kẻ sẽ tiêu thụ sản phẩm và góp phần quyết định phương thức sống bằng ngòi bút của họ.

Nhà thơ rất khéo tả bối cảnh, từ bối cảnh thanh đạm của phòng văn nơi hạ giới tới bối cảnh rực rỡ, oai nghiêm của chốn thiên đình. Nhờ vậy, không gian của câu chuyện trở nên có nhiều tầng lớp, phương vị, tương khớp với trường hoạt động của các nhân vật. Các đoạn đối thoại và miêu tả nhũng phản ứng tâm lí đa dạng của từng loại nhân vật được cài vào nhau thật linh hoạt, khiến người đọc có cảm tưởng mình đang thực sự tham gia vào câu chuyện, cùng nếm trải những phút “sướng lạ lùng”, “đắc ý”, cao hứng tột bậc của nhân vật trữ tình. Hãy đọc lại một đoạn thơ rất vui :

Văn dài hơi tốt ran cung mây!
Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay.
Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng Nga, Chúc Nữ chau đôi mày
Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay.

Đem đến cho độc giả những phút vui vô tư như thế có lẽ không phải là điều tùng được các nhà thơ trung đại quan tâm. Nhìn chung, việc “bịa đặt” nên cả một câu chuyện kéo dài rình rang như trong bài thơ “Hầu trời” mang nhiều ý nghĩa cách tân. Điều quan trọng nhất là nó đã đưa thơ trữ tình thoát dần nhiệm vụ tỏ chí nghiêm trang, khắc khổ để tiện giãi bày cảm xúc phóng khoáng của con người cá nhân và xây dựng một quan hệ giao tiếp mới đối với độc giả thành thị khi đó.

Lên tới được Thiên đình xưa nay chưa từng là chuyện dễ dàng. Nếu lên chỉ để đọc thơ cho thoả thích, kể sướng thì sướng thật đấy, nhưng quả có hơi… phí. Nhà thơ Tản Đà rất hiểu điều này nên đã tranh thủ chuyến “hầu trời” để “quảng cáo” tài năng của bản thân, để thổ lộ suy nghĩ về nghề văn trong những thập niên đầu của thế kỉ XX và về “sứ mệnh” xã hội mà ông tự đứng ra gánh vác (thật ra thì chỉ riêng việc đọc thơ cũng đã mang tính chất quảng cáo rồi).

Các nhà nho tài tử trước Tản Đà tất thảy đều thị tài (cậy tài, khoe tài), nhưng chữ tài mà họ nói tới nhiều khi mang một nội hàm khá rộng, gắn liền với khả năng “kinh bang tế thế”. Trước Tản Đà, không có nhiều người dám nói trắng ra cái “hay”, cái “tuyệt” của văn thơ mình như vậy, trong thơ, hơn nữa, lại nói trước mặt trời (một ông trời cũng khá bình dân !). Rõ ràng ý thức cá nhân ở nhà thơ đã phát triển rất cao và Tản Đà không hề vô lối khi tự khen mình (để cho trời khen thì cũng là một hình thức tự khen – có ai kiểm chứng được lời của trời nói đâu !). Nhà thơ đã thấy được “dài”, “giàu”, “lắm lối” là “phẩm hạnh” đặc thù của văn thời mình, bên cạnh những “phẩm hạnh” mang tính chất truyền thống như “nhời văn chuốt đẹp”, “khí văn hùng mạnh”, “êm”, “tinh”,…

Tinh huống “hầu trời” quả đã cho nhà thơ một cơ hội tuyệt vời để phô bày một cách sảng khoái tài năng thiên phú. Thật dễ thông cảm khi mọi nhân vật đều đang ở trong tình trạng cao hứng, từ nhà thơ đến chư tiên và trên hết là… Trời ! Cũng cần nói thêm, nhà thơ chỉ cao hứng như thế khi gặp được người hiểu và thông cảm (là trời) mà thôi. Ở hạ giới dễ đâu tìm được người tri âm như vậy ! Lời trời khen hẳn là sự thẩm định có sức nặng nhất, không thể bác bỏ, nghi ngờ. Đúng là lối tự khẳng định rất “ngông” của kẻ vốn đã “ngông” khi nhận mình là “trích tiên” !

