Phân tích hình ảnh ông ngư trong đoạn trích “Lục Vân Tiên gặp nạn”
- Mở bài:
Hành động cứu người của ông Ngư sáng ngời lí tưởng nhân nghĩa của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, mong ước trong cuộc sống này luôn có những tấm lòng thân ái, bao dung, sẵn sàng cứu người mà không màng danh lợi, hiểm nguy.
- Thân bài:
Ông Ngư là một người có những việc làm nhân đức và nhân cách vô cùng cao đẹp. Thấy người bị nạn, ông Ngư nhanh nhẹn “vớt ngay lên bờ”, rồi: “hối con vầy lửa”, tất bật hơ bụng dạ, hơ mặt mày cứu sống người xấu số. Hành đống hết sức gấp gáp. khẩn trương, hết mình vì sự sống của nạn nhân đã gợi tả được mối chân tình của gia đình ông Ngư đối với người bị nạn. Việc làm này thật đẹp đẽ vì chưa biết nạn nhân là ai, chưa rõ nguyên cớ thế nào nhưng thấy việc là làm, thấy người là cứu ân cần chu đáo. Đó là bản tính của con người lương thiện, những người lao động bình thường.
Sau khi cứu sống Vân Tiên, biết tình cảnh khốn khổ của chàng, ông Ngư sẵn lòng cưu mang chàng, dù chỉ là chia sẻ một cuộc sống đói nghèo “tương rau”, nhưng chắc chắn đầm ấm tình người “hôm mai hẩm hút”. Tấm lòng của Ngư quả là bao dung, nhân ái, hào hiệp, rộng lượng vô cùng.
Ông cũng không hề tính toán đến cái ơn cứu mạng và Vân Tiên chẳng thể báo đáp. “Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”. Ông không ham muốn, ước mơ chút nào về tiền bạc, của cải, ông chỉ “dốc lòng nhân nghĩa” là thương người, cố hết sức mình cứu giúp con người, luôn tìm việc nghĩa, hướng về điều thiện, thật hào hiệp, vô tư.
Cuộc sống đẹp của ông Ngư thật trong sạch và cao đẹp. Ông Ngư đã sống một cuộc sống thảnh thơi giữa sông nước, gió trăng và vì thế cũng đầy ắp niềm vui. Cách ông suy nghĩ, quan niệm về cách sống thật lương thiện, thật đẹ đẽ.
Cuộc sống ấy thật hạnh phúc, hoàn toàn xa lạ với những kẻ toan tính nhỏ nhen, ích kỷ, mưu danh, trục lơi, sẵn sàng chà đạp lên cả đạo đức, nhân nghĩa… Cuộc sống ấy thât đáng kính, đáng trọng!
Lời nói của ông Ngư về cuộc sống của mình chính là những tiếng lòng của Nguyễn Đình Chiểu, những khát vọng về cuộc sống tốt đẹp, về một lối sống đáng mơ đối với con người. Cảm xúc chủ quan của nhà thơ là làm cho cuốc sống của người dân chài bình thường trên sống nước có vẻ như được thi vị hoá, trở nên thơ mộng hơn, nhưng cốt lối vẫn là trung thực.
Đoạn thơ cuối là môt đoạn thơ hay của tác phẩm.Ý tứ phóng khoáng sâu xa, lời lẽ thanh thoát, uyển chuyển, hình ảnh thơ đẹp, gợi cảm. Một khoảng thiên nhiên cao rộng, khoáng đạt mở ra với những đồi, vịnh, chích, đầm, bầu trời, đất, gió trăng…Con người hòa nhập vào trong cái thế giới thiên nhiên ấy, không chút cách biệt: hứng gió, chơi trăng, tắm mưa, chải gió… Niềm vui sống từ đó cũng dường như đầy ắp cái cõi thế của con người ấy. Tác giả đã dùng nhiều từ chỉ trạng thái tâm hồn thanh thản, vui sống ấy: vui vẩy, thong thả, nghêu ngao, vui thầm, thung dung, vui say… hết sức sảng khoái, có cảm giác như chính tác giả đang nhập thân vào nhân vạt để nói lên khát vọng và niềm tin yêu cuộc đời.
Rũ bỏ mọi danh lơi, tìm về với sông nước để “rửa ruột sạch trơn”. Nay vào vịnh, mai ra khơi, ngày hứng gió mát, đêm bè bạn với trăng thanh chẳng mảy may ưu đời mẫn thế. Ngư Ông đã chọn được một phong cách sống thật phóng khoáng và tự do. Tấm lòng ông trong sạch, gia đình, nhà cửa, cả hình hài, thể xác lẫn tâm hồn như hoà nhập với biển trời, sông nước. Cặp từ “ hứng gió”, “chơi trăng” cho ta thấy hình ảnh một con người đang mơ mộng, hệt như một thi sĩ vậy. Mơ mộng nhưng không mơ hồ, tuỳ tiện, mà rất chủ động, ung dung, ứng phó với mọi tình thế. “Một mình thong thả làm ăn. Khoẻ quơ chài kéo, mệt quăng câu dầm”.
Đoạn thơ gửi gắm khát vọng của Nguyễn Đình Chiểu vào niềm tin về cái chân thiện, vào con người lao động bình thường và thiện lương. Ông đã bộc lộ quan điểm nhân dân rất tiến bộ. Từng trải cuộc đời, Nguyễn Đình Chiểu hiểu rất rõ rằng cái xấu, cái ác thường lẩn khuất sau những mũ cao, áo dài của bọn người có địa vị cao sang (như thái sư đương triều, Võ Công, Trịnh Hâm, Bùi Kiệm…), nhưng vẫn còn những cái tốt đẹp, đáng kính trọng, đáng khao khát, tồn tại bền vững nơi những con người lao động nghèo khổ mà nhân hậu, vị tha, trọng nghĩa khinh tài (những ông Ngư, ông Tiều, chú tiểu đồng, bà lão dệt vải…). Nhà thơ Xuân Diệu đã nói đúng: “đối với người lao động, sự kính mến họ là một đặc điểm trong tâm hồn Đồ Chiểu”.
Đọc hết tác phẩm, ta nhận rõ, quan niệm sống của nhân vật Lục Vân Tiên và nhân vật ông Ngư trong truyện “Lục Vân Tiên”của Nguyễn Đình Chiểu có những nét giống nhau đó và nêu rõ đó là quan niệm sống.
Quan niệm sống của nhân vật Lục Vân Tiên và nhân vật ông Ngư trong truyện Luc Vân Tiên có những nét giống nhau. Đó là không ham muốn, ước mơ về tiền bac, của cải, chỉ dốc sức mình cứu giúp con người, luôn tìm việc nghĩa, vì điều thiện mà hành đông một cách hào hiêp, vô tư.
Sau khi đánh tan bọn cướp hung bạo, cứu Kiều Nguyệt Nga khỏi con hoạn nạn, nàng ngỏ lời xin được đáp tạ ơn sâu, Lục Vân Tiên mỉm cười ngạo nghễ nói rằng: “Làm ơn há dễ trông người trả ơn”. Bởi chàng vốn là người trọng nghĩa khinh tài, quý trọng cái đạo của người quân tử, cái chí của người anh hùng:
“Lâm nguy chẳng kịp giải nguy.
Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi”
Ở ông Ngư, ta cũng thấy rõ nhân cách cao cả, hành động vo tư, phóng khoáng ấy. Khi Lục Vân Tiên tỉnh dậy, cảm tạ ân sâu, hứu một lòng báo đáp, ông Ngư phân trần:
“Ngư rằng lòng lão chẳng mơ
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn”.
- Kết bài:
Kẻ ích kỉ làm việc là để mong được báo đáp. Không có hồi đắp ắt sẽ không làm. Người vì nghĩa sẽ tự nguyện ra tay cứu người mà chẳng hề cầu mong danh lợi. Hình ảnh ông Ngư và Lục Vân tiêng thật đáng để chúng ta trân trọng và ngưỡng mộ.
- Tư tưởng “;nhân nghĩa” trong thơ Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu
- Phân tích tâm địa độc ác của Trịnh Hâm qua hành động hãm hại bạn mình là Lục Vân Tiên