phan-tich-hinh-tuong-nguoi-anh-hung-quang-trung-nguyen-hue

Phân tích hình tượng người anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ

Phân tích hình tượng người anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ trong “Hồi thứ 14”.

  • Mở bài:

Hoàng Lê nhất thống chí được coi là cuốn tiểu thuyết lịch sử, viết bằng chữ Hán theo lối chương hồi của Ngô gia văn phái. Tác phẩm không chỉ ghi chép lại sự thống nhất của vương triều nhà Lê mà còn tái hiện lại cả một giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến nước ta trong ba mươi năm cuối thế kỉ XVIII và mấy năm đầu của thế kỉ XIX. Nổi bật trong toàn bộ tác phẩm và nhất là đoạn trích “Hồi thứ 14” là hình tượng người anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ, một vị vua anh minh kiệt xuất, có tài cầm binh đánh trận, mưu lược dũng cảm, và có tầm nhìn xa trông rộng.

  • Thân bài:

Dù đứng ở phía đối lập, nhưng các tác giả Ngô Gia văn phái đã dành cho Quang Trung Nguyễn Huệ những trang viết vô cùng đẹp đẽ.

Hoàng đế Quang Trung hiện lên trong tác phẩm là một con người anh minh sáng suốt coi trọng kẻ hiền tài, biết lắng nghe lời khuyên can của tì tướng dưới quyền, cắt đặt người đúng nơi, đúng chỗ.

Khi nghe 29 vạn quân Thanh ồ ạt tràn sang đánh nước ta, Nguyễn Huệ vô cùng tức giận. Ông định thân chinh cầm quân dẹp giặc nhưng vì các tướng đều hết mực khuyên can “trước phải chính vị hiệu để yên kẻ phản trắc, giữ lấy lòng người” nên bèn “đắp đàn ở trên núi Bân, tế cáo trời đất”, “lên ngôi hoàng đế”, “lấy niên hiệu là Quang Trung”.

Hành động này chứng tỏ Nguyễn Huệ tuy là người tài ba dũng lược, mưu trí hơn người nhưng không bao giờ kiêu căng, ngao mạn, tự ý làm càn. Ngược lại, ông luôn biết bàn bạc, lắng nghe ý kiến của tì tướng dưới quyền để tránh đưa ra những quyết định sai lầm.

Sau khi chấn chỉnh đội hình, đoàn quân lập tức vượt ngàn dặm đường xa. Dù vô cùng mệt mỏi nhưng vừa ra đến Nghệ An, ông lập tức tìm gặp người cống sĩ La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp để bàn kế đánh giặc. Điều đó cho thấy Nguyễn Huệ là người biết trọng kẻ hiền tài để dùng mưu toan nghiệp lớn. Hành động luôn rất thận trọng, mặc dầu phương lược tiếng đánh đã có sẵn nhưng không vì thế mà chủ quan, khinh suất.

Sự anh minh sáng suốt của Nguyễn Huệ còn thể hiện ở cái tài dùng người, tiên đoán mọi chuyện như thần, biết được sở trường, sở đoản của các tướng mà cắt đặt người đúng nơi, đúng chỗ. Chẳng hạn, khi Quang Trung vừa ra đến Tam Điệp, hai ông Lân, Sở đem gươm ra chịu tội vì để mất kinh thành Thăng Long. Vua Quang Trung phân tích tình hình biết hai ông Lân, Sở vốn là “hạng võ dũng, chỉ biết gặp giặc là đánh, đến như việc tùy cơ ứng biến thì không có tài”, lại thêm “Bắc hà mới yên, lòng người chưa phục, Thăng Long lại là nơi bị đánh cả 4 mặt, không có núi sông hiểm trở để nương tựa”. Đó là một phán đoán đúng đắn.

Nếu bọn người trong thành và quân nhà Thanh trong ứng ngoài hợp thì khó lòng giữ nổi. Vậy nên rút binh về trấn giữ nơi tọng yếu để bảo toàn lực lượng. Trong thì kích thích lòng quân, ngoài thì làm cho giặc kiêu căng. Ấy là kế sách vẹn toàn, hoàn bị. Do đó, nhà vua chẳng những không trách tội hai ông Lân, Sở mà còn khen kế sách ấy không ai khác ngoài Ngô Thì Nhậm khiến cho ba quân tướng sĩ ai nấy đều khâm phục. Chính hành động ấy, Quang Trung Nguyễn Huệ đã củng cố lòng tin sâu sắc trong lòng tướng sĩ, khơi bừng ý chí chiến đấu của đại quân.