Trong bài thơ, Tản Đà không trực tiếp phát biểu quan niệm của mình về nghề văn. Tuy vậy, ẩn sau các câu chữ, ta vẫn thấy có một sự hình dung khác trước về hoạt động tinh thần đặc biệt này. Trong mắt Tản Đà, văn chương thời đó là một nghề kiếm sống mới, có người bán, kẻ mua, có thị trường tiêu thụ và bản thân thị trường cũng hết sức phức tạp, không dễ chiều. Điều đáng lưu ý khác là dường như Tản Đà đã ý thức được sự cần thiết phải chuyên tâm với nghề văn, phải “trường vốn” để theo đuổi nó dài dài (“Nhờ trời văn con còn bán được – Chửa biết con in ra mấy mươi” ; “Vốn liếng còn một bụng văn đó”). Sau cùng, phải thấy Tản Đà đã chớm nhận ra rằng đa dạng về loại, thể là một đòi hỏi thiết yếu của hoạt động sáng tác, và với những sáng tác mới, tiêu chí đánh giá đĩ nhiên là phải khác xưa…

Trong hẳn một khổ thơ (từ câu 65 đến câu 68), tác giả đã “tâu trình” rõ ràng về họ tên, “xuất xứ” của mình cho trời nghe. Việc xưng danh của Tản Đà đã diễn ra khá tự nhiên, phù hợp hoàn toàn với mạch chuyện và đây không phải là hiện tượng chưa từng có trong văn học trung đại hay trong các sinh hoạt văn nghệ dân gian (như hát chèo chẳng hạn). Ta đã từng quen các kiểu xưng danh của Hồ Xuân Hương (“Này của Xuân Hương mới quệt rồi” – Mời trầu), của Nguyễn Du (“Bất tri tam bách dư niên hậu – Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” – Độc Tiểu Thanh kí), của Nguyễn Công Trứ “ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng” – Bài ca ngất ngưởng), giờ được biết thêm một kiểu xưng danh mang đậm dấu ấn Tản Đà. Khác người xưa, Tản Đà đã tách tên, họ theo một kiểu cung khai lí lịch rất hiện đại, lại còn nói rõ bản quán, quốc tịch, châu lục, tên của hành tinh,…

Có một nụ cười hóm hỉnh ẩn đằng sau vẻ thật thà, thành khẩn trước đấng chí tôn, nhưng điều đáng nói hơn hết vẫn là ý thức cá nhân, ý thức dân tộc của nhà thơ. Một cái tên – tên thật chứ không phải tự hay hiệu – mà được nói ra trịnh trọng đến vậy hẳn nhà thơ phải thấy có một giá trị không thể phủ nhận gắn liền với nó. Hơn nữa, ông còn muốn trời thấy được Nguyễn Khắc Hiếu chính là con người của Á châu, của xứ sở có một nền “văn minh tinh thần” cao quý, đáng tự hào (“Văn minh Đông Á trời thu sạch”). Cụ thể thêm một mức nữa, ông kiêu hãnh khai mình là đứa con đích thực của “Sông Đà núi Tản nước Nam Việt”. Khi trong thời hiện đại, hai chữ “thiên hạ” đã trở thành một khái niệm mở (điều này Tản Đà ý thức được rất rõ), đặc biệt là khi đất nước đã mất chủ quyền, kiểu nói như vậy của nhà thơ rõ ràng chứa đựng một thái độ tự tôn dân tộc, một “tình cảm non nước” đáng quý. Cũng qua câu thơ, tác giả đã ngầm cho biết lai lịch của bút hiệu Tản Đà – một điều đã từng được ông thể hiện trong nhiều bài thơ khác.

Nói sâu về bút pháp Tản Đà, rất cần chú ý tới tính chất bình dân trong lối tự sự cũng như giọng khôi hài thấm đượm trong cách dùng từ, trong kiểu đặc tả những biểu hiện cảm xúc của nhân vật, trong lối pha trộn các “chất liệu thơ “vốn không cùng “đẳng cấp” (theo ý thức văn học của thời trung đại),… Lối kể chuyện đầy tính chất bình dân và giọng khôi hài trong bài thơ hoàn toàn thống nhất với nhau, hỗ trợ cho nhau. Chúng lộ rõ trước hết ở thái độ hào hứng của người kể trước một đối tượng nghe chuyện (giả định) đồng đẳng, rất mực thân tình. Ngay trong chuyện kể, quan hệ giữa nhân vật trữ tình và chư tiên xem ra cũng suồng sã, thân mật (chư tiên gọi nhân vật trữ tình là anh). Từ dùng ở đây nôm na, bình dị, như được tiện tay lấy từ đời sống thường nhật, lại được đặt trong ngữ điệu nói nên càng có ý vị: “Văn dài hơi tốt ran cung mây” ; “Văn đã giàu thay, lại lắm lối – Trời nghe Trời cũng bật buồn cười”; “Chư tiên ao ước tranh nhau dặn”,…

Đặc biệt, dưới ngòi bút của tác giả, trời và chư tiên không có một chút gì đạo mạo. Họ biểu hiện cảm xúc theo một cung cách rất đỗi… bình dân : lè lưỡi, chau mày, lắng tai đứng, vỗ tay, bật buồn cười, tranh nhau dặn,… Cứ tưởng tượng hình ảnh các đấng siêu nhiên vốn không thuộc cõi người mà có những cử chỉ, điệu bộ ngộ nghĩnh như thế, độc giả không thể không cảm thấy buồn cười, không thể không phục cách kể chuyện “xôm trò” của tác giả. Giả sử bị tước đi lối kể “bình dân” và nụ cười hóm hỉnh, cả bài thơ sẽ mất đi một ý vị thẩm mĩ đặc trưng, bởi sự hấp dẫn của tác phẩm văn học nói chung không hẳn nằm ở chuyện mà ở cách kể, giọng kể. Hơn thế, trong bài thơ này, lối kể ấy, nụ cười ấy làm nên nội dung trữ tình chính, giúp ta hiểu về con người tác giả hơn bất cứ cái gì khác. Nói tóm lại, những yếu tố vừa nêu là một phần tất yếu của bài thơ, hoàn toàn xứng hợp với câu chuyện “hầu trời” mà tác giả đã hư cấu. Như vậy, để cảm nhận đúng cái “thần” của bài thơ, điều quan trọng trước hết chưa phải là “nhấm nháp” từ tốn từng câu thơ một, tróc tìm “ý nghĩa” trong mỗi lời nói của nhân vật trữ tình, mà là việc xác định một tâm thế sẵn sàng tham dự vào “cuộc chơi” do tác giả đề nghị, chia sẻ tiếng cười của tác giả trên một tinh thần dân chủ.

Đúng là so với yêu cầu hàm súc của thơ xưa, “Hầu trời” có vẻ quá dài. Nhưng đây là một đặc điểm chứ chưa hẳn là một nhược điểm, và như vậy, cần đánh giá nó theo tiêu chí riêng. Dài là một đòi hỏi tự nhiên đối với bài thơ giàu yếu tố tự sự như Hầu Trời. Hơn thế, nguyên tắc tôn trọng dòng chảy tự nhiên, sống động của cảm xúc cá nhân, cá thể của thơ thời đại (mà Tản Đà là người có công đầu xác lập) cho phép nhà thơ thoát ra khỏi những ràng buộc quá khắt khe về hình thức để thoải mái chứng minh sự hiện diện của cái tôi trong nghệ thuật.

Điều đáng nói khác là quan hệ giao tiếp mới, dân chủ hơn giữa độc giả và nhà thơ (sản phẩm của thời đại) không bắt buộc tác giả phải quá tiết chế trong cảm xúc, trong việc triển khai ý thơ, tứ thơ,… Ngoài ra, không loại trừ khả năng bài thơ được kéo dài nhằm đáp ứng nhu cầu của báo chí phải lấp khoảng trống trong một chuyên mục nào đó, thêm nữa, nhằm giúp nhà thơ tính dòng… lấy nhuận bút. Bên cạnh độ dài khá khác thường, “Hầu Trời” còn đáng chú ý với hiện tượng chia khổ (các khổ có độ dài khác nhau), với sự xuất hiện của những từ nôm na, thông tục, với ngữ điệu nói,…

Đọc thơ Tản Đà, nghe các giai thoại về ông, ai cũng thấy ông quả là một tay “ngông”. Từ “ngông” trong nghiên cứu văn học thường được dùng để chỉ định một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác thói thường của những nhà văn, nhà thơ có ý thức cá nhân cao độ. Tất nhiên, ý thức cá nhân ấy cũng chỉ được phát triển mạnh mẽ trong những điều kiện xã hội nhất định, gắn liền với tổng thể nhũng quan niệm khá mới mẻ (trong khuôn khổ thời trung đại) về vũ trụ, nhân sinh và nghệ thuật. Tản Đà không phải là một trường hợp “ngông” cá biệt trong văn học Việt Nam. Trước ông, những người như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát,… đều “ngông”. Tuy nhiên, cái “ngông” của Tản Đà vẫn có những điểm đặc thù do quy định của thời đại.

Trong bài “Hầu Trời”, cái “ngông” của Tản Đà có những biểu hiện nổi bật. Ông tự cho văn mình hay đến mức trời cũng phải tán thưởng, không thấy có ai đáng là kẻ tri âm với mình ngoài trời và chư tiên. Ông xem mình là một “trích tiên” bị “đày xuống hạ giới vì tội ngông” và nhận mình là người nhà trời, được sai xuống hạ giới thực hiện một sứ mệnh cao cả (thực hành “thiên lương”).

Ngoài ra, nguyên việc nhà thơ bịa ra chuyện “hầu trời”, nói “ngon lành” như thể đó là chuyện thật đã hàm chứa một sự khiêu khích nhất định đối với cái nhìn tôn ti, đẳng cấp đang thống trị xã hội lúc ấy. Đó là chưa kể việc Tản Đà “dám” hình dung các đấng siêu nhiên như những đối tượng rất đỗi bình dân, thậm chí ngang hàng với mình,…

Cái “ngông” của Tản Đà có nhiều điểm gặp lại cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ (thể hiện qua Bài ca ngất ngưởng) : ý thức rất cao về tài năng của bản thân ; dám nói giọng bông lơn về những đối tượng như trời, Tiên, Bụt ; dám phô bày toàn bộ con ngựời “vượt ngoài khuôn khổ” của mình trước thiên hạ, như muốn “giỡn mặt” thiên hạ,… Nói về điểm khác giữa hai người, có thể thấy : “ngông” ở Tản Đà là cái “ngông” của kẻ tuy không phải sống vô trách nhiệm với xã hội nhưng không còn xem vấn đề “Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung” là chuyện hệ trọng nữa. Hơn nữa, cái tài mà Tản Đà muốn khoe về cơ bản là cái tài thuộc phạm trù văn chương. Rõ ràng ở đây nhà thơ đã rũ bỏ được khá nhiều gánh nặng trách nhiệm (mà thông thường các nhà nho vẫn đặt trên vai mình) để sống tung tẩy hơn với cái tự do cá nhân mới mẻ mà thời đại đưa tới.

  • Kết bài:

“Hầu trời” quả là bài thơ hay, độc đáo, có nhiều nét mới về mặt thi pháp, rất tiêu biểu cho tính chất “giao thời” trong nghệ thuật thơ Tản Đà. Qua bài thơ, có thể nhận ra được nhiều điều về xu hướng phát triển của thơ Việt Nam trong những năm hai mươi của thế kỉ XX. Theo quan niệm văn học và cách phân chia văn loại của nhà thơ, “Hầu trời” thuộc loại văn chơi, nghĩa là thơ ca – loại văn không trực tiếp bàn về các vấn đề xã hội (phân biệt với văn thuyết lí có hình thức văn xuôi). Trên thực tế, các vấn đề xã hội vẫn cứ hiện diện trong bài. Chỉ có điều, chúng hiện diện theo một kiểu khác, dưới một hình thức khác, so với trước.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang