phan-tich-doan-trich-danh-nhau-voi-coi-xay-gio-don-ki-ho-te-cua-xec-van-tec

Phân tích đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió (trích “Đôn Ki-hô-tê” của Xec-van-tec)

Phân tích đoạn trích “Đánh nhau với cối xay gió” (trích “Đôn Ki-hô-tê” của Xec-van-tec).

  • Mở bài:

Xec-van-tex là nhà văn lớn của Tây Ban Nha trong thời đại Phục Hưng. Ông được xem là người khai sinh ra tiểu thuyết hiện đại, đặc biệt là loại tiểu thuyết phiêu lưu. Xuất hiện trong thế kỉ 16, tiểu thuyết “Đôn Ki-hô-tê” của Xec-van-tex được coi là một kiệt tác văn chương. Tác phẩm đã chế giễu tàn dư cửa lí tưởng hiệp sĩ phong kiến lỗi thời, báo hiệu sự xuất hiện của thời đại Phục hưng với những con người mới, tính cách và nghị lực mới, sáng ngời chủ nghĩa nhân văn. Đoạn trích “Đánh nhau với cối xay gió” nằm ở phần đầu của tiểu thuyết.

  • Thân bài:

Cuốn tiểu thuyết “Đôn Ki-hô-tê” là một kiệt tác sáng ngời chủ nghĩa nhân văn cao đẹp, là một trong những tác phẩm vĩ đại nhất thời Phục hưng. Nó đã làm tên tuổi Xec-van-tex trở thành bất tử, sống mãi trong lòng nhân loại cùng với những tuổi lừng danh như Sêc-xpia, Ra-bơ-le… vị trí vinh quang của những người đặt nền móng cho nền văn học thời đại mới.

Nhân vật Đôn Ki-hô-tê xuất thân là một lão quý tộc nghèo ở nông thôn lên là Ki-ha-đa. Ngươi lão gày gò, cao lênh khênh và trạc năm chục tuổi. Lão say mê các truyện hiệp sĩ phiêu lưu, đầu óc lão ngày một trở nên mụ mẫm, chìm đắm trong mộng tưởng hão huyền. Lão mơ ước trở thành một hiệp sĩ giang hồ đi khắp nước Tây Ban Nha, phò đời cứu nguy, diệt trừ lũ khổng lồ yêu quái, thiết lập trật tự và công lí, để lại bao chiến công oanh liệt cho đời.

Con ngựa gầy được lão phong cho cái tên rất oai: chiến mã Rô-xi-nan-tê. Lão tự xưng là hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê xứ Man-tra. Anh nông dân lùn, cục mịch được lão phong tước : giám mã Xan-chô Pan-xa. Đã là hiệp sĩ thời thượng thì phải có tình nhân. Lão nhớ ngay một phụ nữ mà lão thầm yêu trộm nhớ thời còn trai trẻ, lão liền ban cho ả nhà quê này một cái tên rất quý tộc, mĩ miều: Công nương Đuyn-xi-ne-a vùng Tô-bô-xô. Lão làm lễ thụ phong trước ngày lên đường chinh chiến. Có một chi tiết khá thú vị là trong lễ thụ phong này tại quán trọ, hai ả gái điếm được nhà hiệp sĩ xứ Man-tra ban tước thành 2 công nương vô cùng tôn quý. Hài hước nhất là lão tìm được binh khí, giáp trụ của tổ tiên đã han gỉ, rồi lão sửa chữa, đánh bóng lại để tự vũ trang cho mình.

Sau trận đánh nhau với bọn lái buôn vì họ không chịu nhận công nương Đuyn-xi-ne-a là đẹp nhất trần gian, Đôn Ki-hô- tê bị bọn chúng nện một trận nhừ tử, bị bắt đưa về làng m mộng chiến công mới. Lần này lão đánh nhau với lũ cối xay gió là một bi hài kịch, chế giễu những kẻ ngông cuồng, hão huyền tột cùng của lão nhà quê.