Quang Trung Nguyễn Huệ là người có tài cầm binh đánh trận. Không những hết sức dũng cảm, đa mưu mà làm việc gì cũng có chủ đích. Hành động quyết đoán, nhanh gọn, thần tốc khiến cho giặc không kịp trở tay.

Khi mới nghe tin giặc tràn sang đánh nước ta, ông đã định ngay được kế sách đánh giặc, sẵn sàng đương đầu với quân thù để giữ yên bờ cõi. Dù quân giặc có hùng mạnh cũng không hề khiến ông nao núng sợ hãi. Ông từng bảo với các tướng sĩ: “Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi ngày là có thể đuổi được người Thanh”. Với chi tiết này, ta cũng đủ thấy Nguyễn Huệ thật sự là con người thông minh, bản lĩnh; đa mưu túc trí; có tài cầm binh đánh trận, làm việc gì cũng có chủ đích, hoạch định từ trước.

Rồi sau khi lên ngôi vua, ông lập tức tiến quân ra Nghệ An. Trên đường đi, không ngừng chiêu dụ, tuyển mộ thêm binh lính để huy động sức mạnh của toàn dân vào cuộc kháng chiến của dân tộc. Cứ ba suất đinh thì lấy một người, chẳng mấy lúc đã được hơn một vạn quân tinh nhuệ. Hành động vô cùng mau lẹ, nhanh gọn.

Rồi sau đó, ông mở cuộc duyệt binh lớn; thao luyện số binh vừa tuyển chọn; sắp xếp, bố phòng quân đội quy củ, chặt chẽ, hợp lí. Số quân vừa mới tuyển chưa có kinh nghiệm tác chiến, ông xếp vào trung quân còn những binh lính tinh nhuệ, thiện chiến, đã cùng ông nhiều năm vào sinh ra tử, có nhiều kinh nghiệm chiến đấu thì ông cắt đặt ở ba doanh tiền, hậu, tả, hữu, luôn là lực lượng xung phong đi đầu, dũng cảm xông pha trong các chiến trận.

Nắm được sức mạnh quân đội không phải chỉ nằm ở lực lượng đông đảo mà còn phải tinh nhuệ, thiện chiến, có tinh thần chiến đấu dũng cảm, sẵn sàng xả thân mình vì nghĩa lớn nên Nguyễn Huệ đã viết bài hịch phơi bày tội ác của kẻ thù. Ông làm bài hịch kêu gọi ba quân tướng sĩ trên dưới một lòng, đồng tâm hiệp lực, quyết đánh đuổi quân thù, giữ gìn biên cương bờ cõi:

Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để đen răng
Đánh cho nó chích luân bất phản
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn
Đánh cho sử tri nam quốc anh hùng chi hữu chủ.

Lời lẽ hùng hồn đanh thép như máu tuôn ra trên đầu ngọn bút đã khơi dậy trong lòng tướng sĩ lòng căm thù giặc sâu sắc, và niềm tin mạnh mẽ vào sức mạnh của dân tộc trong cuộc chiến một mất một còn với quân thù. Một bài hịch mà có sức mạnh như một đội quân với hàng vạn binh hùng tướng mạnh, có thể thu phục lòng người về một mối thì cũng đủ cho thấy Nguyễn Huệ đúng là con người tài ba, khôn ngoan, mưu lược đến bậc nào.

Cái tài cầm binh đánh trận của Nguyễn Huệ còn thể hiện ở chỗ chỉ trong mười mấy ngày mà đánh cho 29 vạn quân nhà Thanh phải tan thành đại bại, rút quân về nước. Tiêu biểu cho cái tài cầm binh đánh trận thần tốc mau lẹ ấy là hai trận Hạ Hồi và Ngọc Hồi đã được lưu danh vào sử sách như những mốc son chói lọi trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.

Để có được những thắng lợi ấy, ông đã bí mật cho tướng sĩ ăn Tết sớm rồi ngay đêm 30 lập tức lên đường tiến quân ra Bắc. Đến sông Thanh Quyết, thấy toán quân Thanh đi do thám từ xa, ông thúc quân truy đuổi bắt sống tất cả, không để sót một tên nào nên những đạo quân thanh đóng ở Hạ Hồi và Ngọc Hồi không hề biết gì cả để từ đó ông bất ngờ tấn công khiến giặc không kịp trở tay.

Đến mồng 3 Tết, năm Kỉ Dậu (1789) nhà vua tới đồn Hạ Hồi, “lặng lẽ vây kín làng ấy, rồi bắt loa truyền gọi, tiếng quân lính thay phiên nhau dạ ran hưởng ứng, nghe như có hơn vạn người khiến bọn quân nhà Thanh ở trong thành ai nấy đều rụng rời, sợ hãi, liền xin ra hàng”.

Như vậy đánh trận này, Nguyễn Huệ không hề hao tốn một binh lính, tướng sĩ mà vẫn phá được thành dễ như trở bàn tay, lại còn thu giữ được nhiều lương thực, khí giới của giặc, điều đó chứng tỏ ông quả là vị tướng tài, đa mưu túc trí.

Sau khi phá xong đồn Hạ Hồi, với mưu kế đánh đồn Ngọc Hồi đã suy tính từ trước. Vua Quang Trung lại truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm thành một bức, bê ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, tất cả là hay mươi bức. Đoạn kén hạng lính khỏe mạnh, cứ mười người khênh một bức, lưng giắt dao ngắn, hai mươi người khác đều cầm binh khí theo sau, dàn thành trận chữ nhất đồng loạt tiến sát đồn Ngọc Hồi.

Quân Thanh chống cự, nổ súng bắn ra, lại dùng ống phun khói nhưng giữa chừng gió đổi chiều, quân Thanh đâm ra tự hại mình. Quang Trung nhân cơ hội đó, gấp rút lệnh cho “đội quân khiêng ván vừa che vừa công thẳng lên trước. Khi gươm giáo của 2 bên đã chạm vào nhau thì quăng ván xuống đất, dùng dao ngắn chém bừa, những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới”.

Quân Thanh đại bại, “giày xéo lên nhau mà chết, thây chất đầy đồng, máy chảy thành sông; tướng giặc Sầm Nghi Đống thắt cổ tự tử”. Đám tàn quân còn sống sót bị Huệ dùng kế nghi binh cho nên vừa chạy tới Vịnh Kiều đẫ bị đội quân voi của Tây Sơn chặn đánh. Bọn chúng sợ hãi trốn xuống đầm mực. Quân Tây Sơn “lùa voi cho giày đạp chết đến hàng vạn người”.

Tôn Sĩ Nghị nghe tin bại trận “sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dẫn bọn lính kị mã của mình chuồn trước qua cầu phao nhằm hướng Bắc mà chạy”. Bọn vua tôi Lê Chiêu Thống cũng vội bỏ kinh thành Thăng Long, phải sống những giờ phút đau đớn tủi nhục, luôn mấy ngày không ăn, ai nấy đều mệt lử. May được người thổ hào giúp sức, cho con chỉ theo lối tắt trong núi mà đi mới có thể thoát đến biên giới.

Quang Trung Nguyễn Huệ là một dũng tướng thực thụ. Tài năng và khí phách của Nguyễn Huệ được tôi luyện và thực chứng trên chiến trường chứ không phải là hư danh.

Chính Nguyễn Huệ là người đã vạch ra kế hoạch tác chiến và tự mình cầm quân đốc thúc. Ngài cưỡi voi chiến, xông vào trận mạc vừa chỉ huy vừa giết giặc. Kết thức trận chiến ở Ngọc Hồi, ngài ngồi trên mình voi, từ trong đám khói đi ra, khuôn mặt đen sạm thuốc súng, áo bào bị rách thật khiến cho quân tướng cảm phục. Hình ảnh ấy kì vĩ giống như một vị thần trong sử thi.

Nguyễn Huệ nói được làm được chứ không phải là vị vua chỉ biết chỉ đạo bằng kế sách. Ông tự tay mình làm những việc cần làm để đảm bảo thắng lợi. Khi quân đến Nghệ An, nghe danh phu tử Nguyễn Thiếp là bậc tài danh lại có quan hệ rộng rãi với sĩ phu Bắc Hà, nguyễn Huệ đích thân mình lên núi mời Nguyễn Thiếp hạ sơn giúp sức. Không gặp được Nguyễn Thiếp, ông nán đợi cho bằng được. Đến khi gặp, ông đem lời tỏ bày, cầu mong phu tử cùng ra trợ giúp. Hành động ấy khiến phu tử vô cùng cảm động.

Quang Trung Nguyễn Huệ là người có tầm nhìn xa trông rộng, yêu nước, thương dân.

Nhìn thấy trước hai ông Lân, Sở không thể một mình giữ được kinh thành Thăng Long, Nguyễn Huệ đã để Ngô Thì Nhậm ở lại phòng khi bất trắc sẽ bày mưu tính kế giúp cho hai ông Lân Sở trấn giữ kinh thành Thăng Long. Quả nhiên đúng như Quang Trung dự đoán, khi 20 vạn quân Thanh ồ ạt tràn sang đánh nước ta thì hai ông Lân, Sở đã không kịp giữ được kinh thành Thăng Long nhưng may nhờ có Ngô Thời Nhậm nghĩ được kế sách vẹn toàn, rút lui về trấn thủ ở những vùng trọng yếu để chờ cơ hội phản công mà quân ta mới bảo toàn được lực lượng.

Cuộc chiến chưa kết thúc mà nhà vua đã nhìn thấy được sự thất bại tất yếu của kẻ thù và còn nghĩ đến việc giao bang sau này. Vậy nên vua đã nghĩ ngay ra kế sách ngoại giao với quân thù sau khi cuộc chiến kết thúc. Đó là ông sẽ dùng ba tấc lưỡi, cái tài ăn nói khéo léo của Ngô Thì Nhậm để tránh một cuộc binh đao cho đất nước, để nhân dân không phải chịu cảnh mất mát, đau thương, lầm than cơ khổ vì giặc giã chiến binh.

Yêu nước, thương dân, làm việc gì cũng nghĩ đến nhân dân, đất nước. Rồi ông còn hoạch định cả một chiến lược giữ nước lâu dài, chiêu binh mãi mã để có thể đối phó với quân thù, giữ yên bờ cõi thái bình thịnh trị đến ngàn sau. Tầm nhìn ấy không phải ai cũng có được.

Mặc dù Nguyễn Huệ là người đã lật đổ Lê triều, một tác giả mà trong nhóm Ngô gia văn phái đã từng chịu ơn sâu nghĩa nặng và rất đỗi trung thành nhưng các ông vẫn khắc họa hình tượng Quang Trung – Nguyễn Huệ thật đẹp đẽ, oai phong lẫm liệt. Trên thực tế Nguyễn Huệ quả thực là một người anh hùng dũng cảm, tài ba thao lược, túc trí đa mưu. Đồng thời ông cũng là người có công lao lớn đối với đất nước, đã lãnh đạo nghĩa quân Lam Sơn đánh tan 29 vạn quân Thanh ra khỏi bờ cõi, giành lại độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà. Con người ấy là hiện thân cho bản lĩnh, tinh hoa, khí phách của dân tộc.

Do đó với thái độ tôn trọng sự thật của những người chép lịch sử và đặc biệt với tấm lòng yêu nước thương dân, đứng trên lập trường của lợi ích quốc gia dân tộc, các tác giả nhóm Ngô gia văn phái đã xây dựng hình tượng Quang Trung – Nguyễn Huệ thật đẹp đẽ, oai phong.

  • Kết bài:

Có thể nói, qua “Hồi thứ 14” của tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí, các tác giả trong nhóm Ngô gia văn phái đã khắc họa thành công hình tượng người anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ, người anh hùng dân tộc, vị tướng tài ba thao lược, dũng cảm đa mưu, đã lãnh đạo nhân dân ta đánh tan quân Thanh xâm lược, giữ yên bờ cõi, thống nhất đất nước. Đã hơn 100 năm trôi qua mà dường như ta vẫn còn nghe bên tai mình tiếng quân reo ngựa hí, hình ảnh Quang Trung oai phong lẫm liệt, xông pha giữa làn tên mũi đạn đốc thúc ba quân tướng sĩ xông thẳng vào thành trì của quân thù, làm nên những chiến thắng vẻ vang giòn giã, lưu danh vào sử sách ngàn đời bất diệt, khiến cho Ngọc Hân công chúa, người vợ đã cùng ông đồng cam cộng khổ không ngớt lời ca ngợi, khâm phục:

“Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình”.

(Ai tư vãn)


Bài tham khảo:

  • Mở bài:

“Hoàng Lê nhất thống chí” là một cuốn tiểu thuyết lịch sử bằng chữ Hấn được viết theo thể chương hồi do nhiều tác giả trong Ngô Gia Văn Phái (Ngô Thì Chí, Ngô Thì Du…) sáng tác. Đây là một bức tranh sâu rộng vừa phản ánh được sự thối nát, suy tàn của triều đình phong kiến Lê – Trịnh, vừa phản ánh được sự phát triển của phong trào Tây Sơn. Trong hồi thứ 14 của tác phẩm, hình tượng người anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ được khắc họa thật cao đẹp với khí phách hào hùng, trí tuệ sáng suốt và tài thao lược hơn người.

  • Thân bài:

Quang Trung Nguyễn Huệ là một dũng tướng hành động mạnh mẽ, quyết đoán:

Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ luôn luôn là con người hành động một cách xông xáo, nhanh gọn có chủ đích và rất quả quyết. Nghe tin giặc đã đánh chiếm đến tận Thăng Long mất cả một vùng đất đai rộng lớn mà ông không hề nao núng “định thân chinh cầm quân đi ngay”.

Rồi chỉ trong vòng hơn một tháng, Nguyễn Huệ đã làm được bao nhiêu việc lớn: “tế cáo trời đất”, lên ngôi hoàng đế, dốc xuất đại binh ra Bắc…

Quang Trung Nguyễn Huệ là một con người có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén:

Ngay khi mấy chục vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị hùng hổ kéo vào nước ta, thế giặc đang mạnh, tình thế khẩn cấp, vận mệnh đất nước “ngàn cân treo sợi Nguyễn Huệ đã quyết định lên ngôi hoàng đế để chính danh vị, lấy niên hiệu là Quang Trung.

Việc lên ngôi đã được tính kỹ với mục đích thống nhất nội bộ, hội tụ anh tài và quan trọng hơn là “để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người’. Việc làm ấy được dân ủng hộ.

Quang Trung sáng suốt trong việc nhận định tình hình địch và ta. Qua lời dụ tướng sĩ trước lúc lên đường ở Nghệ An, Quang Trung đã chỉ rõ “đất nào sao ấy”, “người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác”. Ông còn vạch rõ tội ác của chúng đối với nhân dân tạ: “Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bốc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi ”.

Quang Trung đã khích lệ tướng sĩ dưới quyền bằng những tấm gương chiến đấu dũng cảm chống giặc ngoại xâm giành lại độc lập của cha ông ta từ ngàn xưa như: Trưng nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành…

Quang Trung đã dự kiến được việc Lê Chiêu Thống về nước có thể làm cho một số người Phù Lê “thay lòng đổi dạ” với mình nên ông đã có lời dụ với quân lính chí tình, vừa nghiêm khắc: “các người đều là những người có lương tri, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực để dựng lên công lốn. Chớ có quen thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai”.

Sáng suốt trong việc xét đoán bề tôi. Trong dịp hội quân ở Tam Điệp, qua lời nói của Quang Trung với Sở và Lân ta thấy rõ: Ông rất hiểu việc rút quân của hai vị tướng giỏi này. Đúng ra thì “quân thua chém tướng”. Nhưng không hiểu lòng họ, sức mình ít không địch nổi đội quân hùng tướng hổ nhà Thanh nên đành phải bỏ thành Thăng Long rút về Tam Điệp để tập hợp lực lượng. Vậy Sở và Lân không bi trừng phạt mà còn được ngợi khen.

Đối vói Ngô Thì Nhâm, ông đánh giá rất cao và sử dụng như một vị quân sĩ mưu túc trí. Việc Sở và Lân rút chạy Quang Trung cũng đoán là do Nhậm chủ mưu, vừa là để bảo toàn lực lượng, vừa gây cho địch sự chủ quan. Ông đã tính đến việc dùng Nhậm là người biết dùng lời khéo léo để dẹp việc binh đao.

Quang Trung Nguyễn Huệ là người có tầm nhìn xa, trông rộng:

Mới khởi binh đánh giặc, chưa giành được tấc đất nào vậy mà vua Quang Trung đã nói chắc như đinh đóng cột, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Đang ngồi trên lưng ngựa, Quang Trung đã nói vói Nhậm về quyết sách ngoại giao và kế hoạch 10 tới ta hòa bình. Đối vối địch, thường thì biết là thắng việc binh đao không thể dứt ngay được vì xỉ nhục của nước lớn còn đó. Nếu “10 năm nữa ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh thì ta có sợ gì chúng”.

Quang Trung Nguyễn Huệ là vị tướng có tài thao lược hơn người:

Cuộc hành quân thần tốc do Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn còn làm chúng ta kinh ngạc. Vừa hành quân, vừa đánh giặc mà vua Quang Trung hoạch định kế hoạch chỉ mất 2 ngày.

Hành quân xa, liên tục như vậy nhưng đội quân vẫn chỉnh tề cũng là do tài tổ chức của người cầm quân tài ba bậc nhất cổ kim.

Quang Trung Nguyễn Huệ là vị vua lẫm liệt trong chiến trận, kì vĩ như một chiến binh huyền thoại:

Vua Quang Trung thân chinh cầm quân không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông làm tổng chỉ huy chiến dịch thực sự, trực tiếp xông pha trận mạc, cùng tướng sĩ quyết chiến với kẻ thù.

Dưới sự lãnh đao tài tình của vị tổng chì huy này, nghĩa quân Tây Sơn đã đánh những trận thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù, tiêu diệt kẻ thù đến tận gốc rễ. Trận đánh quyết liệt đến nỗi khiến quân Thanh khiếp đảm hồn vía. Chúng cứ ngỡ như quân dưới đất lên, tướng trên trời xuống.

Khí thế đội quân làm cho kẻ thù khiếp vía và hình ảnh người anh hùng cũng được khắc hoa lẫm liệt: trong cảnh “khói tỏ mù trời, cách gang tấc không thấy gì” nổi bật hình ảnh nhà vua “cưỡi voi đi đốc thúc” với tấm áo bào màu đỏ đã sạm đen khói súng.

Hình tượng người anh hùng Quang Trung Nguyễn Huệ được khắc hoạ khá đậm nét với tính cách manh mẽ, trí tuệ, sáng suốt, nhạy bén, tài dùng binh như thần, là người tổ chức và là linh hồn của chiến công vĩ đại. Trí tuệ và tầm vóc của Quang Trung Nguyễn Huệ không gì sánh bằng. Từ cổ chí kim chưa từng có người  nào được như thế.

  • Kết bài

Với ý thức tôn trọng sự thực lịch sử và ý thức dân tộc sâu sắc, những người trí thức, các tác giả Ngô Gia Văn Phái là những cựu thần chịu ơn sâu, nghĩa năng của nhà Lê, nhưng họ đã không thể bỏ qua sự thực là ông vua nhà Lê yếu hèn đã cõng rắn cắn gà nhà và chiến công lẫy lừng của nghĩa quân Tây Sơn, làm nổi bật hình ảnh vua Quang Trung, người anh hùng áo vải, niềm tự hào lớn của cả dân tộc. Bởi thế họ đã viết thực và hay đến như vậy về người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ. Hồi thứ 14 (trích Hoàng Lê nhất thống chí) xứng đáng là một bản anh hùng ca ngợi ca người anh hùng áo vải dựng cờ đánh giặc cứu nước và sức mạnh của dân tộc ta trong cuộc chiến đấu với kẻ thù xâm lược, bảo vệ độc lập nước nhà.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Lên đầu trang