Trận đánh diễn ra vào lúc ban trưa. Sau nhiều ngày lang thang, một ngày, trên cánh đồng vùng Montiel, hiệp sĩ xứ Man-tra đã nhìn thất những tên “khổng lồ hung tợn” đang há hóc mồm, cánh tay vươn dài ( thực ra là những chiếc cối xay gió). Lão tự huyễn hoặc mình rằng trách nhiệm của lão là phải kết liễu đời lũ khổng lồ yêu quái này, trước là để thu chiến lợi phẩm, trở nên giàu sang phú quý, sau nữa là quét sạch cái giống xấu xa này khỏi mặt đất và để “phụng sự Chúa”. Phải công bằng mà nói rằng, tuy lão có “nhìn gà ra vịt” nhưng mục đích chiến đấu là rất cao đẹp.

Lão ăn nói rất hùng hồn. Lúc thì chê bai quan giám mã: “Nếu anh sợ thì gãy mau mau lánh ra xa mà cầu kinh trong lúc ta đương đầu vào  trong một cuộc chiến tranh gay go và không cân sức. Lúc xung trận, lão đằng đằng sát khí: “Lũ súc sinh kia, không được chạy trốn!” Lúc thì oai phong, lẫm liệt cảnh cáo

Cuộc giao chiến giữa người với vật được tác giả miêu tả bằng giọng văn hài hước, hóm hỉnh. Vừa lúc nổi lên một làn gió nhẹ và các cánh quạt lớn của những chiếc cối xay gió bắt đầu chuyển động, Đôn Ki-hô-tê liền nói: “Dù cho bọn ngươi có vung nhiều cánh tay hơn cả gã khổng lồ Briaro, các ngươi cũng sắp phải đền tội”. Tư thế của lão hiệp sĩ vô cùng dũng mãnh, hiên ngang. Nói xong, ông ta nhiệt tình thành tâm niệm cầu mong “công nương” Đuyn-xi-ne-a của mình cứu giúp cho trong lúc nguy nan này rồi lấy khiên che kín thân, tay lăm lăm ngọn giáo, thúc con ngựa phi thẳng tới chiếc cối xay gió gần nhất ở trước mặt. Ông ta đâm mũi giáo vào cánh quạt, vừa lúc gió làm cánh quạt quay tít khiến ngọn giáo gãy tan tành. Đây là hình ảnh lão hiệp sĩ lừng danh trong chiến địa: “Cả người lẫn ngựa ngã chổng kềnh”. Và lúc này giám mã thúc lừa chạy tới cứu thì thấy chủ tướng đã nằm không cựa quậy sau cái ngã như trời giáng

Đoạn văn hài hước, hóm hỉnh khẳng định tài năng của Xec-van-tec. Nghệ thuật dựng cảnh và kể chuyện đạt đến mức độ điêu luyện làm hiện lên một trận đánh thời trung cổ: có dàn trận, có tuyên bố lí do, có đấu khẩu lúc giao phong, có cảnh đánh nhau dữ dội, quyết trận sinh tử, bãi chiến trường sau trận đánh hoang tàn. Hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê mới là “người hùng” đích thực sống trong hão huyền. Sự mụ mẫn của lão đã được đẩy lên đến cực điểm: xay gió mà lão cho là gã khổng lồ. Ngôn ngữ khoát lác, trông giống tuyên ngôn. Lão cũng thét vang lúc xung trận. Cử chỉ, điệu bộ và hanh động cũng rất tự tin, đàng hoàng, cực kỳ oai phong, lẫm liệt! Đúng là coi cái chết nhẹ tựa lông hồng.

Hình ảnh Đôn Ki-hô-tê nằm không cựa quậy trên mặt đất trước cặp mắt của giám mã Xan-cho Pan-xa là nét vẽ biếm họa đặc sắc nhất, có giá trị chế giễu tầng lớp hiệp sĩ thời trung cổ đã lỗi thời! Người đọc cũng không nhịn được cười khi lão hiệp sĩ cầu cứu tình nương trước lúc giao đấu! Một hành động ngây ngô đến nực cười, không thể nào tin được rằng nó xuất phát từ một người trưởng thành.

Câu chuyện giữa hai thầy trò sau trận đánh nhau với cốì xay gió cũng vô cùng thú vị. Chết mà nết không chừa! Thất bại bi thảm lại nhục nhã mà vẫn còn khoác lác. Trước lời an ủi của quan giám mà, Đôn Ki-hô-tê đã chĩ cho anh béo lùn biết rằng cái nghề cung kiếm “luôn luôn biến chuyển”. Nghĩa là sự thắng, bại là chuyện bình thường. Nguyên nhân thất bại theo Đôn Ki-hô-tê rất bất ngờ vì lão pháp sư Phơ-re-xtôn đã đánh cắp mất “sách vở” bảo bối của lão. Hắn ta “thâm thù ta”, hắn đã tước mất phần vinh quang chiến thắng của ta!” Đúng là khẩu khí của hiệp sĩ xứ Man-tra lừng danh thiên hạ! Mội thất bại của lão đều là do lỗi của người khác. Lão luôn đúng. Không có lí do gì có thể khiến lão làm sai cả. Một sự hoang tưởng về năng lực bản thân đến độ mất cả lí trí.

Thương cho con ngựa gầy nhom “bị toạc lửa lưng” vẫn phải cõng chủ. Đôn Ki- hô-tê quyết định đi về phía cánh rừng và tiếp tục hy vọng “sẽ gặp được nhiều chuyện mạo hiểm khác” để mà thi thố tài năng. Hiệp sĩ tỏ ra rất buồn phiền về cái giáo bị gãy. Cái vốn sách vở kiếm hiệp lại ru lão ta vào giấc mộng hào huyền. Lão nhắc tới hiệp sĩ Tây Ban Nha ngày xưa là Va-gax giữa trận đánh, gươm bị gãy, đã nhổ cây sồi làm vũ khí tiêu diệt quân Mô-rô, nhờ thế mà trở nên bất tử và bất diệt “Hiệp sĩ diệt địch”, làm rạng rỡ cháu con đời đời. Kể lại chuyện ấy, Đôn Ki-hô-tê muôn nói lên chí hướng mình muôn theo gương người xưa, cũng sẽ nhổ cây sồi để diệt địch, sẽ lập lên “những chiến công phi thường” mà quan giám mã sẽ là người có diễm phúc được mục kích! Qua đó, ta thấy Đôn Ki-hô-tê vẫn kiêu hùng, tự tin, đầu óc anh ta quá mê muội, khoác lác đến cực độ!

Khi giám mã “thật thà” nhắc lại sự thất trận vừa qua, cái ngã chắc hẳn “làm ngài vẹo vọ hẳn đi” thì chàng hiệp sĩ hồn nhiên trả lời: “Đúng thế! Và nếu không kêu đau là vì các hiệp sĩ gian hồ có bị thương cũng không được rên rỉ, dù sổ cả ruột ra ngoài”. Đó cũng là một nét rất “anh hùng” của Đôn Ki-hô-tê! Khi Xan-chô tâm sự là nếu có bị gai đâm cũng kêu lên thi ông chủ tài ba đã “không nín được cười”, đĩnh đạc nói với giám mã “cứ việc rên la” “cho tới nay chưa thấy sách kiếm hiệp nào ngăn cấm cả”.

Phần cuối là chuyện ăn, chuyện ngủ của hai thầy trò hiệp sĩ. Hai thầy trò cùng đi giang hồ, với “lý tưởng” dẹp bất công, cứu nguy phò đời nhung trong tâm hồn, tính cách là hai thế giới riêng biệt! Đến giờ ăn, Đôn Ki-hô-tê không hiểu vì sao mà “chưa muốn ăn”. Còn Xan-chô, sau khi được phép chủ, ngồi thoải mái trên lưng lừa “ăn một cách khoái trá”, nghiêng bầu rượu, quên cả những lời hứa hẹn của chủ phong anh ta làm thông đốc sau này, vừa vui vẻ suy ngẫm về cái nghề đi tìm kiếm chuyện phiêu lưu “tuy có nguy hiểm song không đến nỗi vất vả”. Đó cũng là nét vẽ hài hước về sự “cái miếng ăn gần, cái ước mơ xa” ở đời!

Đêm đến, hai thầy trò nằm dưới gốc gây. Giám mã sau khi đánh chén no sau “làm một giấc tới sáng”. Sáng dậy vừa mở mắt ra đã vớ ngay bầu rượu, bác hơi buồn vì bầu rượu đã vơi đi, mà quãng đường này khó đào đâu ra rượu để đổ vào cho đầy! Trái lại, Đôn Ki-hô-tê thì suốt đêm thao thức. Chàng đã bẻ “một cành 50 khô” lắp vào cán gẫy làm thành một ngọn giáo! Chàng chằn chọc thâu đêm vì thương nhớ tình nương Đuyn-xi-nê-a. Chiều qua đã nhịn, sáng nay lại không ăn, chẳng phải là Đôn Ki-hô-tê bị đau nên không ăn được, mà chàng đang sống trong mộng mị, vì chỉ “nghĩ đến người yêu cũng đủ no rồi!”.

Nhân vật giám mã Xan-chô là một nhân vật phụ, một nét vẽ bổ trợ nhưng rất sông động. Một mặt, nó có giá trị làm nổi bật tính cách ngông cuồng, mụ mẫm, ôm ấp những mộng tưởng hão huyền của Đôn Ki-hô-tê về cuộc đời hiệp sĩ, mặt khác thể hiện một quan niệm sống phác thực, hồn nhiên, giản dị của những người dân quê yêu đời, thiết thực.

  • Kết bài:

“Đánh nhau với cối xay gió” là một trang đời, nêu bậc một trong những “chiến công oanh liệt” của Đôn Ki-hô-tê hiệp sĩ xứ Man tra đã ghi vào sử sách! Xec-van-tex đã sử dụng thủ pháp trào lộng, phóng đại và tương phản đối lập trong kể chuyện để dựng cảnh, đã làm lên một trang hiệp sĩ Tây Ban Nha thời Trung cổ đã lỗi thời! Đằng sau câu văn, dòng chữ, ta luôn luôn bắt gặp nụ cười hóm hỉnh của Xec- van-tex. Đằng sau nụ cười chế giễu của nhà văn là sự đề cao trong một chừng mực nhất định tình yêu tự do, bình đẳng, sông thiết thực yêu đời, mang tính nhân văn.


Tham khảo:

Phân tích đoạn trích “Đánh nhau với cối xay gió”.

  • Mở bài:

Tác phẩm “Đôn Ki-hô-tê nhà quý tộc tài ba xứ Man tra” là kiệt tác văn học của Xec-van-tec. Đoạn trích Đánh nhau với cối xay gió” rút từ chương VIII – IX của phần thứ nhất tác phẩm, có tiêu đề :“Cuộc gặp gỡ rùng rợn quá mức tưởng tượng giữa hiệp sĩ dũng cảm Đôn Ki-hô-tê với những cối xay gió và những sự việc khác đáng ghi nhớ”. Tuy đoạn trích rất ngắn so với toàn bộ khối lượng tác phẩm, nhưng đây là đoạn thể hiện khá rõ những điều tốt đẹp của Đôn Ki-hô-tê và cả những điều ngớ ngẩn, đáng chê cười của chàng.

  • Thân bài:

Đoạn trích kể về hai thầy trò Đôn Ki-hô-tê và Xan-chô đang trên đường đi tìm những chiến công thì chợt phát hiện thấy ba bốn chục chiếc cối xay gió giữa đồng. Đôn Ki-hô-tê liền chỉ cho người giám mã của mình thấy rằng đó là những tên khổng lồ và bày tỏ ý định giao chiến. Xan-chô biết ông chủ của mình nhầm đã hết sức can ngăn nhưng không thành. Đôn Ki-hô-tê hăng hái cầm giáo, thúc con ngựa gầy gò lao vào. Bỗng lúc đó gió nổi lên, cối xay gió bắt đầu chuyển động và Đôn Ki-hô-tê ngã lăn kềnh. Giáo gãy, ngựa và người văng ra, Đôn Ki-hô-tê bị đau như trời giáng. Nhưng dẫu bị thương rất nặng như thế, anh chàng hiệp sĩ mộng mơ vẫn quyết không kêu đau vì nghĩ rằng: “các hiệp sĩ giang hồ có bị thương thế nào cũng không được rên rỉ”. Đã vậy, chàng còn kiên quyết không ăn uống, chỉ nghĩ đến tình nương đã đủ no rồi! Xan – chô thấy vậy bèn bỏ rượu thịt ra đánh chén no nê một mình. Bác giám mã cảm thấy cái nghề đi tìm kiếm chuyện phiêu lưu này kể ra cũng chẳng vất vả gì. Đôn Ki-hô-tê suốt đêm không ngủ và chỉ tiếp tục miên man nghĩ đến tình nương. Hôm sau, hai thầy trò đi về phía cảng La-pi-xê, vì Đôn Ki-hô-tê nghĩ: “con đường này có lắm người qua lại chẳng thể nào không gặp nhiều chuyện phiêu lưu khác nhau”.

Qua đoạn trích, người đọc thấy rõ những điều tốt đẹp của nhân vật Đôn Ki-hô-tê khi xông lên đánh nhau với cối xay gió – những gã khổng lồ: Kiên quyết tiêu diệt cái ác, cái xấu “quét sạch cái giống xấu xa này khỏi mặt đất”; dũng cảm, chủ động tấn công địch, không sợ chênh lệch lực lượng; quyết chiến thắng kẻ thù cho dù chúng dùng pháp thuật xấu xa; không hề rên rỉ, theo gương các hiệp sĩ giang hồ, dù có bị thương “sổ cả ruột ra ngoài”.

Như vậy, rõ ràng Đôn Ki-hô-tê là người có lí tưởng tốt đẹp, là người dám chiến đấu hi sinh để phụng sự lí tưởng, là người mong muốn những điều tốt đẹp cho mọi người. Chính điều này làm nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn của nhân vật.

Thế nhưng, Đôn Ki-hô-tê lại là người sách vở và không có thực tế, một người mà đầu óc chứa đầy những chuyện kiếm hiệp. Bởi vậy mà anh ta hành động điên rồ, mù quáng và buồn cười. Điều đó thể hiện ở việc khăng khăng coi những cối xay gió là những gã khổng lồ độc ác, xông lên đánh nhau với chúng đến nỗi giáo gãy tan tành, bản thân ngất đi, con ngựa cũng bị toạc nửa lưng. Rồi cái gì cũng theo sách vở : cầu mong tình nương giúp đỡ khi giao chiến, không dám kêu đau vì sách nói hiệp sĩ không được rên rỉ, cho phép Xan-chô Pan-xa kêu la thoải mái vì sách kiếm hiệp không cấm. Và thức cả đêm để nghĩ tới tình nương, nhịn ăn sáng vì nghĩ đến người yêu cũng đủ no.

Chúng ta ca ngợi, khâm phục tinh thần sống có lí tưởng, dũng cảm chiến đấu cho công bằng, hạnh phúc của thế giới này của nhân vật, nhưng cũng phê phán sự gàn dở,  mù quáng theo sách vở và cố  chấp của chàng.

Không phải ngẫu nhiên mà có nhà nghiên cứu khẳng định rằng trong mỗi người chúng ta đều có một ít dòng máu của Đôn Ki-hô-tê. Đó chính là  bản chất lương thiện với lí tưởng tốt đẹp, tinh thần quyết tâm vượt khó khăn; đó cũng chính là còn có những lúc chúng ta mù quáng, xử sự ngớ ngẩn, xa rời thực tế.

Các nhà làm phim xô viết khi dựng lại tác phẩm Đôn Ki-hô-tê đã để  hình ảnh kết thúc bộ phim là Đôn Ki-hô-tê cùng với con ngựa Rô xi nan tê và anh giám mã Xan-chô Pan-xa cưỡi con lừa đã đập vỡ kính của bảo tàng và hăng hái làm một cuộc ra đi mới. Rõ ràng, trên trái đất của chúng ta còn bao nhiêu điều bất công, ngang trái, con người chưa được sống hạnh phúc, thì hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê chưa thể nghỉ ngơi trong viện bảo tàng. Đấy cũng là một cách đánh giá cao nhân vật Đôn Ki-hô-tê và lí tưởng tốt đẹp của chàng.

Nhân vật Xan chô Pan xa chỉ là một nhân vật phụ. Nhân vật này luôn luôn thực tế và thực dụng. Anh ta không sống theo sách vở, thích được lợi, thích ăn ngon và ngủ kĩ, thích cuộc sống nhàn hạ. Khác biệt lớn nhất là anh ta không theo đuổi một lí tưởng, hành động thực tế, tránh xa những gì nguy hiểm. Có thể nói gọn lại Xan chô Pan xa là người giản dị trong tư tưởng, giản dị trong tình cảm. Điều đó vừa tương phản, lại vừa bổ sung làm nổi bật tính cách của Đôn Ki-hô-tê.

Nêu phải so sánh hai nhân vật thì cần nhấn mạnh đến việc theo đuổi lí tưởng tốt đẹp, dũng cảm chiến đấu, xông vào nơi nguy hiểm là nét khác biệt và nổi trội ở Đôn Ki-hô-tê.

Nếu Đôn Ki-hô-tê là người có tinh thần hiệp sĩ, luôn theo đuổi lí tưởng cao đẹp, chàng dũng cảm, lao thẳng vào hiểm nguy nhưng lý tưởng lại xa rời thực tế, hành động mù quáng, điên rồ, làm theo sách vở kiếm hiệp một cách mù quáng thì Xan-chô Pan-xa lại là người hết sức thực dụng, luôn tránh xa những mối nguy hiểm, đầu óc luôn luôn thực tế, hành động tỉnh táo, khôn ngoan, sống và làm theo sở thích tự nhiên.

Nghệ thuật nổi bật nhất trong đoạn trích chính là xây dung tính cách  tương phản vừa đối lập, vừa bổ sung cho nhau. Trước những cối xay gió, trước vết thương, trước việc ăn và ngủ, hai nhân vật đều suy nghĩ và hành động khác hẳn nhau. Điều đó làm rõ đặc điểm của mỗi nhân vật.

Trong đoạn còn nổi lên nghệ thuật hài hước trong kể chuyện và miêu tả. Cách xử sự nhất nhất đều theo sách vở của Đôn Ki-hô-tê, sự xa rời thực tế và cố chấp của chàng hiệp sĩ giao đấu với cối xay gió… tạo ra những tình huống hài hước.

  • Kết bài:

Với giọng điệu hài hước, phê phán, cách xây dựng được cặp nhân vật tương phản kinh điển, Đôn Ki-hô-tê và Xan-chô Pan- xa đã tạo nên một cặp nhân vật bất hủ. Qua đó tác giả còn muốn báo trước sự xuất hiện của thời đại phục hưng với những con người mới, những tính cách mới nghị lực mới và sáng ngời chủ nghĩa nhân văn.

Cảm nghĩ về nhân vật Đôn-ki-hô-tê

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang